Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tiếp biến văn hóa trong hình tượng Cao Đài Tam Thánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.03 KB, 5 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

TIẾP BIẾN VĂN HĨA TRONG HÌNH TƯỢNG CAO ĐÀI TAM THÁNH
DƯƠNG VĂN HẬU, ĐẶNG VĂN CHƯƠNG
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Tóm tắt: Ra đời ở Việt Nam từ nửa đầu thế kỷ XX, đến nay đạo Cao Đài đã ảnh
hưởng rộng rãi đến đời sống tín ngưỡng tôn giáo của cộng đồng người Việt ở trong
và ngồi nước1. Là một tơn giáo bản địa, song Cao Đài được xây dựng trên nền tảng
dung hợp nhiều yếu tố văn hóa, tơn giáo khác nhau trên thế giới. Bài viết tập trung
nghiên cứu về sự tiếp biến văn hóa Đơng – Tây trong đạo Cao Đài thơng qua hình
tượng Tam Thánh Cao Đài ký hịa ước.
Từ khóa: Cao Đài, Tam thánh, tiếp biến văn hóa.

1. DẪN NHẬP
Tam Thánh là một hình tượng đặc sắc trong đạo Cao Đài.
Hình tượng Tam Thánh thể hiện thông qua bức vẽ “Tam thánh
ký hòa ước” được đặt trong các đền thánh, thánh thất của đạo
Cao Đài. Bức vẽ miêu tả ba vị thánh gồm: Nguyễn Bỉnh Kiêm,
Victor Hugo và Tôn Trung Sơn đang ký một bảng hịa ước mà
tín hữu đạo này cho rằng đó là bảng hịa ước của Trời và Người
nhằm hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. Việc lựa chọn nhân vật cũng
như xây dựng kết cấu nội dung thông qua miêu tả giữa yếu tố
hiện thực và huyền bí đã tạo nên một giá trị riêng chỉ có ở Tam
Thánh Cao Đài. Bên cạnh những giá trị văn hóa tâm linh, hình
tượng Tam thánh thể hiện sinh động q trình tiếp biến văn hóa
ngoại sinh thành văn hóa nội sinh ở Việt Nam.
Hình 1. Cao Đài Tam thánh

2. NỘI DUNG


2.1. Cơ sở tạo dựng hình tượng Cao Đài Tam Thánh

(Nguồn: wikipiedia.org)

Giáo lý của Cao Đài luôn hướng đến mục đích quy nguyên tam giáo, hiệp nhất ngũ chi
để giải thích cho sự sáng tạo vũ trụ và hình thành tư tưởng đại đồng tôn giáo. Tam giáo bao
gồm Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo là các tôn giáo có ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đến đời sống
văn hóa của cộng đồng người Việt và đã trở thành hệ tam giáo đồng nguyên trong tư tưởng văn
hóa Việt [1, tr.1000]. Khi giải thích cho quan điểm tam giáo đồng nguyên hoặc quy tam giáo
của mình, quan niệm của đạo Cao Đài cho rằng, các tôn giáo trước khơng cịn đủ khả năng cứu
rỗi nhân loại nên đạo Cao Đài phải ra đời để cứu độ chúng sanh. Nhưng đạo Cao Đài không
phải là một tôn giáo mới hồn tồn mà đã chọn lựa, quy hợp những gì “tinh tú” nhất của các
nền văn hóa và tơn giáo trước cịn ngun giá trị để đưa vào trong tơn giáo của mình nhằm
thống nhất và hồn thiện giáo lý. Tư tưởng tôn giáo cơ bản của tôn giáo này được biểu hiện
trong câu khấn của tín đồ dành cho Đức Chí tơn (Ngọc Hồng Thượng đế) là Cao Đài Tiên Ơng
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Trong đó:
- Cao Đài chỉ về Nho giáo, có nghĩa là cái Đài cao rất mực (Thái-cực) ngôi của Đấng
Chúa tể càn khôn mà Nho giáo sùng bái dưới biểu tượng Thượng đế.
- Tiên Ông chỉ về một vị Đại giác Kim Tiên trong Đạo giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ về phẩm vị của một vị Phật trong Phật giáo.
1

Theo số liệu thống kê của Ban Tơn giáo Chính phủ năm 2011 thì có 2,4 triệu tín đồ Đạo Cao Đài.

116


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019


Từ tư tưởng quy nguyên Tam giáo ấy, đạo Cao Đài đã xây dựng nên một quan điểm nữa
là Hiệp ngũ chi, nghĩa là gộp 5 nhánh đạo về một mối. Năm nhánh đạo đó là Phật đạo, Tiên
đạo, Thánh đạo, Thần đạo và Nhân đạo [1, tr.1007]. Trong đó, Phật vì thương đời mà tìm cơ
giải khổ; Tiên vì thương đời mà bày cơ thốt khổ; Thánh vì thương đời mà dạy cơ thọ khổ,
Thần vì thương đời mà lập cơ thắng khổ; Nhân vì thương đời mà đạt cơ tùng khổ [5, tr.62].
Tư tưởng của đạo Cao Đài là sự tổng hợp của các giáo lý có trước và từ đó đã tạo nên
một thế giới thần linh có sự “phân tầng” theo vũ trụ quan ấy. Trong đó, chịu trách nhiệm cao
nhất ở “xã hội” này là Ngọc Hoàng Thượng đế, kế đến là các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần. Với
sự phân tầng này, vũ trụ quan (thế giới siêu linh) của đạo Cao Đài là một xã hội thiêng liêng có
thứ bậc. Các đấng giáo chủ, đại trí, đại giác của những tơn giáo trước như Thích ca, Khổng tử,
Lão tử, Jêsu… [5, tr.63] đều là những bậc thừa hành mệnh lệnh của Thượng đế hoặc là chiếc
thân của Thượng đế phái xuống trần gian để gây dựng tôn giáo nhằm cứu rỗi nhân loại thốt
khỏi sự đau khổ của chúng sinh. Tín đồ Cao Đài tin rằng, đến khi đạo Cao Đài ra đời, các tơn
giáo đã hết vai trị cứu rỗi nhân sinh, nên các đấng giáo chủ ấy được quy về đạo Cao Đài để
hợp nhất trong việc giải thoát nhân loại lần cuối cùng.
Như vậy, về mặt tư tưởng đạo Cao Đài thật sự là một tôn giáo tổng hợp nhiều tơn giáo.
Với quan điểm cởi mở về văn hóa và cơ chế phân tầng tôn giáo dựa trên một logic thời gian
lịch sử ra đời của các tôn giáo lớn trên thế giới. Đạo Cao Đài đã thành công trong việc tạo ra
một mô thức mới về nhận thức tôn giáo trong thời kỳ giao thoa văn hóa Đơng Tây. Việc này
giúp cho giáo lý đạo Cao Đài trở nên mềm dẻo hơn, bao trùm hơn và khơng bị chính giáo lý
của nó ràng buộc nó khi có một sự thay đổi hay phát triển nào về mặt tư tưởng. Điều này, trong
một thời gian dài được biết như là trở ngại nhất định đối với một số tôn giáo trong q trình
phát triển của mình. Chính vì tư tưởng mở ấy đã giúp cho hình tượng Tam Thánh có cơ sở vững
vàng trong việc việc sáng tạo hình tượng tơn giáo của đạo Cao Đài.
2.2. Tiếp biến văn hóa trong việc xây dựng biểu tượng Cao Đài Tam Thánh
Trên cơ sở tư tưởng cởi mở về văn hóa đã tạo thuận lợi nhất định trong việc xây dựng
hình tượng Tam thánh. Tuy nhiên, việc lựa chọn nhân vật, xây dựng kết cấu nội dung và ý nghĩa
của hình tượng Tam Thánh ký Hịa ước mang lại thật sự khơng phải ai cũng dễ dàng nhận thấy.
Chúng được xây dựng công phu, không những mang giá trị thuần túy về mặt nghệ thuật qua

bức vẽ mà còn chứa đựng sự tiếp biến văn hóa vừa rõ ràng cụ thể nhưng cũng vừa ẩn kín phản
ánh giá trị nhân văn sâu sắc. Điều này được thể hiện cụ thể qua các yếu tố sau:
Một là, tính mở trong việc lựa chọn nhân vật
Ba vị thánh trong hình tượng Tam Thánh ký Hịa ước là: Nguyễn Bỉnh Kiêm, Victor Hugo
và Tơn Trung Sơn. Đó là ba nhân vật lịch sử, các vị này đều có đóng góp lớn lao cho lịch sử và
văn hóa của Việt Nam, Pháp, Trung Quốc và được suy tôn thành các bậc thánh [3, tr.417]. Việc
lựa chọn các nhân vật lịch sử để thánh hóa trong tơn giáo khơng phải mới. Nhưng điều đó là
cần thiết vì nó ít nhiều gây được cảm giác tin tưởng và gần gũi đối với các tín đồ trong việc
truyền bá hình tượng này. Có thể nói, hình tượng Tam Thánh ký Hòa ước thể hiện cho sự giao
thoa, hòa hợp của các nền văn hóa trong việc tạo nên một thế giới hịa bình, bác ái, hữu nghị và
tiến bộ xã hội - mà nhu cầu lịch sử, xã hội lúc bấy giờ hướng đến. Thật vậy, đến cuối thế kỷ
XIX, hầu hết các quốc gia ở khu vực châu Á mà đặc biệt là Đông Nam Á đều trở thành thuộc
địa của các nước phương Tây. Cùng với quá trình thuộc địa hóa thì q trình giao lưu văn hóa
Đơng - Tây diễn ra sơi động hơn bao giờ hết. Việt Nam vào những thập niên đầu của thế kỷ XX
đã tiếp nhận, tiếp biến mạnh mẽ văn hóa Đơng - Tây, nhất là văn hóa Pháp - Nhật Bản - Trung
Quốc... Vì thế, những nhân vật trên được lựa chọn để đại diện cho một giá trị lịch sử văn hóa
nhất định của mình. Theo lý giải của đạo Cao Đài thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đại diện cho văn
117


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

minh phương Đông, Victor Hugo đại diện cho nền văn minh phương Tây và Tôn Trung Sơn
đại diện cho sự giao lưu Đơng-Tây.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) cịn có tên là Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, người làng
Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, xứ Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh
Bảo, tỉnh Hải Phịng). Năm 1534, ơng đỗ đầu kỳ thi Hương, năm tiếp theo 1535, sau đó đỗ đầu
hai kỳ thi Hội, thi Đình. Sau tám năm làm quan ông đã lui về ở ẩn, lập am Bạch Vân, lấy tên

hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn thường tự trau dồi học vấn và rất tinh thông
lý số dịch học [4, tr.308-309]. Với sự un thâm vốn có, ơng được triều đình nhà Mạc và sĩ phu
đương thời phong là Trình Tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học
của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện – hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống
Nho), phong tước Trình Quốc Cơng, hàm thượng thư bộ Lại mà người đời thường cịn gọi ơng
là Trạng Trình. Chính dựa vào cuộc đời trong sáng, tài năng phi thường về lý số dịch học cũng
như khả năng tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đạo Cao Đài xem ông như một vị thánh đại diện
cho văn minh phương Đơng trong q trình tiếp biến văn hóa của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX
ở khu vực Nam Bộ. Đó chính là nghệ thuật chuyển hóa lịng tin của tín đồ Cao Đài đối với
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ một nhân vật lịch sử văn hóa thành một vị thánh để tôn thờ
Victor Hugo (1802-1885) là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng của nước Pháp.
Ông cũng đồng thời là một nhà chính trị, một trí thức dấn thân tiêu biểu của thế kỷ XIX. Victor
Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp. Thành công vang dội của hai tác
phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris và Những người khốn khổ đã đưa Victor Hugo trở thành tiểu thuyết
gia nổi tiếng của công chúng. Ông được người đương thời ngưỡng mộ. Cuộc lưu đày 20 năm
trong đế chế thứ hai1 của ông đặt ra sự suy ngẫm cho nhiều thế hệ về vai trị của một nhà văn
trong đời sống chính trị xã hội. Những lựa chọn mang tính đạo đức và chính trị của Victor
Hugo, cùng với những kiệt tác văn học đã đưa ông trở thành gương mặt nổi bật của thời đại đó.
Cũng như Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà văn Pháp nổi lên như một người trắc ẩn đối với nổi thống
khổ của con người, đấu tranh cho bình đẳng của xã hội phương Tây bấy giờ. Những việc làm
đó có cùng mẫu số chung nhất định liên quan đến thuộc tính của tơn giáo là tính nhân đạo và
nhân văn hướng thiện [2, tr.197]. Hơn nữa, vì Việt Nam lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, do
đó ảnh hưởng của văn hóa Pháp đến Việt Nam ngày càng sâu rộng. Việc lựa chọn Victor Hugo
để đại diện cho nền văn minh phương Tây có giá trị truyền tải mạnh mẽ hơn các nhân vật khác
trong việc thánh hóa nhân vật này.
Tôn Trung Sơn (1866-1925), quê ở huyện Hương Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Tôn Trung Sơn bắt đầu hoạt động chính trị từ những năm 90 thế kỷ XIX. Ông nêu lên cương
lĩnh của chủ nghĩa Tam dân: dân tộc (độc lập), dân quyền (tự do) và dân sinh (hạnh phúc). Năm
1911, ông lãnh đạo cách mạng Tân Hợi, cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc, đánh
đổ sự thống trị của triều đình Mãn Thanh, kết thúc chế độ phong kiến, lập nên nước Trung Hoa

Dân Quốc. Tôn Trung Sơn là một nhà cách mạng vĩ đại, suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc,
hạnh phúc, tự do cho nhân dân. Tuy khác về hình thức, song giữa Tôn Trung Sơn với hai nhân
vật trên đều có điểm tương đồng về sự cứu rỗi nhân loại. Mặt khác, ơng sống vào thời văn hóa
Đơng-Tây giao thoa sâu rộng, và chính ơng là người áp dụng những giá trị văn minh phương
Tây kết hợp với triết lý phương Đông qua học thuyết “Trung học vi thể, Tây học vi dụng” của
buổi đầu cuộc Cách mạng ở Trung Quốc. Vì lẽ đó, Tơn Trung Sơn xứng đáng trở thành người
kết nối giữa hai nền văn minh Đông-Tây để đạt tới sự hịa bình hữu nghị như đạo Cao Đài lý
giải và vươn tới.
Đế chế hai hay Đế quốc Đức được thiết lập năm 1871 sau sự kiện thống nhất Đức và chiến tranh Pháp Phổ
(1870-1871).
1

118


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

Hai là, tính nhân văn và dân tộc trong việc xây dựng hình tượng Tam thánh ký hịa ước
Hình tượng Tam thánh ký hòa ước được truyền tải bằng nghệ thuật hội họa. Với việc xây
dựng nội dung không thật-huyền bí mang màu sắc tơn giáo bằng sự kiện ba vị thánh này ký một
bảng hòa ước. Nếu xét về thời gian, thì điều này khơng thể trở thành hiện thực vì ba vị thánh này
khơng sống cùng thời. Tuy nhiên, hình tượng được xây dựng trên cơ sở những nhân vật trong lịch
sử kết hợp với đặc trưng về an ủi và cứu rỗi của tơn giáo nói chung nên hình tượng Tam thánh dễ
dàng được các tín đồ Cao Đài chấp nhận, tơn kính và lan tỏa. Nội dung của Tam thánh ký hòa
ước là: Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ , tức là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, mặc triều phục của một
quan văn Đại thần Việt Nam thuở xưa, Ngài cầm bút lông mèo viết vừa xong 8 chữ Hán, phiên
âm là: Thiên thượng Thiên hạ - Bác ái Cơng bình. Đức Nguyệt Tâm Chân Nhân, tức văn hào
Victor Hugo, mặc áo mão giống vị Bá tước Âu châu thời Trung Cổ, vì Ngài là một Hàn lâm Học

sĩ lúc bấy giờ. Ngài cầm bút lông ngỗng viết 6 chữ Pháp : Dieu et Humanité - Amour et Justice.
Sáu chữ Pháp này nghĩa là : Trời và Nhân loại - Bác ái và Công lý. Đức Tôn Trung Sơn, tức là
Tôn Dật Tiên mặc quốc phục Trung Quốc cầm nghiên mực rực rỡ ánh hào quang, để cho 2 vị kia
chấm bút vào mà viết ra chữ. Điều đó tượng trưng cho sự hiểu biết và tơn trọng văn hóa Đơng
phương và văn hóa Tây phương hòa hợp cùng nhau đặt trên nền tảng Triết lý Nho giáo của Đức
Khổng Tử. Bản Thiên Nhân Hòa Ước được viết lên tấm bảng đá cũng rực rỡ ánh hào quang, được
2 vị Thánh viết ra để công bố cho chúng sanh biết bằng 2 thứ chữ : Chữ Hán, cũng là chữ Nho
của Việt Nam, là chữ viết có ảnh hưởng lớn ở vùng Đơng Á. Và chữ Pháp của nước Pháp, là chữ
viết có nhiều ảnh hưởng ở các nước Châu Âu. Nội dung của Bản Thiên Nhân Hịa Ước này rất
đơn giản, chỉ gồm có 4 chữ: BÁC ÁI - CƠNG BÌNH [3, tr.417]. Hình tượng Tam thánh không
chỉ phát đi một thông điệp thiêng liêng về Công bằng, Bác ái – những giá trị văn hóa phổ qt
của nhân loại mà cịn thể hiện niềm tự hào dân tộc qua hình tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm – đại diện
cho văn hóa Việt Nam và phương Đơng.
Ba là, tính hiện thực của hình tượng Tam thánh ký hòa ước
Tam thánh ký Hòa ước ra đời năm 1947 và đến năm 1948 mới được giới thiệu rộng rãi1.
Hình tượng Tam thánh ngoài những giá trị về mặt tư tưởng của đạo Cao Đài hướng đến: Bác ái
- Công bình - Nhân văn. Bức vẽ cịn phản ánh đời sống chính trị-xã hội Việt Nam mà nhất là ở
Nam Bộ những thập niên đầu của thế kỷ XX. Điều đó một phần nào nói lên được tiếng nói của
Cao Đài với tư cách là một tổ chức xã hội của người Việt Nam đấu tranh cho dân tộc Việt Nam
trong lúc thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai sau năm 1945.
3. KẾT LUẬN
Hình tượng Tam thánh Cao Đài ra đời ở Nam Bộ Việt Nam những thập niên đầu của thế
kỷ XX đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân dân Nam Bộ trong bối cảnh mất
nước. Đồng thời là một sáng tạo nghệ thuật, thể hiện sinh động q trình tiếp biến văn hóa ngoại
sinh thành nội sinh của đạo Cao Đài nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. Giá trị của Hình
tượng Tam thánh vừa là một bức tranh nghệ thuật vừa là một bức tranh tơn giáo - lịch sử, có ý
nghĩa thiêng liêng đối với tín đồ tơn giáo này.
Hình tượng Tam thánh Cao Đài không những phát huy những giá trị văn hóa, tơn giáo
của nhân loại và dân tộc từ khi ra đời đến nay mà còn để lại những kinh nghiệm quý báu trong
việc sáng tạo văn hóa với 3 đặc tính là: tính mở, tính dân tộc và tính hiện thực trong thời đại

hội nhập hiện nay.

1

Tam thánh ký Hòa ước do họa sĩ Lê Minh Tòng vẽ theo ý kiến của Hộ pháp Cao Đài Phạm Công Tắc.

119


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]

Huỳnh Công Bá (2019). Tư tưởng Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế.
Nguyễn Văn Kim (2018). Tiếp biến và Hội nhập Văn hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đỗ Anh Thơ (2015). Hình ảnh Văn hóa Tơn giáo thế giới và Việt Nam, NXB Hồng Đức, Hà
Nội.
Từ điển Văn hóa Việt Nam (1993), NXB Văn hóa.
Huỳnh Ngọc Thu (2008). Đời sống tơn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối cảnh văn hóa
Nam Bộ (luận án tiến sĩ), Đại học Quốc gia TP. HCM.
.


Title: ACCULTURATION IN THE THREE SAINTS AND THE DIVINE COVENANT IMAGE OF
CAODAISM
Abstract: Born in Vietnam since the first half of the twentieth century, Caodaism has now widely
influenced the religious life of the Vietnamese community in Vietnam and foreign. As an indigenous
religion, Caodaism is built on the basis of fusing various cultural and religious elements in the world.
The article focuses on the study of the Eastern-Western acculturation in Caodaism through the image of
The Three Saints and the divine covenant.
Keywords: Cao Dai, The Three Saints, acculturation.

120



×