Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đề cương ôn tập môn triết học mác lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.32 KB, 23 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC
Câu 1: Phạm trù vật chất: Phân tích định nghĩa vật chất, Vận động, khơng gian, thời gian,
tính thống nhất vật chất của thế giới.
* Phân tích định nghĩa vật chất.
- Định nghĩa vật chất của Lênin:
 V.I.Lênin đã kế thừa những tư tưởng thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen, tổng kết toàn
bộ những thành tựu mới nhất của vật lý học, phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình,
thuyết khơng thể biết về vật chất. Bảo vệ và phát triển quan niệm duy vật biện chứng của
C.Mác và Ph.Ăngghen về phạm trù vật chất, xây dựng học thuyết Mác-xít hồn chỉnh, đưa ra
định nghĩa vật chất trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
 Vật chất là một phạm trù triết học:
 V.I.Lênin đã lựa chọn một phương pháp định nghĩa rất khoa học để khắc phục những sai
lầm căn bản về phương pháp tìm “viên gạch đầu tiên” của các nhà triết học duy vật siêu hình để
xây dựng định nghĩa vật chất. V.I.Lênin không quy vật chất về một dạng vật thể cụ thể mà coi
vật chất là một “phạm trù triết học”, nghĩa là một khái niệm chung bao chứa các sự vật, hiện
tượng cụ thể. Khái niệm này là một khái niệm trừu tượng được phân biệt với các khái niệm cụ
thể của các khoa học tự nhiên ở chỗ, nó không bàn đến các sự vật cụ thể với những trình độ tổ
chức và kết cấu khác nhau mà nó chỉ ra một đặc tính chung nhất của mọi sự vật, hiện tượng.
V.I.Lênin không quy khái niệm cần định nghĩa vào một khái niệm rộng hơn, rồi chỉ ra những
dấu hiệu phân biệt với các sự vật khác như cách định nghĩa thông thường về sự vật, hiện tượng,
mà ông đã đem đối lập vật chất với ý thức, một phạm trù triết học cũng rộng vô hạn như vật
chất để định nghĩa.
 Từ cách định nghiã này cần lưu ý: Không được hiểu vật chất là một sự vật cụ thể, đồng
thời không nên tách rời vật chất với những sự vật, hiện tượng vì vật chất chỉ được khái qt
thơng qua đặc tính chung nhất của mọi sự vật, hiện tượng.
Theo V.I.Lênin, không thể định nghĩa vật chất bằng cách quy nó về vật thể, hoặc quy về
một hình thức, một thuộc tính cụ thể nào đó. Nếu định nghĩa bằng cách đó chỉ gây ra mơ hồ, sai
lầm và tạo kẽ hở cho chủ nghĩa duy tâm xuyên tạc, tấn công vào chủ nghĩa duy vật.


Đây là định nghĩa khoa học và cách mạng, nó khác với các định nghĩa khác, định nghĩa
vật chất của Lênin vừa mang tính trừu tượng, vừa mang tính khái quát.
 Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngồi ý thức và khơng phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên
giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của V. I. Lênin có nhiều ý
nghĩa to lớn.
- Khi khẳng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác", "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", V.I.Lênin đã thừa nhận rằng, trong nhận
thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi
khẳng định vật chất là cái "được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh",
V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau (chép lại,
chụp lại, phản ánh...) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa
1


vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể
biết, đã khắc phục được những hạn chế trong các quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vật chất. Đồng thời, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin cịn có ý nghĩa định hướng đối
với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế
giới.
- Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của
V.I.Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó giúp các nhà
khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội,
những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở ấy, người ta có
thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
* Ý nghĩa phương pháp luận:

Vật chất không phải là nguyên tử, nguyên tử chỉ là một dạng của vật chất….
 Cho phép xác định vật chất trong xã hội để xác định những biến cố trong xã hội. Mối
quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
 Trong mọi hoạt động của bản thân cần phải quán triệt quan điểm khách quan. Cần phải
căn cứ vào điều kiện khách quan của đơn vị để tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
 Khách quan là phạm trù dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại khơng phụ thuộc vào ý thức
của chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên và trực tiếp quy định mọi hoạt
động của chủ thể.
 Trong xem xét, nhận thức và hoạt động thực tiễn phải trên cơ sở khách quan, xem xét sự
vật hiện tượng như nó vốn có, khơng thêm, bớt, gán ghép chủ quan, trong hoạt động thực tiễn
phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan, chống thái độ
chủ quan duy ý chí, đi từ nguyện vọng chủ quan, lấy ý chí làm cơ sở cho chủ trương chính sách,
áp đặt cho thực tế.
 Phải căn cứ vào quy luật khách quan trong hoạt động quân sự để hành động. ( Phân tích
Mạnh được, yếu thua. Dịng chảy tác động vào thân tàu, nước biển ăn mòn kim loại….).
 Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, khắc
phục và ngăn ngừa bệnh quan liêu, xa rời thực tế.
 Phải căn cứ vào khả năng khách quan: khả năng của bản thân đối với cán bộ-chiến sĩ,
đối với đơn vị.
 Căn cứ vào những mầng mống tiền đề cái mới phương hướng toàn cảnh đối tượng và xu
hướng phát triển.
Tìm hiểu những phương thức tồn tại của vật chất nhằm trả lời cho câu hỏi: Những dạng
cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng cách nào. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng
vận động, khơng gian, thời gian.
* Vận động.
+ Khái niệm về vận động:
Ph.Ăngghen viết: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.

 Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng vận động thông qua vận động các sự vật, hiện tượng
mới biểu hiện sự tồn tại của mình. Ph.Ăngghen viết: "Vật chất mà khơng vận động là điều
khơng thể quan niệm được”, “Khơng thể hình dung nổi vật chất khơng có vận động, và ngược
lại cũng khơng thể tưởng tượng nổi có thứ vận động nào lại không phải là vận động của vật
chất, không thuộc về vật chất”. Sự vận động của ý thức, tư duy trên thực tế cũng là sản phẩm
của sự vận động vật chất.
2


Mỗi dạng vật chất cụ thể đều tồn tại thông quan một hình thức vận động cụ thể:
Ph.Ăngghen đã phân chia vận động vật chất thành năm hình thức vận động cơ bản là:
 Vận động cơ học là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong khơng gian.
 Vận động vật lý là vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các q
trình nhiệt, điện ...
 Vận động hóa học là vận động của các nguyên tử , các quá trình hóa hợp và phân giải
các chất.
 Vận động sinh học là quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường.
 Vận động xã hội là sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội của các hình thái kinh
tế xã hội.
 Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, gắn liền với vật chất, là thuộc tính vốn có
của vật chất, vận động là khách quan chứ không phải do lực lượng bên ngoài tác động vào, vận
động là sự tự vận động của vật chất, là do bản thân tự vận động, được tạo nên do sự tác động
lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc của vật chất.
 Khơng có sự vận động thuần t tách rời vật chất, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, bất
diệt, tính bất diệt của vận động chính là sự bảo toàn của vận động cả về số lượng và chất lượng,
bảo toàn về số lượng là lượng vận động được truyền tải từ sự vật này sang sự vật khác, hoặc từ
hình thức này sang hình thức khác, lượng vận động mà sự vật này mất đi thì lượng vận động
của sự vật khác nhận được, tổng số vận động của tồn thế giới vật chất là khơng đổi. Chất của
vận động thể hiện ở chỗ, vận động có nhiều hình thức khác về chất lượng dẫn đến khơng thể
quy chúng về với nhau, song giữa chúng trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hóa

được cho nhau, trong qúa trình chuyển hóa đó chất của vận động được bảo toàn.
+ Ý nghĩa phương pháp luận:
 Nghiên cứu các hình thức tồn tại của vật chất, giúp ta hiểu được mối liên hệ và sự khác
biệt giữa các trình độ vật chất khác nhau, phải luôn xem xét sự vật trong trạng thái động. Song,
phải phân tích để thấy được những yếu tố nào đang ổn định tạm thời, từ dó có biện pháp tác
động thích hợp, nhằm phục vụ cho con người trong hoạt động cải tạo thế giới. Phải nghiên cứu
trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể; xem xét sự vật, hiện tượng phải gắn liền với
điều kiện không gian và thời gian tồn tại, vận động phát triển của nó, phải tính đến quá khứ,
hiện tại và tương lai phát triển của sự vật, hiện tượng.
 Vận động của vật chất là khách quan là tự thân vì vậy phê phán quan điểm vận động là
sự áp đặt bên ngoài. Chống quan điểm số phận, định mệnh, an bài, phó mặc cho số phận.
 Chống tư tưởng định kiến bảo thủ, siêu hình trong xem xét sự vật, hiện tượng, xem xét
trong trạng thái tĩnh bất biến.
 Xác định niềm tin cách mạng, lạc quan cách mạng, tin vào sự vận động, phát triển của
sự vật.
* Không gian và thời gian.
 Khái niệm khơng gian và thời gian .
 Khơng gian: Là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại,
trật tự, kết cấu sự liên kết và tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
 Thời gian: Là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt độ dài, ngắn, diễn biến, sự kế
tiếp của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Khái niệm không gian và thời gian là sự phản ánh hiện thực khách quan, không gian và
thời gian là không gian và thời gian vật chất, gắn liền và thống nhất với vật chất vận động, phụ
thuộc vào vật chất vận động.
 Tính chất của khơng gian và thời gian.
 Khơng gian, thời gian là thuộc tính khách quan, gắn liền với vật chất vận động, phụ
3


thuộc vào vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó khơng gian và thời gian cũng

tồn tại khách quan, khơng có khơng gian thời gian tồn tại thuần túy bên ngồi vật chất.
 Khơng gian và thời gian là hình thức tồn tại cơ bản, khách quan của vật chất vận động,
nhưng không gian và thời gian có những đặc điểm khác nhau. Khơng gian là sự tồn tại của các
khách thể vật chất về vị trí, kết cấu, cịn thời gian là độ dài, ngắc, diễn biến của các q trình.
Khơng gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận
động, song chúng không tách rời nhau mà có mối quan hệ biện chứng với nhau.
 Không gian và thời gian là vô tận cả về phạm vi lẫn thuộc tính là do tính vơ tận của vật
chất quy định. Vật chất vận động là vô tận nên khơng gian và thời gian là hình thức tồn tại của
nó cũng vơ tận. Khơng gian, thời gian của mỗi sự vật hiện tượng có giới hạn nhất định. VD: con
người : thời gian sinh đến chết, không gian: vịng ngực, chiều cao….
 Tính ba chiều của khơng gian và tính một chiều của thời gian. Tính ba chiều của không
gian là chhiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian là chiều từ q khứ
đến tương lai.
 Khơng gian và thời gian có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đối với sự vật, hiện
tượng không gian nào thời gian ấy.
 Ý nghĩa phương pháp luận .
 Trong hoạt động thực tiễn, muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu
trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể; xem xét sự vật, hiện tượng phải gắn liền với
điều kiện không gian và thời gian tồn tại, vận động phát triển của nó, phải tính đến q khứ,
hiện tại và tương lai phát triển của sự vật, hiện tượng.
 Cần phê phán quan điểm duy tâm coi không gian thời gian sự vật do lực lượng siêu
nhiên quy định.
 Trong hoạt động thực tiễn phải xây dựng không gian, thời gian phù hợp với tính chất
cơng việc. Vd: thi đua (đột kích: thời gian ngắn; thường xuyên: thời gian dài).
 Không gian trong hoạt động quân sự là điều kiện, hồn cảnh, địa hình thời tiết, khí hậu
nơi các qn nhân hoạt động. Trong chiến đấu người chỉ huy phải biết xác định không gian
chiến trường, phạm vi trận đánh, địa hình, địa vật ... để tổ chức lực lượng thích hợp.
 Thời gian trong hoạt động quân sự rất quan trọng, đặc biệt thời cơ đánh địch, thời gian
trước, trong và sau trận đánh, người chỉ huy phải biết nắm vững thời gian liên quan đến không
gian như thời tiết, khí hậu, các thời điểm quan trọng then chốt, thời gian cho từng trận đánh và

cho cả chiến dịch.

4


Câu 2: Phạm trù ý thức: nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức, ý nghĩa phương pháp
luận?
* Nguồn gốc của ý thức.
 Nguồn gốc tự nhiên: Là bộ não con người và sự tác động của thế giới khách quan vào
bộ não con người.
 Nguồn gốc xã hội: là quá trình lao động và sự xuất hiện của ngôn ngữ và các quan hệ xã
hội.
* Bản chất của ý thức:
 Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách
năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
 Ý thức là một hiện tượng xã hội nên ý thức cũng mang bản chất xã hội.
* Kết cấu của ý thức
 Theo các yếu tố hợp thành: ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí, ý chí... trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
 Theo chiều sâu của nội tâm: ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
* Nguồn gốc tự nhiên:
 Chủ nghĩa duy tâm cho rằng : ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức sinh ra vật chất,
chi phối sự tồn tại và vận động của thế giới vật chất.
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: ý thức khơng phải có nguồn gốc siêu tự nhiên,
không phải ý thức sản sinh ra vật chất mà ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không
phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. ý thức là chức năng của bộ óc con
người. ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động
của ý thức sẽ khơng bình thường. Vì vậy, khơng thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc.
ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.

* Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu được, song chưa đủ; điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những
tiền đề, nguồn gốc xã hội. ý thức ra đời cùng với q trình hình thành bộ óc con người nhờ
lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
 Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản
phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình, là một quá trình trong đó bản thân con người đóng
góp vai trị mơi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên.
 Lao động tạo ra sản phẩm ni sống con người và xã hội lồi người (Con vật sử dụng
những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên). Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con
người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng
thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người.
 Nhờ có lao động, con người tách ra khỏi giới động vật (con vượn trở thành con
người). Một trong những sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật là ở chỗ động vật
sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự nhiên, cịn con người thì nhờ lao động mà bắt giới
tự nhiên phục vụ mục đích của mình, thay đổi nó, bắt nó phục tùng những nhu cầu của mình.
 Chính thơng qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người
làm cho tự nhiên bộc lộ bản chất để con người phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý
thức về thế giới đó.
 Sự hình thành ý thức khơng phải là q trình thu nhận thụ động, mà đó là kết quả hoạt
động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan,
5


bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của
mình thành những hiện tượng nhất định, và các hiện tượng ấy tác động vào bộ óc
người, hình thành dần những tri thức về tự nhiên và xã hội.
 Lao động là công cụ nối dài giác quan của con người, tạo ra phương pháp nghiên cứu
khoa học. Thông qua lao động người ta có cách nghiên cứu, tìm ra bản chất của sự vật, hiện
tượng.

 Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngơn ngữ là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy chứa đựng tư
tưởng, khơng có ngơn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.
 Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội (tiếng nói và chữ viết), đồng thời
là cơng cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực.
 Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri
thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. ý thức không phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là
một hiện tượng xã hội, do đó khơng có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngơn ngữ thì ý
thức khơng thể hình thành và phát triển được.
Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con
người thơng qua lao động, ngơn ngữ và các quan hệ xã hội. ý thức là sản phẩm xã hội, là
một hiện tượng xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận
 Muốn phát triển ý thức phải gắn với q trình lao động, chính lao động
……………………….., lao động là lực lượng của bản chất con người. Coi lao động là vinh
quang, giải phóng con người khỏi sự tha hóa ( Ở chế độ tư hữu, lao động chịu sự áp đặt, xiềng
xích làm cho con người lười lao động dẫn đến lao động bị tha hóa..).
 Trong q trình lao động phải tích cực phản ánh thế giới, phải phát triển công cụ để tăng
khả năng phản ánh, phải khái quát….
 Muốn ý thức phát triển gắn với phát triển và hồn thiện ngơn ngữ cấn chiếm lĩnh tri
thức không những ngôn ngữ truyền thống cần tiếp cận ngoại ngữ…

6


Câu 3: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, khách quan và chủ quan trong hoạt động
quân sự.
* Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó vật chất là cái có trước,

ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định ý thức, đồmg thời ý thức có vai trị to lớn tác động trở
lại đối với vật chất.
 Vật chất quyết định ý thức:
 Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất sinh ra ý thức, ý thức là chức năng của óc
người - dạng vật chất có tổ chức cao nhất của thế giới vật chất.
 Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Thế giới vật chất là nguồn
gốc khách quan của ý thức.
 Ý thức tác động trở lại vật chất.
 Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm với một mức độ nhất định sự biến đổi của những
điều kiện vật chất.
 Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thong qua hoạt động của con người. Con
người dựa trên các tri thức về những quy luật khách quan mà đề ra mục tiêu, phương hướng
thực hiện; xác định các phương pháp và bằng ý chí thực hiện mục tiêu ấy.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức độ nào đi chăng nữa thì nó vẫn phải
dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất.
 Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa
tồm tại xã hộ và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội
có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như chủ thể và khách thể, lý luận và thực
tiễn, điều kiện khách quan và chủ quan…
* Ý thức phương pháp luận.
 Vật chất quyết đinh ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất, cho nên trong nhận thức
phải bảo đảm nguyên tắc “ tính khách quan của sự xem xét” và trong hoạt động thực tiễn phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
 ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thong qua hoạt động của con
người, cho nên cần phải phát huy tích tích cực của ý thức đối với vât chất bang cách nâng cao
nang lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng cúng vào trong hoạt động thực tiễn
của con người.
 Cân phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ thụ động, chờ đợi vào
điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan…

* Khách quan và chủ quan trong hoạt động quân sự
Phạm trù khách quan
Khách quan là phạm trù dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại khơng phụ thuộc vào ý thức
của chủ thể hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên và trực tiếp quy định mọi hoạt
động của chủ thể.
Cái khách quan không chỉ gồm các hoạt động vật chất mà cả các hoạt động tinh thần ở bên
ngồi ý thức của chủ thể, do đó cái khách quan không đồng nhất với vật chất. Cái khách quan
không phải là tồn bộ thế giới vật chất, nó chỉ là "một miền", "một phạm vi" nào đó của thế giới
vật chất trực tiếp và thường xuyên tác động, chi phối chủ thế hoạt động. Cái khách quan bao giờ
cũng được đặt trong mối quan hệ xác định với một chủ thể nhận thức và hoạt động, trong đó
phạm vi của cái khách quan có thể rộng, hẹp khác nhau.
7


Nội dung chủ yếu của phạm trù cái khách quan gồm: điều kiện khách quan là tổng thể các
mặt, các yếu tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực trong đó chủ thể sống và hoạt động cải tạo
khách thể. Quy luật khách quan là những quy luật vận động tất yếu của tự nhiên, xã hội và tư duy,
nó là cái bao trùm nhất của phạm trù khách quan, là cái quyết định hoạt động chủ quan của chủ
thể. Khả năng khách quan là những mầm mống, tiền đề, khuynh hướng của hoàn cảnh, đối tượng
mà trong những điều kiện nhất định biến thành hiện thực.
Phạm trù chủ quan
Chủ quan, là hệ thống các phẩm chất, năng lực của chủ thể, phụ thuộc vào ý thức của chủ thể,
được hình thành trên cơ sở phản ánh và cải tạo cái khách quan.
Nội dung phạm trù cái chủ quan bao gồm: Tri thức, là trình độ nhận thức, hiểu biết của
con người, là nội dung cơ bản của ý thức. Tình cảm, ý chí là sự định hướng, thơi thúc bên trong
để chuyển hóa sự hiểu biết thành quyết tâm hành động. Năng lực tổ chức hoạt động là năng lực
tổ chức, liên kết và sử dụng các lực lượng thực tiễn (người với người, người với vật...) thành
một cơ thể hoạt động thống nhất có sức mạnh thay đổi được hiện thực.
Bản thân chủ thể là hiện thân của nhân tố chủ quan, khơng có chủ thể sẽ khơng có nhân tố
chủ quan. Phạm trù chủ quan khơng trùng khít với phạm trù ý thức, mà nó bao hàm cả yếu tố vật

chất và tinh thần bên trong của chủ thể.
Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
Cái khách quan và cái chủ quan là hai mặt không thể tách rời nhau mà tác động biện
chứng nhau, trong đó cái khách quan là tính thứ nhất, quy định cái chủ quan; cái chủ quan là
tính thứ hai, tác động trở lại cái khách quan trên cơ sở phù hợp với nó.
Khách quan quy định chủ quan biểu hiện, quy định về sự ra đời của chủ quan, sự nảy
sinh ý định của chủ thể. Quy định nội dung của chủ quan, mục đích, kế hoạch, biện pháp cải tạo
khách quan. Quy định phạm vi giới hạn thành công của chủ quan (phụ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh, khả năng khách quan và phụ thuộc vào khách thể). Quy định sự biến đổi của chủ
quan.
Chủ quan khơng hồn tồn thụ động mà nó có vai trị to lớn trong cải tạo cái khách quan
thông qua hoạt động thực tiễn. Biểu hiện; biến cái khách quan thành khách thể, đối tượng bị nhận
thức và cải tạo thực tiễn vì mục đích và nhu cầu của chủ thể. Chủ quan (con người) có thể tác
động vào điều kiện khách quan, tạo ra những điều kiện khách quan cần thiết cho hoạt động của
mình. Trên cơ sở nhận thức được quy luật khách quan, những điều kiện hoạt động của nó, cái chủ
quan có thể điều chỉnh hình thức hoạt động của quy luật khách quan và kết hợp nhiều quy luật
theo mục đích của mình. Trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định, cái chủ quan có thể
biến những khả năng khách quan thành hiện thực theo nhu cầu của đời sống xã hội.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá một cách khách quan vai trò của nhân tố
chủ quan của những thàng tựu to lớn đạt được trong thời gian qua là: “Sự lãnh đạo, chỉ đạo
đúng đắn của BCHTW, Bộ chính trị, Ban bí thư, các cấp ủy Đảng trong việc triển khai nghị
quyết đại hội X. Giải quyết kịp thời, có kết quả những vấn đề mới phát sinh; Sự đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; Sự điều hành năng động của
chính phủ, chính quyền các cấp; Sự nỗ lực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của
cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các doanh nghiệp”
Suy cho cùng, chủ quan tác động vào khách quan dù to lớn đến đâu cũng trên cơ sở tính thứ
nhất của cái khách quan và phải trùng với cái khách quan chứ không tùy ý bịa đặt, thay đổi, xóa bỏ
quy luật khách quan. Sự tác động của cái khách quan đối với chủ quan phụ thuộc vào điều kiện lịch
sử xã hội. Phải tôn trọng khách quan, phát huy năng động chủ quan, chống chủ quan duy ý chí.
Ý nghĩa phương pháp luận


8


Trên cơ sở phát huy đầy đủ tính năng động chủ quan là thừa nhận và tôn trọng quy luật khách
quan. Nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế sẽ rơi vào bệnh duy ý chí và
nhất định sẽ thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung phát triển năm
2011) của Đảng ta khẳng định: "Trong lãnh đạo, Đảng cũng phạm sai lầm, khuyết điểm nghiêm
trọng do giáo điều, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan". Từ kinh nghiệm thành công
và thất bại trong hoạt động thực tiễn cách mạng. Cương lĩnh cũng đã rút ra bài học là "Mọi đường
lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan".
Trong hoạt động quân sự: là một hình thức hoạt động đặc biệt của hoạt động thực tiễn xã
hội với những đặc điểm và tính chất hết sức phức tạp. Với những tình huống ln vận động
biến đổi, chịu sự chi phối nghiêm ngặt của hệ thống các quy luật chiến tranh, song lại chứa
đựng vô số cái ngẫu nhiên bất ngờ. Là hoạt động sử dụng hệ thống các cơng cụ đặc biệt, chun
dùng. Tính chất của hoạt động quân sự luôn diễn ra trong điều kiện căng thẳng, khẩn trương ác
liệt, liên quan đến mạng sống con người. Đặc thù mối quan hệ chủ quan khách quan trong hoạt
động thực tiễn quân sự, được biểu hiện thành mối quan hệ giữa chủ thể quân sự (người chỉ huy,
các đơn vị thuộc quyền) với hệ thống các quy luật tác động vào quá trình chuẩn bị và sử dụng
một loại công cụ đặc biệt của thực tiễn (vũ khí trang thiết bị quân sự) chiến tranh.
Mối quan hệ chủ quan, khách quan được biểu hiện thành sự đối địch giữa các bên tham
chiến. Mối quan hệ chủ quan, khách quan được biểu hiện thành mối quan hệ chủ thể và khách
thể quân sự với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước, quân đội và thực tế chiến trường.
Trong hoạt động của Hải quân trên biển, mối quan hệ khách quan và chủ quan được biểu
hiện ra ở mối quan hệ giữa người chỉ huy với nhiệm vụ cấp trên giao, với đặc điểm điều kiện
của vùng biển đảo thực hiện nhiệm vụ, với âm mưu, thủ đoạn và lực lượng của hải quân nước
ngoài, với các quy luật của hoạt động tác chiến trên biển…Điều đó đặt ra u cầu có tính
ngun tắc là phải ln ln tôn trọng “ cái khách quan” và phát huy vai trò năng động chủ
quan để hạn chế đến mức thấp nhất sự tác động ảnh hưởng của những cái khách quan bất lợi,

tận dụng và thúc đẩy tối đa những cái khách quan có lợi, tìm mọi biện pháp thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ được giao.

9


Câu 4: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật.
* Khái niệm lượng và chất .
 Khái niệm chất : Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó, mà
khơng phải là cái khác.
 Khái niệm lượng : Lượng là một phạm trù triết học, để chỉ tính quy định vốn có của sự
vật, biểu thị bằng số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu sự vận động và phát triển của sự vật
cũng như thuộc tính của nó.
* Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng .
Mọi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về
lượng trong khuôn khổ của độ, tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua
bước nhảy. Chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới, q trình tác động đó
diễn ra liên tục.
 Chất và lượng quan hệ thống nhất với nhau. Đó là mối quan hệ thống nhất của hai mặt
đối lập trong sự vật, hiện tượng. Chất thì ổn định tương đối hơn lượng, cịn lượng thì thường
xun biến đổi. Sự biến đổi của lượng thì diễn ra liên tục. Cịn sự thay đổi về chất nói lên tính
gián đoạn. Song hai mặt đó khơng tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự
thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ nhất định, khi sự vật đang còn tồn tại.
 Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, nó là khoảng
giới hạn mà trong đó, sự thay đổi của lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Độ
thể hiện mối liên hệ giữa chất và lượng, trong giới hạn độ của sự vật thì bản thân sự vật vẫn là
nó mà chưa biến thành cái khác.
 Điểm giới hạn khi mà lượng đạt tới sẽ làm thay đổi chất của sự vật thì gọi là điểm nút.

Điểm nút: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm
thay đổi về chất của sự vật.
Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bằng hai điểm nút, sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm
nút sẽ làm cho chất mới ra đời, lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên
độ mới và điểm nút mới, q trình đó liên tiếp diễn ra trong sự vật và vì thế sự vật ln phát
triển.
Ví dụ: Nước ở thể lỏng có hai điểm nút tại nhiệt độ 0 0C và 1000C , ở đó nước lỏng chuyển
thành thể đá, hoặc thể hơi.
 Bước nhảy: Là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự
thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Bước nhảy là kết thúc một giai đoạn phát triển
của sự vật, đồng thời là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới, nó là sự gián đoạn
trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật.
 Sự phát triển của bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy dần về lượng
trong độ nhất định, tới điểm nút thực hiện bước nhảy về chất, khi bước nhảy được thực hiện thì
chất cũ đã được thay bởi một chất mới khác và cũng là sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
Song điểm nút của quá trình ấy khơng cố định mà có những thay đổi do tác động của những
điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
Ví dụ: Thời gian để hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa ở mỗi nước là khác nhau, có
những nước mất đến 150 năm, có nước mất 60 năm, nhưng cũng có nước chỉ mất 15 năm.
 Chất mới ra đời tạo điều kiện mới, khả năng mới cho sự biến đổi của lượng mới. Mặc
dù chỉ xuất hiện khi sự thay đổi về lượng của nó đạt tới điểm nút, tức là phá vỡ độ của nó,
nhưng khi chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại làm cho lượng thay đổi. Chất mới có
10


thể làm thay đổi kết cấu, quy mơ, trình độ, nhịp điệu sự vận động và phát triển của sự vật, làm
cho lượng vận động nhanh tới điểm nút để có bước nhảy mới được thực hiện, chất mới khác
được ra đời, cứ như thế làm cho sự vật phát triển vơ cùng, vơ tận, lúc thì diễn ra từ từ, lúc thì
diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của thế giới khách quan.
Ví dụ: Khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức cũng là thực hiện bước

nhảy, sinh viên tốt nghiệp, trình độ văn hóa của sinh viên cao hơn trước và tạo điều kiện cho họ
thay đổi kết cấu, quy mơ và trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn. Hoặc, nước
đang ở trạng thái lỏng chuyển sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử nước tăng hơn, thể
tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng thái lỏng.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
 Khơng có sự tích lũy về lượng thì khơng co sự biến đổi về chất.
 Sự biến đổi về lượng chưa đủ độ thì chưa thể thực hiện biến đổi về chất. Vì vậy tránh
nơn nóng. Nếu tích lũy về lượng đủ, phải thực hiện bước nhảy biến đổi về chất, tránh trần trừ
không muốn thực hiện bước nhảy làm mất…
 Cần phải định hướng sự tích lũy về lượng để biến đổi về chất theo mục đích của chủ
thể.
 Chất mới ra đời, lượng tích lũy ở trình độ mới, vì vậy đây là q trình khơng ngừng tích
lũy về lượng.

11


Câu 5: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Ý nghĩa phương pháp luận
của quy luật ?
* Khái niệm mâu thuẫn biện chứng:
 Mâu thuẫn biện chứng là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong một sự vật hoặc giữa các sự vật trong thế giới vật chất.
* Kết cấu của mâu thuẫn biện chứng:
 Mặt đối lập: Là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm, những thuộc
tính, những tính qui định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách
quan trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy.
Tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau,
khơng có sự vật, hiện tượng nào là khơng có các mặt trái ngược trong lịng nó, các mặt trái
ngược nhau đó gọi là các mặt đối lập.
Chú ý là không phải bất kỳ “đối lập” nào cũng là mâu thuẫn biện chứng. Trong thực tế có

những mặt đối lập giản đơn, chết cứng, khơng chứa đựng nhân tố, nguồn gốc vận động và phát
triển thì khơng phải là mâu thuẫn biện chứng chẳng hạn, bên phải và bên trái của một con
đường, mặt trên và mặt dưới của một bàn tay.
Hêghen cũng khẳng định: “Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân
nó”, do vậy, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải tìm được những mâu thuẫn của nó, không
được phủ nhận mâu thuẫn một cách chủ quan duy ý chí, mâu thuẫn tồn tại tất yếu trong mọi sự
vận động và phát triển của sự vật.
 Sự thống nhất của các mặt đối lập
+ Khi nghiên cứu bất kỳ sự vật, hiện tượng nào chúng ta đều nhận thấy chúng được tạo
thành từ nhiều bộ phận, mang nhiều thuộc tính khác nhau, khơng những thế mà cịn có những
thuộc tính đối lập nhau về khuynh hướng tính chất, nhưng sự đối lập đó khơng phải là độc lập
tách rời nhau mà ngược lại chúng lại dựa vào nhau, ràng buộc nhau, cái này lấy cái kia làm điều
kiện để tồn tại, hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với
nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập: “Là sự nương tựa vào nhau, ràng buộc nhau của các
mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Đó chính là tính
khơng thể tách rời của các mặt đối lập”.
Nói cách khác, sự thống nhất của hai mặt đối lập tạo thành một mâu thuẫn biện chứng là
tính khơng thể tách rời của hai mặt được.
Ví dụ: Trong một nguyên tử có điện tử và hạt nhân có điện tích trái dấu cùng tồn tại, nếu
thiếu một trong hai mặt đối lập đó thì ngun tử khơng thể tồn tại được.
+ Sự thống nhất không thể tách rời của các mặt đối lập trong cùng một sự vật, cấu thành
bản chất của sự vật đó, vì thế, các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau,
“đồng nhất” với nhau. Với nghĩa đó, sự “thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm sự “đồng
nhất” của các mặt đối lập.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng, nó
biểu hiện trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng
của các lực lượng đối lập.
+ Vai trị sự thống nhất của các mặt đối lập nó là điều kiện của đấu tranh, nếu khơng có sự
thống nhất thì sẽ khơng có đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn và như vậy, sẽ khơng có sự phát

triển của sự vật, hiện tượng. Mặt khác, nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà ta mới
nhận biết được sự vật đó là nó, lúc này sự vật vận động trong thăng bằng, trong sự đứng im
tương đối, sự vật đang là nó mà chưa biến thành cái khác.
 Sự đấu tranh của các mặt đối lập: Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại
12


theo xu hướng bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.
+ Không thể hiểu đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau. Theo nghĩa
triết học, đấu tranh là một q trình chuyển hóa lẫn nhau, sự thủ tiêu lẫn nhau chỉ là một mặt
của quá trình gạt bỏ cái cũ hình thành cái mới, có những sự tác động lẫn nhau giữa hai mặt đối
lập mà kết quả là cả hai cùng vận động và phát triển lên một trình độ mới, hoặc cùng tham gia
vào một kết cấu mới.
Ví dụ: Lịng trắng, lịng đỏ trong một quả trứng là hai mặt đối lập ln xâm nhập chuyển
hóa lẫn nhau, cả hai mặt đều không biến đi mà đều chuyển hóa vào một kết cấu mới là con gà
con.
+ Đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, q trình đó diễn ra theo từng
giai đoạn với những đặc điểm khác nhau. Khi mâu thuẫn mới xuất hiện, tính chất khuynh
hướng của các mặt đối lập chưa bộc lộ rõ sự khác biệt, sự thống nhất mang tính đồng nhất, thì
cuộc đấu tranh cũng chưa quyết liệt, cịn mang tính chất ngấm ngầm. Khi tính chất khuynh
hướng của các mặt đối lập bộc lộ rõ sự khác biệt, thì cuộc đấu tranh có tính quyết liệt, để cuối
cùng tạo nên kết quả phá vỡ sự thống nhất cũ thay thế bằng sự thống nhất mới.
Ví dụ: Ban đầu mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản chưa bộc lộ rõ nên cuộc đấu tranh
giai cấp trong lòng xã hội tư bản chưa quyết liệt. Khi giai cấp tư sản bóc lột giai cấp vô sản
ngày càng nặng nề và giai cấp vô sản càng ngày càng nhận thức rõ vai trò sứ mệnh lịch sử của
họ thì cuộc đấu tranh của họ chống lại giai cấp tư sản càng trở nên quyết liệt, cuối cùng nổ ra
cách mạng xã hội, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng xã hội mới xã hội chủ
nghĩa.
+ Vai trò đấu tranh của các mặt đối lập, là quá trình giải quyết mâu thuẫn, là nhằm phá vỡ
sự thống nhất ban đầu cho ra đời sự vật mới, một thể thống nhất mới được hình thành, các mặt

đối lập tiếp tục đấu tranh, cứ như vậy mà làm cho sự vật phát triển vô cùng, vô tận.
 Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác
động qua lại với nhau.
+ Thống nhất là điều kiện của đấu tranh. Hai mặt đối lập khác nhau về khuynh hướng, tính
chất nhưng chỉ trở thành mâu thuẫn khi bị ràng buộc với nhau thì mới tác động với nhau, xâm
nhập chuyển hóa nhau được, khơng có thống nhất thì khơng thể có đấu tranh.
Ví dụ: Nếu lòng trắng và lòng đỏ của quả trứng mà bị tách ra hai nơi thì khơng thể xâm
nhập vào nhau để tạo thành gà con.
+ Đấu tranh là quá trình phá vỡ thống nhất cũ, thiết lập thống nhất mới giữa chất và lượng
tạo nên sự ra đời của chất mới, sự phá vỡ trạng thái thống nhất này là điều kiện để hình thành
trạng thái thống nhất mới.
Do vậy: Thống nhất chỉ là tạm thời, là tương đối luôn có xu hướng bị thay bằng sự thống
nhất mới, cịn đấu tranh của các mặt đối lập là thường xuyên, tuyệt đối, là con đường dẫn đến
sự ra đời của cái mới.
Ví dụ: Sự thống nhất giữa chủ nơ và nô lệ tạo ra xã hội chiếm hữu nô lệ, cuộc đấu tranh
của giai cấp nô lệ làm sụp đổ chế độ nơ lệ, hình thành xã hội mới là xã hội phong kiến. Cuộc
đấu tranh của giai cấp nông dân lại xóa bỏ xã hội phong kiến hình thành xã hội tư bản chủ
nghĩa, trong đó có sự thống nhất của hai mặt đối lập là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc
đấu tranh của hai giai cấp này sẽ là một tất yếu dẫn đến một chế độ xã hội mới- xã hội chủ
nghĩa.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
 Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên muốn nắm
được bản chất của sự vật cần phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của
chúng.
 Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải có
13


phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể việc giải quyết mâu
thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập và với những điều kiện chin muồi.


14


Câu 6: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự vận dụng của đảng ta ?
LLSX và QHXS gắn bó hữu cơ, tác động biện chứng tạo nên sự vận động biến đổi của
PTSX, hình thành quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Đây
là một trong hai quy luật cơ bản của sự tồn tại và vận động, biến đổi, phát triển của xã hội loài
người.
* Khái niệm LLSX, QHSX.
 Lực lượng sản xuất : Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là
sự kết hợp biện chứng giữa người lao động và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
 Quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa người và người
được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất xã hội trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định.
* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất .
Là hình thức xã hội của LLSX, hình thành trên cơ sở LLSX, QHSX khơng thụ động mà
có sự tác động trở lại LLSX. Sự tác động to lớn đến sự vận động, phát triển của LLSX trên các
mặt:
 QHSX quy định mục đích xã hội của nền sản xuất xã hội. Sản xuất vì ai, phục vụ cho
cái gì? Ví dụ: nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phục vụ giai cấp tư sản và vì lợi nhuận tư bản, vì
sự bóc lột giá trị thặng dư. Ngược lại: nền sản xuất xã hội chủ nghĩa vì nhân dân lao động vì sự
thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, vì sự tiến bộ xã hội.
 QHSX quy định khuynh hướng phát triển các nhu cầu về lợi ích vật chất và tinh thần.
Chế độ công hữu phát triển các nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, về mọi mặt. Chế độ tư
hữu phát triển nhu cầu của giai cấp hữu sản. Điều đó kích thích đến động cơ của người lao
động, tạo động lực hay triệt tiêu động lực của người lao động.
 QHSX quy định các hình thức tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội.

Trên cơ sở những vấn đề trên, QHSX hình thành một hệ thống các yếu tố thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của LLSX. Thể hiện cụ thể:
 Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX thì nó trở thành động
lực thúc đẩy LSX phát triển mạnh mẽ. Lúc này QHSX sẽ tạo mọi điều kiện để thúc đẩy LLSX
phát triển mạnh nhất. Đó là: đầu tư mở rộng sản xuất và tái sản xuất mở rộng, kích thích người
lao động tích cực cải tiến cơng cụ sản xuất, tích luỹ kinh nghiệm lao động, nâng cao trình độ tổ
chức quản lý sản xuất vv... Nghĩa là nó tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kếựt hợp giữa
lao động và tư liệu sản xuất.
 Khi QHSX không phù hợp với LLSX thì nó kìm hãm sự phát triển của LLSX. Trạng thái
không phù hợp hay “Trạng thái mâu thuẫn ” giữa LLSX với QHSX là trạng thái mà QHSX từ
chỗ là hình thức phát triển của LLSX trở thành “xiềng xích của LLSX”. Khơng phù hợp kể cả
khi QHSX lỗi thời lạc hậu, và khi có những yếu tố, những bộ phận của QHSX vượt qúa xa so
với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Khi QHSX đã lỗi thời kìm hãm sự phát triển của
LLSX khơng có nghĩa là chặn đường hồn tồn sự phát triển của LLSX. Thơng thường sự kìm
hãm đó thể hiện ở chỗ phá hoại các TLSX, gây ra sự trì trệ trong sản xuất, không phát huy hết
hiệu suất của CCLĐ, lãng phí trong sản xuất, khơng phát huy và kích thích trí sáng tạo, tinh
thần cần cù lao động của con người.
 Sự tác động kìm hãm của QHSX đối với sự phát triển của LLSX chỉ là tạm thời, tương
đối vì với sự phát triển tất yếu khách quan của LLSX thì cuối cùng QHSX lỗi thời cũng bị thay
thế bằng một kiểu QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, để mở đường cho
LLSX phát triển.
15


Ngày nay QHSX TBCN đã lỗi thời lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của LLSX. Nhưng hiện
nay CNTB hiện đại nhờ tận dụng những thành tựu KHKT mới, tự điều chỉnh về QH sở hữu, tổ
chức quản lý SX, tự điều chỉnh phân phối nên CNTB hiện đại vẫn cịn khả năng thích nghi và
phát triển. Tuy nhiên CNTB hiện đại khơng thể xố bỏ được mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó là
giữa tính chất XH hố ngày càng cao của LLSX với chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX. Mâu
thuẫn ngày càng trầm trọng và gay gắt, cuối cùng quy luật tất yếu khách quan vẫn phải được

thực hiện, QHSX TBCN tất yếu bị thay thế bằng QHSX tiến bộ hơn phù hợp với LLSX, đó là
QHSX XHCN.
* Ý nghĩa phương pháp luận.
 Trong nền sản xuất vật chất bên cạnh việc tập trung phát triển LLSX cần quan tâm xây
dựng QHSX phù hợp với LLSX, không được phiến diện chỉ chú trọng nội dung mà khơng chú
trọng đến hình thức. Nếu khơng tạo được QHSX phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của
LLSX, xây dựng QHSX XHCN phải chú ý đến mục đích nền sản xuất phục vụ người lao động,
thỏa mãn tinh thần vật chất người lao động, có như vậy mới kích thích được người lao
động……
 Q trình phát triển sản xuất xã hội luôn tạo ra sự vận động, biến đổi QHSX theo kịp sự
phát triển của LLSX; trong trường hợp có sự lạc hậu tương đối của QHSX phải mạnh dạn thay
đổi QHSX đặc biệt là quan hệ sở hữu về TLSX.

16


Câu 7: Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Sự vận dụng của đảng ta ?
* Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội.
 Khái niệm cơ sở hạ tầng xã hội : Cơ sở hạ tầng xã hội là toàn bộ những QHSX của một
xã hội, hợp thành một cơ cấu kinh tế của một hình thái KT- XH nhất định.
 Cấu trúc thành phần của cơ sở hạ tầng xã hội : Với một xã hội cụ thể, có nhiều thành
phần QHSX tồn tại và chi phối lẫn nhau. CSHT là toàn bộ những QHSX đó chứ khơng loại trừ
thành phần nào. Thơng thường chúng bao gồm 3 thành phần:
+ Những QHSX thống trị tức là QHSX đặc trưng cho một PTSX trong nền kinh tế. Chẳng
hạn: trong xã hội phong kiến thì QHSX đặc trưng là QHSX phong kiến (Địa chủ và nơng dân).
+ Những QHSX tàn dư của PTSX trước đó. Đó là QHSX chiếm hữu nơ lệ cịn rơi rớt lại.
(Các nô lệ dưới dạng con ở, đầy tớ trong nhà)
+ Những QHSX mầm mống của một PTSX mới. Đó là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
( thợ cả – thợ bạn phát triển thành tư sản - vô sản)

Ba loại QHSX này tuy khác nhau nhưng chúng không tách rời nhau, vừa đấu tranh với
nhau vừa liên hệ với nhau hình thành CSHT của mỗi xã hội cụ thể ở mỗi giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử. Trong đó QHSX đặc trưng giữ vai trị chủ đạo, thống trị, chi phối các
quan hệ sản xuất khác.
 Khái niệm kiến trúc thượng tầng xã hội: Kiến trúc thượng tầng xã hội là toàn bộ những
quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, tơn giáo, nghệ thuật… với những tổ chức,
thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái chính trị, giáo hội, các đồn thể… được hình
thành trên một CSHT nhất định.
* Vai trị quyết định của CSHT đối với KTTT.
CSHT là quan hệ vật chất khách quan của xã hội, qui định mọi quan hệ về chính trị tinh
thần, tư tưởng của xã hội. Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT biểu hiện trước hết ở
chỗ: mỗi CSHT sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng. Trên cơ sở đó, CSHT quyết định
KTTT trên cả các mặt: tính chất, nội dung, kết cấu và sự biến đổi.
 CSHT quyết định tính chất của KTTT
Tính chất của CSHT như thế nào thì tính chất của KTTT tương ứng như vậy. Nếu CSHT là
khơng thuần nhất, nhiều thành giai cấp, có đối kháng về lợi ích kinh tế thì KTTT cũng mang
tính giai cấp đối kháng giai cấp trong mọi lĩnh vực tư tưởng. Ngược lại nếu CSHT thuần nhất
về quan hệ kinh tế, khơng mang có đối kháng giai cấp thì KTTT cũng khơng có đối kháng giai
cấp. Chẳng hạn, với CSHT của xã hội cơng sản ngun thuỷ có tính chất thuần nhất về quan hệ
kinh tế, chế độ công hữu TLSX tạo nên sự bình đẳng trong quan hệ kinh tế thì KTTT của xã hội
ngun thuỷ cũng mang tính chất bình đẳng, bác ái giữa người với người. Ngược lại, ở xã hội
Tư bản chủ nghĩa, CSHT là những quan hệ bất bình đẳng, đối kháng về lợi ích kinh tế giữa các
giai cấp nên trên KTTT cũng mang dấu ấn sâu sắc của sự bất bình đẳng giữa người với người
trên tất cả các lĩnh vực tư tưởng tinh thần xã hội như: đối kháng về ý thức hệ chính trị (các học
thuyết chính trị đối lập nhau, các chính đảng đối lập nhau); đối kháng về ý thức pháp quyền
biểu hiện ở cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền nhà nước; đối kháng về quan điểm triết
học, đạo đức, thẩm mỹ vv…
Khi CSHT trở nên lỗi thời lạc hậu so với sự vận động phát triển của lực LLSX thì KTTT
cũng dần trở nên lạc hậu, phản động, bảo thủ và mâu thuẫn.
 CSHT quyết định nội dung, kết cấu của KTTT.

Nội dung của CSHT ( các yếu tố quan hệ sản xuất) là phong phú hay đơn giản sẽ quyết
định cấu trúc thành phần của KTTT đa dạng, phong phú hay đơn giản, hình thức tổ chức gọn
nhẹ hay cồng kềnh phức tạp. Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế, tức là phong phú các thành phần quan hệ sản xuất, khi đó cấu trúc thành phần của
17


KTTT còn cồng kềnh, phức tạp như: nhiều quan điểm tư tưởng chính trị cùng tồn tại, bộ luật
cũng phức tạp, các tổ chức thiết chế cũng nặng nề kồng kềnh, đồ sộ. Khi CNXH càng phát triển
đến dần CNCS thì giảm dần các thành phần kinh tế phi XHCN, khi đó KTTT cũng dần giản
lược.
 CSHT quyết định sự biến đổi của KTTT .
KTTT là sự phản ánh CSHT cho nên hễ CSHT có sự biến đổi thì dẫn đến sự biến đổi trong
KTTT. Tuy nhiên, mức độ biến đổi tuỳ thuộc vào mức độ biến đổi của CSHT. Sự biến đổi dần
dần ở KTTT để phù hợp với CSHT khi CSHT chưa biến đổi căn bản mà chỉ có sự vận động
trong khn khổ của PTSX đặc trưng. Khi đó giai cấp thống trị vẫn duy trì những thiết chế xã
hội trên KTTT mặc dù có điều chỉnh ít nhiều. Sự biến đổi của KTTT diễn ra rõ rệt khi CSHT
này được thay thế bằng CSHT khác tức là khi đấu tranh giai cấp lên đến đỉnh điểm, bùng nổ
một cuộc CMXH đưa đến sự thủ tiêu CSHT cũ và thay thế bằng CSHT mới thì sự thống trị của
giai cấp thống trị cũ bị xoá bỏ và thay thế sự thống trị của giai cấp mới. Khi chế độ chính trị của
giai cấp thay đổi , bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị cũng thay đổi, ý thức xã hội cũng
biến đổi theo. Mác viết : “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả của KTTT đồ sộ cũng bị đảo lộn ít
nhiều nhanh chóng ”.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi của CSHT và KTTT là do kết quả của đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp lao động bị thống trị với giai cấp thống trị bóc lột dẫn đến CMXH
làm thay đổi xã hội từ HTKT-XH này sang HTKT-XH khác. Nguyên nhân biến đổi của CSHT
và KTTT xét cho cùng là do sự phát triển của LLSX, nhưng sự phát triển của LLSX chỉ trực
tiếp làm thay đổi CSHT, đến lượt mình, CSHT làm thay đổi KTTT, tạo nên một sự biến đổi dây
chuyền toàn bộ đời sống xã hội. Sự biến đổi của KTTT diễn ra hết sức phức tạp, cái cũ cịn tồn
tại rất lâu. Có bộ phận trong KTTT khi CSHT thay đổi thì thay đổi thể hiện cuộc đấu tranh gay

go và quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, tàn dư của ngay như chính trị, pháp quyền, lại có những
bộ phận chưa thay đổi ngay mà còn tồn tại tương đối dài trong KTTT mới như: tôn giáo, đạo
đức, văn học, nghệ thuật... Mặt khác cũng có những yếu tố, những hình thức của CSHT và
KTTT cũ được giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển của CSHT và KTTT mới.
Điều đó chứng tỏ rằng: muốn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thì phải xuất phát từ
những cơ sở kinh tế, từ CSHT. Trong xã hội ta hiện nay muốn xoá bỏ lạc hậu, nghèo nàn, xoá
bỏ các tệ nạn xã hội, xoá bỏ tiêu cực tham nhũng, để lập lại trật tự kỷ cương xã hội thì phải đi
từ cơ sở kinh tế.
* Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Tuy CSHT quyết định KTTT, còn KTTT phải phù hợp với CSHT, nhưng đó khơng phải là
một chiều, giản đơn máy móc. Tồn bộ KTTT và các bộ phận của nó có tính độc lập tương đối
trong quá trình vận động phát triển và tác động to lớn đến CSHT sinh ra nó. Sự tác động đó
diễn ra trên các mặt sau đây:
 KTTT ln bảo vệ, duy trì , củng cố CSHT đã sinh ra nó.
 KTTT đấu tranh nhằm xố bỏ CSHT và KTTT của xã hội cũ, đấu tranh ngăn chặn mầm
mống tự phát của CSHT và KTTT mới nảy sinh trong lòng nó.
Vì KTTT là một bộ phận của HTKT-XH, được sinh ra và phát triển trên một CSHT nhất
định cho nên nhiệm vụ hàng đầu của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố CSHT đã sinh ra nó, kể
cả khi CSHT đã trở nên lỗi thời, lạc hậu. Thực chất cả hai nhiệm vụ trên của KTTT đều nhằm
bảo vệ và phát triển CSHT đã sinh ra nó cho nên KTTT bao giờ cũng là công cụ, phương tiện
để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị xã hội.
Trong các yếu tố của KTTT thì nhà nước giữ vai trị đặc biệt quan trọng, có tác động to lớn
đối với KTTT, vì nó là nơi tập trung sức mạnh kinh tế, chính trị của giai cấp thống trị. Bởi vậy,
các giai cấp đều tập trung xây dựng nhà nước vững mạnh, củng cố địa vị của nó, khi nhà nước
được tăng cường thì nhà nước lại tác động trở lại làm cho kinh tế phát triển, thúc đẩy CSHT
18


phát triển.
Các yếu tố của KTTT không những tác động đến CSHT mà cịn tác động qua lại lẫn nhau.

Thơng thường sự tác động qua lại này phải thông qua nhà nước, thông qua pháp luật và các tổ
chức tương ứng thì mới phát huy được hiệu lực đối với CSHT cũng như đối với xã hội. Hiện
nay nhà nước tư sản đang tìm cách “điều chỉnh” xã hội bằng một loạt chính sách, nhằm làm dịu
bớt những mâu thuẫn xã hội để thích nghi với điều kiện mới. Sự điều chỉnh của nhà nước tư sản
ít nhiều có làm cho xã hội tư bản phát triển nhất định, song giai cấp tư sản, nhà nước tư sản
không thể giải quyết được mâu thuẫn vốn có trong lịng nó là mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX.
Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thay đổi XHTB bằng xã hội XHCN tốt đẹp hơn.
 Sự tác động của KTTT đối với CSHT được thể hiện trên hai chiều hướng :
+ Khi KTTT tác động phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội, với yêu cầu
phát triển của LLSX thì thúc đẩy CSHT phát triển và tồn xã hội phát triển.
+ Khi KTTT tác động khơng phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội, khơng
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX sẽ dẫn đến kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất và
sự phát triển xã hội.
Hiệu quả tác động của KTTT đối với CSHT phụ thuộc vào tính năng động chủ quan trong
nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế – xã hội, vào hoạt động thực tiễn của con người. KTTT
có vai trị định hướng những hoạt động thực tiễn, đưa lại phương án phát triển tối ưu cho KTXH. Chẳng hạn, khi CNTB vừa mới ra đời, KTTT của nó cịn tiến bộ, đã thúc đẩy kinh tế, xã
hội tư bản phát triển rất nhanh, ngược lại ngày nay khi KTTT của nó đã lạc hậu dẫn đến kìm
hãm sự phát triển của xã hội. Mặc dù KTTT có vai trị to lớn như vậy nhưng nếu q nhấn
mạnh, tuyệt đối hố nó, phủ nhận tính tất yếu của kinh tế xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm
lịch sử.
+ Giới hạn sự tác động CSHT đến CSHT là thúc đẩy hoặc kìm hãm chứ không chặn đứng
sự phát triển của xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận.
 Xem xét bản chất, tính chất sự tồn tại, biến đổi của các yếu tố trên kiến trúc thượng tầng
phải xem xét từ nguồn gốc của CSHT, đặt nó trong mối quan hệ với những quan hệ sản xuất tạo
ra nó.
 Muốn cho xã hội thay đổi căn bản thì phải thay đổi căn bản CSHT, trên cơ sở đó mới
làm biến đổi căn bản các yếu tổ cơ bản của KTTT.
 Thấy được vai trò to lớn của KTTT, không coi nhẹ KTTT trong đời sống xã hội. Mối
quan hệ đó là biện chứng giữa đời sống tinh thần và đời sống vật chất xã hội.

 Để xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ vững chắc CSHT XHCN thì phải ra sức xây dựng và
phát triển các nhân tố XHCN trên KTTT. Đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị XHCN và nhà nước
XHCN.
* Sự vận dụng của Đảng ta:
 Mục tiêu của Đảng ta: xây dựng hệ tư tưởng chính trị XHCN, lấy CN Mác- Lênin, tư
tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động, xây dựng hệ thống tổ chức xã
hội trong đó Đảng giữ vai trị lãnh đạo xã hội.
 Xây dựng ý thức pháp quyền XHCN, bảo vệ lợi ích của giai cấp vơ sản, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Thực hiện mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
 Xây dựng và phát triển các mặt của đời sống xã hội, làm phong phú đời sống vật chất
tinh thần cho nhân dân.

19


Câu 8: Phạm trù hình thái kinh tế xã hội và ý nghĩa khoa học của nó ; sự vận dụng
của đảng ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt Nam ?
* Mở bài
Nguồn gốc sâu xa của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là bắt đầu từ sự thay đổi
của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất thay đổi đến một giới hạn nào đó thì nó sẽ phá
bỏ và thiết lập quan hệ sản xuất. Rồi kiến trúc thượng tầng mới hình thành dựa trên quan hệ sản
xuất mới.
Như vậy sự tác dộng giữa các yếu tố trong cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội đã tạo
thành những quy luật tất yếu khách quan của xã hội. Xã hội vận động từ thấp đến cao, từ cộng
sản nguyên thủy sang chiếm hữu nô lệ, đến phong kiến, tư sản rồi chủ nghĩa xã hội đều tuân
theo quy luật trên. Sự phát triến ấy không nhất thiết là tuần tự mà có thể có sự nhảy vọt, bỏ qua
một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội. Chính vì thế, Mác đã khẳng định sự phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
* Khái niệm và cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội

 Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy.
 Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hồn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các
mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình
thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
+ Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội.
+ Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan
hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. .
+ Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng,
nhưng nó lại là cơng cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
+ Ngồi các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội cịn có quan hệ về gia
đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ
sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
(Học thuyết này chỉ rõ, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản
xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Do vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng
thuần túy để giải thích các hiện tượng xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất vật
chất.
Để nhận thức đúng xã hội, phải tìm hiểu quy luật phát triển của xã hội, không được tùy
tiện, chủ quan. Bởi lẽ, học thuyết hình thái kinh tế xã hội chỉ ra rằng: sự phát triển của các hình
thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người.
Việc vận dụng sáng tạo học thuyết này vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội đối với Việt Nam là chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ

nghĩa.)
* Ý nghĩa khoa học:

20


 Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, những nguyên nhân
và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi của các hiện tượng xã hội đã biến xã hôi học thành một khoa
học thật sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử.
 Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến dang tác động và chi
phối sự vận dộng cua xã hội. Vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội.
 Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của các đửng cộng sản.
* Cơ sở khoa học của đường lối tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ở
nước ta
 Hình thái kinh tế - xã hội TBCN đã trở nên lỗi thời lạc hậu.
 Hình thái kinh tế - xã hội XHCN đã trở thành hiện thực trên thế giới và tỏ rõ tính ưu
việt của nó.
 Được sự giúp đỡ của nhân dân thế giới.
 Nhân dân ủng hộ, Đảng lãnh đạo tài tình….
* Ý nghĩa phương pháp luận.
 Để xây dựng CNXH chúng ta phải tập trung xây dựng LLSX phát triển, kết hợp từng bước
xây dựng QHSX mới XHCN, trên cơ sở đó xây dựng và hoàn thiện KTTT XHCN.
 Nhận thức sâu sắc tính đúng đắn con đường đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN. Từ đó tin tưởng con đường và sự tất thắng đi lên CNXH.
* Sự vận dụng của đảng ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt Nam
1. Quan điểm của C.Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi lên
XHCN
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết ấy
vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó, và đi đến
dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai

đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Ông đã từng khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản là một phong trào
hiện thực nhằm thủ tiêu trạng thái hiện tồn”.
Theo Ăngghen, các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa xã
bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Muốn làm được điều đó thì cách
mạng vơ sản phải thành công, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã tiến
hành cách mạng giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và các nước đó đã giành được
sự giúp đỡ từ các nước phương Tây. Quan điểm này đã được trình bày rõ trong tác phẩm: “Bàn
về xã hội ở Nga”.
Hơn thế nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã hội đã khẳng định: các
quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước quá độ của các hình thái kinh tế - xã
hội nối tiếp nhau từ cộng sản nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa, song căn cứ vào điều kiện
lịch sự cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội.
Cịn theo Lênin, có 2 hình thức q độ; q độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Lê-nin cho
rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển thì có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá
độ trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp
. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
2. Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN là một tất
yếu lịch sử
Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị một thời gian dài, cơ
sở vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu .
Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách màng xã hội chủ nghĩa ,
xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước tiến từ bản chủ nghĩa bỏ qua chủ nghĩa tư bản sự lựa
chọn trên 2 căn cứ sau đây.
21


Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thốt khỏi áp bức, bóc lột
bất cơng đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân
Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại mới,
tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH.

Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XHCN,
khơng mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội củ chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong điều kiện cụ thể
sự lựa chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN.
Con đường CNXH cho phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo
hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển xã hội theo chiều
hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của
xã hội tư bản mà trước hết là chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với
người..
Từ tất cả những lí do trên, nước ta đã lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hết sức khó
khăn, thử thách. Dân số trên 80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa
xã hội hầu như khơng có. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Viêc Đảng ta
luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử,
xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước.
Xã hội mà nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân, có một
nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng, hưởng cuộc sống
hạnh phúc, phát triển về mọi mặt, các dân tộc anh em chung sống hịa bình, đồn kết và hợp tác,
hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nghĩa là bỏ qua
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng của tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu những thành tựu
đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất
và nền kinh tế hiện đại.
3. Nhiệm vụ trong thời kì quá độ
Hiện nay nước ta vẫn đang ở trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Do vậy, điều
kiện và hồn cảnh đó đã đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Thứ nhất, một nhiệm vụ chiến lược và lâu dài của đất nước là xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta
“Đảng và nha nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản kí của nhà nước theo định hướng

xã hội chủ nghĩa”. Hiện nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường. Nhưng trong mỗi chế độ khác nhau thì nền kinh tế thị trường được sử dụng với những
mục đích khác nhau. Ở các nước chủ nghĩa tư bản, đó là nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Cịn ở nước ta, đó là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu thế
phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của LLSX ở nước ta, với yêu
cầu của quá trình xây dựng nền kinh tê độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế
thế giới. Điều này đã được Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Thứ hai, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động
thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của nước ta là một nền đại công nghiệp. Do vậy,
22


chúng ta phải tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
nhằm xây dựng và thiết lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trọng
tâm trong suốt thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng ta đã chỉ rõ: Con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có
thể rút ngắn thời gian, vừa có tuần tự vừa có nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận
dụng mọi khả năng để đạt trình độ khoa học cơng nghệ tiên tiến, tưng bước phát triển kinh tế tri
thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Tóm lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công khi thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, chúng ta cần kết hợp chặt chẽ giữa phát triến kinh tế với chính trị và các mặt
khác của đời sống xã hội. Gắn liền với phát triến kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải khơng ngừng
đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đi đôi với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các
vấn đề xã hội. thực hiện công bằng xã hội tiến tới thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

23



×