Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghiên cứu triết học " BÀN VỀ PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA V.I.LÊNIN " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.19 KB, 5 trang )

BÀN VỀ PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA V.I.LÊNIN (*)

NGUYỄN HUY CANH (**)
Trong bài viết “Phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong
“Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán””, tiến sĩ Phạm Văn
Chung đã cố gắng làm rõ thêm định nghĩa vật chất của V.I.Lênin, song đó
mới chỉ là sự cảm nhận và khi luận giải đã không tránh khỏi những nhầm lẫn,
luẩn quẩn trong việc thể hiện ý tưởng của mình. Với mục đich trao đổi ý kiến
của mình với tiến sĩ Phạm Văn Chung, trong bài viết này, tác giả đã cố gắng
vạch ra những nhầm lẫn, luẩn quẩn mà tiến sĩ Phạm Văn Chung đã mắc phải
khi luận giải định nghĩa vật chất của V.I.Lênin.
1. Nhận dạng định nghĩa
Trong khi phê phán chủ nghĩa Makhơ có nguồn gốc từ chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng lý luận trong vật lý học,
V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển triết học Mác. Công lao của ông được ghi
nhận bởi một phát hiện nổi tiếng, khi đưa ra quan niệm về vật chất bằng định
nghĩa sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Quan niệm này của V.I.lênin đã được nhiều học giả mácxít bàn luận và về cơ
bản, là đúng đắn, chính xác. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế
cần phải được làm rõ.
Bài viết của tiến sĩ Phạm Văn Chung, theo tôi, là một phát hiện ra những hạn
chế đó, mặc dù phát hiện này mới chỉ là sự cảm nhận.
Vì chưa đạt đến trình độ nhận thức triết học về những hạn chế đó, nên tác giả
Phạm Văn Chung đã mắc phải những nhầm lẫn, luẩn quẩn trong việc thể hiện
ý tưởng của mình.
Trước hết chúng ta hãy nói một đôi điều về khái niệm.
Khái niệm (phạm trù) là hình thức phản ánh chủ quan, biểu hiện chủ quan
tính bản chất của đối tượng. Những tính chất đặc trưng, những thuộc tính cơ
bản có tính bản chất của đối tượng được phản ánh, được ghi nhận trực tiếp


bởi định nghĩa khái niệm.
Do vậy, có thể nói, định nghĩa khái niệm là nội dung, là bộ mặt của khái
niệm, là lời giải thích trực tiếp cho khái niệm. Nhưng nó cũng đồng thời
nhằm trực tiếp nói về đối tượng mà khái niệm phản ánh. Dù là khái niệm ấy
được con người xây dựng bằng cách nào đi chăng nữa (trực tiếp hay gián tiếp,
đường vòng hay đường thẳng) thì nội dung của nó được chỉ ra trong định
nghĩa cũng là nhằm trực tiếp nói về đối tượng ấy chứ không bao giờ là một sự
gián tiếp như tác giả đã hiểu.
Lấy lại một ví dụ trong toán học mà tác giả đã có ý đưa ra – “Hình thang là
một tứ giác có hai cạnh đối song song”.
Ở những loại định nghĩa này, tác giả mới chỉ nhìn thấy khái niệm là sự phản
ánh, biểu hiện trực tiếp, nói trực tiếp, nhằm chính diện vào đối tượng trong
hiện thực mà không thấy rằng, nội dung ấy còn là lời giải thích cho hình
thang với tư cách sản phẩm của quá trình tư duy, quá trình nhận thức. Hai tư
cách này của hình thang (cũng như của vật chất) có một sự khác biệt nhau -
đó là điều ai cũng biết. Nhưng từ đó, không cho phép chúng ta đánh mất đi
tính thống nhất, đồng nhất giữa chúng. Do chỉ nhìn thấy sự khác nhau, sự đối
lập không thể vượt qua được, nên tác giả (P.V.C) đã không nhìn thấy được cái
một trong cách phát biểu mà chúng ta sẽ phân tích dưới đây.
Có một điều xin được bổ sung. Khi phát biểu về định nghĩa hình thang, người
ta không đưa thêm vào cụm từ “một khái niệm toán học dùng để chỉ”. Điều
này, theo tôi, chỉ làm cho định nghĩa thêm dài dòng, rối rắm và không cần
thiết. Bởi vì hình thang là một vật của trừu tượng toán học, là sản phẩm của tư
duy trừu tượng hay là một phức hợp cảm giác, cảm tính, kinh nghiệm là điều
không quan trọng đối với họ và đó cũng không phải là nhiệm vụ mà toán học
phải quan tâm giải quyết.
Trở lại định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin, chúng ta dẫn ra ở đây hai định
nghĩa:
- “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác… ” (1).

- “Vật chất là một thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm
giác” (2).
Tác giả (P.V.C) đã có sự phân chia, tách rời các định nghĩa trên thành hai
dạng. Theo tác giả, ở định nghĩa dạng (1), V.I.Lênin (chỉ) giải thích trực tiếp,
nói trực tiếp về vật chất với tư cách một vật trong tư duy, một trừu tượng triết
học. Còn ở định nghĩa dạng (2) mới là sự giải thích trực tiếp, chính diện về
vật chất.
Chúng ta thấy rằng, ở định nghĩa dạng (1), nội dung “… dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác …, và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác” sẽ là cái gì nếu không phải là những biểu hiện chủ
quan, phản ánh chủ quan (trực tiếp, chính diện) thuộc tính cơ bản, tính bản
chất của đối tượng vật chất trong hiện thực.
Việc V.I.Lênin khẳng định “vật chất là một phạm trù triết học” là xuất phát từ
tính lịch sử của vấn đề - điều này thì tác giả hiểu rất rõ.
Ở định nghĩa dạng (2), tác giả cho rằng, đây mới là định nghĩa trực tiếp, rõ
ràng về vật chất với tư cách nó là những sự vật vật chất hữu hình, cụ thể trong
hiện thực khách quan. Nhưng tác giả đã không thấy ra một điều là, nội dung
“thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm giác” cũng là một
sự giải thích trực tiếp cho vật chất được hiểu như là một vật tư duy, một trừu
tượng triết học, một khái niệm.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng, các định nghĩa trên,
dù là cách phát biểu khác nhau, nhưng nội dung của chúng, về thực chất, chỉ
là một.
Việc phân chia thành hai dạng định nghĩa có thể dẫn đến một hậu quả ngoài ý
muốn: người ta có thể ngộ nhận ở định nghĩa (1), vật chất mới là một khái
niệm, phạm trù. Còn vật chất là chủ từ trong định nghĩa dạng (2) không phải
là một trừu tượng triết học, một phạm trù, mà là vật tồn tại trong hiện thực
khách quan. Nhưng đáng tiếc rằng, trong hiện thực khách quan không có cái
vật chất như thế tồn tại, mà chỉ có những vật cụ thể, hữu hình tồn tại mà thôi.
2. Về những thuộc tính của vật chất

Ở phần một, chúng ta đã hiểu rằng, khái niệm là một hình thức phản ánh chủ
quan những thuộc tính cơ bản, bản chất của đối tượng, sự vật. Nội dung phản
ánh này được ghi nhận đầy đủ vào trong định nghĩa. Qua đó, chúng ta nhận
biết được đối tượng ấy trong sự khác biệt với những cái khác; hiểu được sự
hình thành, những hình thái tồn tại và khuynh hướng phát triển của nó.
Nhưng, sự hiểu biết của khái niệm, những nội dung mà nó vạch ra có “lấp
đầy” những thuộc tính cơ bản nhất, bản chất nhất của đối tượng hay không?
Chúng ta biết rằng, để có một bức tranh đầy đủ, hoàn chỉnh (dĩ nhiên còn
tương đối) về sự vật trong vận động, biến đổi thì phải cần đến sự tổng hợp
của nhiều trừu tượng, nhiều khái niệm về chúng. Điều này giải thích vì sao có
những thuộc tính cơ bản của đối tượng không được phản ánh vào trong khái
niệm, mà nó lại phản ánh, biểu hiện vào trong những khái niệm khác, những
trừu tượng khác được thực hiện bằng những con đường khác nhau của quá
trình nhận thức.
Ví dụ, trong toán học, khái niệm hình thang đã chỉ ra hai thuộc tính cơ bản
của nó: a) là một tứ giác (lồi); b) hai cạnh đối song song. Nhưng hình thang
không chỉ có hai thuộc tính cơ bản đó. Người ta đã chỉ ra được nhiều thuộc
tính có tính bản chất khác, như tính chất về góc, đường trung bình, diện tích
của nó được phản ánh ở trong các định lý.
Trở lại định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin. Có một điều rõ ràng ở định nghĩa
này: nó là sự biểu hiện chủ quan hai thuộc tính cơ bản, phổ biến nhất của vật
chất.
Thế nhưng, có lẽ, tác giả (P.V.C) đã có một sự nhầm lẫn nào đó giữa định
nghĩa của khái niệm với tính chất của đối tượng, nên từ định nghĩa này, tác
giả đã đi tới một kết luận chưa đúng: “vật chất có hai thuộc tính căn bản, phổ
biến…”.
Chúng ta đã biết, vận động, phát triển, không gian và thời gian cùng nhiều
thuộc tính khác đều là những thuộc tính cố hữu của vật chất mà tính căn bản,
phổ biến của nó cũng chẳng kém gì hai thuộc tính trên.
Vật chất là vô cùng, vô tận và luôn biến đổi. Việc tác giả khuôn chúng lại chỉ

vẻn vẹn có hai phẩm chất thôi là kết quả của một tư duy triết học cứng nhắc.
Hậu quả của việc làm này là đã đem lại cho chúng ta một bức tranh quá
nghèo nàn về thế giới. Nhưng thực ra, sự tìm tòi, sự nhận thức triết học của
chúng ta về nó là một quá trình đầy gian khổ và lâu dài như bản thân sự tồn
tại của chúng ta vậy.r
(*) Nhân bài viết của TS. Phạm Văn Chung đăng trên Tạp chí Triết học, số 7,
2007, tr. 49 - 57.
(**) Cử nhân triết học.


×