Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc trang trí cổ đình làng trù mật, xã văn lung, thị xã phú thọ, tỉnh phú thọ (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.82 MB, 78 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Trước các biến động của lịch sử - xã hội, dường như có rất nhiều giá trị
văn hóa đã nảy sinh hoặc là quy tụ về với làng, làm cho văn hóa trở nên đa
dạng, phong phú trong tính tự trị riêng của nó. Trải qua bao nhiêu thăng trầm,
biến cố của lịch sử, con người đã không ngừng đấu tranh để vươn lên, không
ngừng sáng tạo để sản sinh ra những đứa con tinh thần cho cuộc sống. Một
trong những sản phẩm của sự sáng tạo đó là đình làng, nơi sản sinh, hội tụ các
yếu văn hóa dân gian.
Ở mỗi vùng nơng thơn Việt Nam, hình ảnh cây đa, mái đình đã trở thành
biểu tượng của văn hóa đời sống, gắn bó mật thiết với những hoạt động, sinh
hoạt của người dân. Đình làng là nơi thờ Thành Hồng làng, người có cơng
đầu sáng lập làng xã, hoặc các anh hùng dân tộc... Ngồi ra, đình làng cịn là
nơi sinh hoạt văn hóa, hội hè... là trụ sở hành chính của chính quyền làng xã,
nơi giải quyết mọi vấn đề, mọi công việc theo quy ước của làng. Do vậy, kiến
trúc đình làng được trú trọng, phát triển mạnh. Gắn chặt với kiến trúc là nghệ
thuật trang trí đình làng. Những chạm khắc đình làng đã được thể hiện trên
các vì kèo, đầu bẩy, xà... mà ở đó những nghệ sĩ dân gian đã gửi gắm những
tâm tư, tình cảm của mình, ngồi những mảng hoa văn như một sự kế tiếp
truyền thống trước đó, những đề tài như lồi vật, thảo mộc. Chạm khắc ở đình
làng khơng những là tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường của người
xưa cũng như tâm hồn người nghệ sĩ nông dân Việt Nam.
Trên thực tế, có nhiều cách hiểu về hiện thực rất khác nhau: hiện thực
là cái có thực trong cuộc sống xung quanh như thiên nhiên, đồ vật, đời sống
con người được mơ phỏng giống hệt, y chang ngồi cuộc sống... Cái đẹp
ngoài thiên nhiên, cuộc sống và trong nghệ thuật phải chăng là do nghệ sĩ tạo
nên trong trang trí đình làng? Cái nhìn của ơng cha ta xưa kia, của nghệ sĩ dân
gian, lối diễn tả hiện thực với những khát vọng về cuộc sống có gì cần phải
bàn bạc đến? Cái gì qui định họ trong lối diễn tả hiện thực?


Những người quan niệm rằng thực tại cịn có cả đời sống tâm linh, niềm


2

tin tôn giáo, các huyền thoại và truyền thuyết. Đây là vấn đề cần bàn luận và
cần có sự hiểu thấu đáo về nó.
Nghệ thuật chạm khắc đình làng Việt Nam đóng góp những thành tựu
nghệ thuật và ảnh hưởng không nhỏ cho tới nền mĩ thuật Việt Nam trong suốt
cả thế kỷ IX đến XX. Trong giai đoạn hiện đại nội dung thể hiện trong các tác
phẩm chạm khắc đình làng được mở rộng, đề tài sáng tác phong phú. Ngơn
ngữ của chạm khắc đình làng cũng vượt qua cả khái niệm chạm khắc đơn
thuần. Hệ thống nét, hình, phương pháp chạm khắc khơng cịn câu nệ vào một
cách làm truyền thống nào. Nhiều kỹ thuật, thủ pháp làm mới được bổ sung,
ngôn ngữ thay đổi làm đa dạng và phong phú thêm cho loại hình nghệ thuật
này. Đã có nhiều tác phẩm đạt tới sự thành cơng nhất định, thể hiện được vẻ
đẹp tinh tế qua chất liệu, được nhìn nhận và đánh giá cao trong xu thế hội
nhập và phát triển với nền hội họa thế giới.
Đình làng Trù Mật là di tích lịch sử cấp quốc gia có lịch sử lâu đời lên
đến 1047 năm. Đền thờ Đức đại vương Kiều Cơng Thuận và đình là thờ Mẹ
của Đức Đại Vương, không những thế người dân ở đây cịn tơn vị tướng Kiều
Cơng Thuận lên làm Thành hoàng bởi cảm phục trước tài cao đức trọng của vị
tướng này.
Đặc sắc trong kiến trúc, chạm khắc trang trí đình làng Trù Mật là
những nét cổ kính, họa tiết chạm khắc trang trí cổ, phản ánh những hiện thực
đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh trong văn hóa người dân vùng trung du
Đất Tổ.
Bởi kiến trúc lâu đời và trải qua nhiều biến cố lịch sử nên các họa tiết
trang trí cũng như các cơng trình kiến trúc cũng thay đổi theo thời gian. Bởi
vậy em muốn nghiên cứu về những nét chạm khắc trong đình cũng như ngơi

đền bên trong đình Trù Mật. Em muốn tìm hiểu kĩ hơn về những nét chạm
khắc trang trí cổ cũng như muốn bảo tồn những giá trị lịch sử để nó khơng bị
lãng qn theo thời gian.
Nghệ thuật ngày càng phát triển, đòi hỏi các thế hệ trẻ ngày nay phải
không ngừng sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm để thừa kế những tinh hoa và vận


3

dụng vào việc sáng tác. Được học tập và làm quen với chất liệu này sẽ giúp
cho thế hệ trẻ hiểu được cái hay cái đẹp của nghệ thuật cha ông nhằm tiếp thu
và vận dụng vào việc học tập. Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài
“Tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc trang trí cổ đình làng Trù
Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp.
2 - Tình hình nghiên cứu
Đã có một số bài viết nghiên cứu về nội dung này nhưng với cách tiếp
cận khác nhau:
1. Nguyễn Kim Bảo (2014), Chạm khắc trang trí đình làng, Tạp chí Mỹ thuật
.... đề cập đến thủ pháp nghệ thuật trang trí của nghệ nhân.
2. Hồng Bá Hồng (2015), Hiện thực trong một số tác phẩm hội họa giai
đoạn 1975 đến nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, trường ĐH Hùng
Vương nghiên cứu về hiện thực trong hội họa.
3. Nguyễn Huy Oanh (2013), Lễ hội đình đền Trù Mật, Luận văn tốt nghiệp
cao học khai thác nét văn hóa lễ hội đền Trù Mật.
4. Thắng Trần (2013), Nguồn gốc và chức năng đình làng Việt Nam, Website
Sở VHTT và DL tỉnh Tuyên Quang chỉ mới viết về Nguồn gốc và chức năng
đình làng Việt Nam.
Nội dung đề tài chạm khắc trang trí cổ cũng đã được nhiều nhà nghiên
cứu mỹ thuật, mỹ học quan tâm nhưng trong đề tài này em chọn và nghiên
cứu các vấn đề về: tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc đình làng trên

đình làng cổ Trù Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ.
Đây là đề tài nghiên cứu tìm hiểu về nghệ thuật chạm khắc đình làng
nhằm vận dụng vào việc học tập và sáng tác nghệ thuật không trùng lặp với
những nghiên cứu khác.
3 - Mục tiêu của đề tài
Đề tài này nhằm nghiên cứu và khẳng định những giá trị đặc sắc của
chạm khắc đình làng Trù Mật ở vùng trung du tỉnh Phú Thọ. Nghiên cứu nội
dung chạm khắc khai thác tính hiện thực trong tư tưởng thẩm mỹ của nghệ
nhân vùng đất Tổ. Những thủ pháp, kỹ thuật và phong cách sáng tác thể hiện


4

trên chạm khắc đình làng của nghệ nhân đạt được những giá trị nổi bật, đặc
biệt trong nền mỹ thuật cổ Việt Nam.
Tiếp thu, kế thừa, phát huy những giá trị của một số phong cách trong
tính hiện thực của nghệ thuật chạm khắc đình làng nhằm vận dụng vào học
tập và sáng tác nghệ thuật.
4 - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung chủ yếu vào các họa tiết, hình thức trang trí chạm khắc
trên kiến trúc (các yếu tố biểu cảm, biểu đạt ngôn ngữ trang trí) đình Trù Mật,
xã Văn Lung, thị xã Phú Tho., tỉnh Phú Thọ.
Nghiên cứu sự biểu hiện nội dung trang trí thơng qua hiển, dụng, mật từ
đó làm sáng tỏ các mối quan hệ giữa cái nhìn hiện thực và cách thức diễn tả
của phong cách sáng tạo nghệ nhân.
5 - Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu điền dã (lịch sử học nghệ thuật) ở những
mức độ nhất định nhằm: tiếp cận, phân tích nghệ thuật chạm khắc đình làng
với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm: phân tích về mặt lịch sử,

phong cách, đặc thù chất liệu, tính biểu cảm nghệ thuật, ngơn ngữ tạo hình
trong tính hiện thực của nghệ thuật chạm khắc đình làng
- Phương pháp trưng cầu ý kiến chuyên gia nhằm tìm ra giá trị của nghệ
thuật chạm khắc đình làng.
- Khai thác, sưu tầm tư liệu các sách báo nghiên cứu của các học giả
Việt Nam, đặc biệt lưu ý các thông tin về nghệ thuật chạm khắc đình làng, ý
nghĩa và hình thức biểu đạt của chúng.
6 - Dự kiến kết quả nghiên cứu
- Báo cáo tốt nghiệp
- Là tài liệu nghiên cứu cho những người ham mê mỹ thuật truyền
thống Việt muốn tìm hiểu về nhân sinh quan, vũ trụ quan, phong cách sáng,
góp phần nâng cao khả năng thẩm mỹ, xây dựng hình tượng sáng tác tác
phẩm.
- Là tài liệu tham khảo cho sinh viên mỹ thuật trường Đại học Hùng
Vương.


5

PHẦN NỢI DUNG
Chương 1: Khái qt lịch sử hình thành và đặc điểm của nghệ thuật
chạm khắc đình làng Bắc bộ Việt Nam
1. 1. Nguồn gốc và chức năng của đình làng (Bắc bộ Việt Nam)
1.1.1. Nguồn gốc
Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngơi đình. Đó là nơi thờ Thành
Hoàng làng (vị thần bảo trợ của làng). Vào mỗi dịp lễ tết, đình trở thành trung
tâm văn hóa của làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hóa tích lũy từ đời này qua
đời khác được thể hiện đầy đủ nhất.
Đình làng là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời từ thời Lê Sơ, đánh
dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. Đây là một biểu tượng

của tính cộng đồng, tự trị dân chủ của làng xã. Ngơi đình là trung tâm văn hóa
của làng mà thể hiện cơ đọng nhất là lễ hội....[12;16]
Theo các già làng kể lại, thời xưa có 9 loại đình:
1/ Kiều đình (cầu mái)
2/ Viên đình (đình dạng hình trịn)
3/ Phương đình (đình dạng hình vng)
4/ Giang đình (qn bến đị)
5/ Dịch đình
6/ Biên đình (Nơi trung chuyển của sứ thần 2 nước ở biên giới)
7/ Đình làng (nơi tụ họp của làng và thờ thần)
8/ Đình thưởng hoa
9/ Đình trạm
Thời điểm xuất hiện và nguồn gốc của đình làng Việt Nam đến nay vẫn
có nhiều giả thuyết khác nhau. Từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử
Việt Nam là vào thế kỉ II, thế kỉ III. Trong “Lục bộ tập kinh” của Khang Tăng
Hội có đoạn: “Đêm đến ơng lặng lẽ chốn đi. Đi hơn trăm dặm vào nghỉ ở một
ngơi đình trống. Người giữ đình hỏi: “Ơng là người nào”. Ơng trả lời: “Tôi
là người xin nghỉ nhờ”... (Theo Hà Văn Tấn - Đình Việt Nam). Chi tiết “ngơi
đình trống” trong đoạn văn trên cho ta cơ sở khẳng định đó là trạm nghỉ chân


6

dọc đường, cịn chi tiết “người giữ đình” cho ta giả thiết đó là ngơi đình là
nhà cơng cộng của làng xã. Tuy nhiên, giả thiết này còn thiếu chắc chắn.
Như vậy, đình trạm là hiện tượng phổ biến ít nhiều từ thế kỉ thứ II.
Thời nhà Đinh, ở cố đơ Hoa Lư đã có dựng đình cho sứ thần nghỉ chân trước
khi vào trầu vua. Đến đời Trần, đình với tư cách là trạm nghỉ chân được ghi
trong Đại Việt sử kí tồn thư: “Thượng hồng xuống chiếu rằng, trong nước
ta, phàm chỗ nào có đình trạm đều phải tô tượng phật để thờ. Trước là tục

nước ta, sau là vì nắng mưa nên làm đình để cho người ta đi đường nghỉ
chân, trát vách bằng vôi trắng gọi là đình trạm” (Theo Hà Văn Tấn, Nguyễn
Văn Kự - Đình Việt Nam).
Dưới thời nhà Lê, đình làng đã phát triển. Một sự kiện quan trọng dưới
thời Lê Thánh Tông đã được Hồng Đức thiên chính ghi chép lại về việc lập
đình như sau: “Người giàu đã bỏ tiền làm đình hay cơng đức làm chùa. Thế
mà (người sau giữ việc hậu) không biết đền đáp ơn đức, chỉ lừa người lấy
của, chẳng bao lâu, tình nhạt lễ bạc, quên cả lời đoan, sinh thói bạc ác hoặc
bỏ cả giỗ chạp, không như đời trước, hoặc là làm cỗ bàn khơng như khốn
ước, hoặc năm thì trước năm thì sau, khơng đúng tháng hoặc trẻ thì lạy lớn
thì khơng, chẳng đồng lịng. Vậy con cháu đặt hậu ở đình hay ở chùa mà thấy
kẻ giữ ở hậu có trái lễ thì trình báo với nha mơn để thu lại tiền cơng đức”
(Theo Hà Văn Tấn - Đình Việt Nam).[5;48]
Đình có bia xưa nhất là đình Thanh Hà (Hà Nội), vốn xưa thuộc làng
Thanh Hà cổ, nay thuộc phố ngõ Gạch, quận Hoàn Kiếm. Bia đề năm Thuận
Thiên thứ 3 (1433). Các cứ liệu trên cho phép ta khẳng định đình làng đã có
từ thời Lê Sơ, đầu thế kỉ XV. Những ngơi đình xưa nhất cịn bảo tồn đến ngày
nay đều có niên đại vào thời nhà Mạc, thế kỉ XVI, đó là:
- Đình Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Nội) dựng năm Đại Chính thứ 2 (1531).
- Đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa, Bắc Giang) được ghi vào niên hiệu Sùng
Khang (1566 - 1577), nhiều người dự đoán vào năm 1576.
- Đình Phù Lưu (Tiên Sơn, Bắc Ninh), được dựng vào cuối thế kỉ XVI.
- Đình Là (Thường Tín, Hà Nội) dựng năm Diên Thành thứ 4 (1581).


7

- Đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội) dựa vào phong cách kiến trúc và điêu
khắc, người ta dự đoán được dựng vào thế kỉ XVI.
Căn cứ vào tài liệu, bi kí, chúng ta có thể biết thêm về những ngơi đình

được dựng trong thế kỉ XVI. Bia đình Nghiêm Phúc (xã Lam Cầu, huyện Gia
Lộc, tỉnh Hải Dương) dựng năm Hưng Trị thứ 4 (1591) ghi rằng đình được làm
vào niên hiệu Cảnh Lịch (1548- 1553). Văn bia đình Đại Đoan (xã Đoan Bái,
Gia Lương, Ninh Bình) cho biết đình dựng năm Quý Tỵ, niên hiệu Diên Thành
(1583)…
Về nguồn gốc đình làng cũng có nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa
có giải đáp chắc chắn. Có ý kiến cho rằng, đình vốn là hành cung của vua,
được xây dựng dành cho vua khi đi tuần thú, sau mới thành đình làng. Có ý
kiến khác cho rằng, vào thời Lý ở Thăng Long, người ta xây dựng những
phương đình (có quy mơ nhỏ) để dán các thơng báo của chính quyền, hoặc là
nơi người ta tuyên đọc các văn kiện của nhà vua. Sau đó, kiến trúc loại này
tỏa về làng với chức năng như trụ sở hành chính của làng. Một vài ý kiến
khác cho rằng đình làng có thể bắt nguồn từ các kiến trúc thờ thần đất và thần
nước. Các cư dân Việt cổ trong tín ngưỡng bản địa, sùng bái thần đất và thần
nước che chở ni sống họ.
Do vậy, đình làng với tín ngưỡng của nó có thể có nguồn gốc từ việc
thờ thần đất, nước, hai vị thần quan trọng nhất của cư dân nơng nghiệp Việt
Nam. Trong tiến trình lịch sử tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn
thực, thờ mẫu, thờ sức mạnh tự nhiên, và có phần ảnh hưởng không lớn lắm
của đạo Phật, đạo Nho đã được bổ sung tạo ra những biến thể phong phú của
Thành Hoàng làng Việt Nam.
Trong các đình của người Việt, ta biết rằng đình chắc chắn đã có từ thế
kỷ 15. Về vật chất của đình làng, niên đại sớm nhất ta mới tìm thấy từ năm
1531, đó mới chỉ là niên đại trùng tu ở đình Thụy Phiêu (Ba Vì), và sau đó là
các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh…[22;62]
Các đình đã dính đến thờ thần thành hồng làng thì dần dần người ta lấy
cái đó là yếu tố tín ngưỡng thờ cúng rất cao. Từ đó, kiến trúc đình mang tư


8


cách ba tầng của vũ trụ. Ví dụ, tầng mái gắn với tầng trời, tầng giữa là tầng
người và thần linh quan hệ và tầng dưới là tầng đất. Ngôi đình làng là sản
phẩm thuần khiết gắn với văn hố làng, hội tụ biểu tượng cao độ về đời sống
vật chất và tinh thần của làng. Giá trị của nó nằm ở thành tựu kiến trúc và
điêu khắc trang trí cổ Việt Nam, ở đó đã kế thừa và phát triển cao, độc đáo
nghệ thuật điêu khắc truyền thống của người Việt.
1.1.2. Chức năng đình làng
Đình làng là một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng tổng hợp, có ba chức
năng: Tín ngưỡng, hành chính, văn hóa. Rất khó để xác định chức năng nào
có trước, chức năng nào được bổ sung. Hơn nữa, ba chức năng đan xen, hòa
quện với nhau đến mức khó có thể phân biệt.
Trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt từ xa xưa, cái đình đã trở
thành một hình ảnh tiêu biểu và thân thuộc đại diện cho tính cộng đồng làng
xã. Mái đình từ lâu đã sớm đi vào trong những câu ca dao quen thuộc, nhuần
nhị:
“Qua đình ngả nón trơng đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.”
Hay:
“Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.”
Đình là nơi diễn ra mọi hoạt động đời sống của làng. Chức năng đầu
tiên khi đình được thành lập là chức năng tín ngưỡng. Đình là nơi thờ thành
hồng làng, đó có thể là những trung thần nghĩa sĩ có cơng với đất nước (nhân
thần) hoặc các vị tiên thần trong truyền thuyết. Những hương ước, luật lệ,
những quyết định trọng đại về các vấn đề của làng được giải quyết trong các
cuộc họp của Hội đồng kì mục ở dưới mái đình. Qua đây, chức năng hành
chính đã được thể hiện rõ rệt. Khơng dừng lại ở đó, đình thể hiện trọn
vẹn chức năng văn hóa khi là nơi tụ họp trong những dịp hội hè đình đám, nơi
diễn ra các trị chơi dân gian, các hoạt động văn hóa, văn nghệ của làng.



9

Chẳng thế mà “nghe tiếng trống chèo” giữa sân đình là người người nhà nhà
lại nhanh chóng sửa soạn, í ới gọi nhau để cùng nô nức đi xem.
Như vậy, đình đã trở thành mái nhà chung của cả cộng đồng, nó gắn bó
khăng khít và chứng kiến mọi buồn vui trong đời sống con người từ khi thiếu
thời đến lúc về già. Vì lẽ thế mà dân làng rất u q cái đình của làng mình.
Một ngơi đình khang trang, uy nghi bề thế thể hiện đời sống vật chất và tinh
thần thịnh vượng, và do đó, là niềm tự hào của cả làng.
“Trời lấy đình để ni mn vật
Đất lấy đình để chứa mn lồi
Người ta lấy đình làm nơi tụ họp”
(Ngơ Thì Nhậm)
Trong các đình làng Việt Nam, vị thần được thờ cúng là Thành Hoàng
làng, vị vua tinh thần, thần hộ mệnh của làng do triều đình ban bố, gây dựng.

Hình 1.1: Đình Phù Lưu( Bắc Ninh) - Ảnh: Nguồn internet
Khi tín ngưỡng Thành Hồng du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc
cũng nảy sinh ra một số Thành Hoàng mà chức năng cũng giống như ở Trung
Quốc… Các vua triều Nguyễn còn lập miếu thờ Thành Hồng làng ở tỉnh và
huyện. Nhưng khi tín ngưỡng Thành Hồng về làng, xã thì nó đã biến đổi
khác với tín ngưỡng Thành Hồng ở Trung Quốc. Như vậy, tín nguỡng Thành
Hồng Trung Quốc khi du nhập vào làng xã Việt Nam thì các yếu tố văn hóa
Hán, hoặc hiện tượng Hán hóa khác bị cổng làng chặn lại thì nó lại tìm thấy


10


các tín ngưỡng bản địa có tính tương đồng, nên hội nhập rất thuận lợi với hệ
thống tín ngưỡng đa nguyên của Việt Nam.
Nguồn gốc của Thành Hoàng cũng rất phức tạp. Trước hết là các thần
tự nhiên (thiên thần hay nhiên thần) được thờ ở rất nhiều đình làng. Các vị
thần này đều được khoác áo nhân thần với các tiểu sử thế tục. Được thờ chủ
yếu là Sơn Tinh (thần núi), Thủy Tinh (thần sông, thần biển), trong đó, Tản
Viên Sơn thánh có địa vị cao hơn cả. Ngồi ra, các vị thần núi có tên như Cao
Các, Quý Minh được thờ ở nhiều nơi. Các thần núi ở địa phương, như: Tam
Điệp Sơn, Điệp Sơn cũng được tơn làm Thành Hồng làng.
Thành Hồng làng thứ hai là các nhân thần. Các nhân vật lịch sử, như:
Lí Bơn, Ngơ Quyền, Đinh Tiên Hồng, Trần Hưng Đạo… Chiếm số đơng
trong các nhân thần là những người ít nổi tiếng hơn như: Quan lại, nho sĩ và
đặc biệt là các tướng của Hai Bà Trưng, nhất là các nữ tướng. Những vị thần
này thực ra là các nhân vật truyền thuyết, mang tính giả lịch sử hơn.
Thành Hồng làng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản địa, như tục thờ
cây, thờ đá thời nguyên thủy...
Ngoài các vị thần, ở đình làng cịn thờ những người có cơng khai phá
đất mới, lập làng, như: Hai hoàng tử thời Lý là Đông Chinh Vương và Dực
Thánh Vương, Nguyễn Hữu Cảnh, Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Cư Trinh … Ở
miền Bắc thường gặp ở các vùng ven biển dân làng thờ những người có cơng
khai hoang lấn biển. Những người gọi là “tiên hiền” là những người đến
trước, “hậu hiền” là những người đến sau tiếp tục công cuộc “khai canh, khai
khẩn”. Thành Hồng có thể là người xuất thân hèn kém, có người chết vào
giờ thiêng cũng được thờ làm thần. Trong lễ hội, người ta thường cử hành
“hèm” để nhắc lại thần tích của các vị Thành Hồng làng này.
Những người có cơng đóng góp cho làng sau khi chết được dân làng
thờ làm “hậu thần”, hàng năm cúng giỗ ở đình. Có người khi cịn sống đóng
góp cho làng trên cơ sở có khốn ước với làng, được ghi thành văn bản, đôi
khi được khắc vào bia đá. Họ được “bầu hậu” khi chết đi được thờ làm “hậu
thần” và được làng hương khói hàng năm.



11

Ngồi ra, ở một số làng nghề thủ cơng người ta còn thờ tổ nghề gọi là
“tiên sư”. Trong miền Nam các “tiên sư” được thờ ở nhà hậu của đình làng,
chỉ có một số ít “tiên sư” được thờ ở chánh điện.
Tóm lại, các thần làng Việt Nam biểu hiện một hệ thống tín ngưỡng đa
ngun. Đó là một hệ thống pha lẫn nhiều yếu tố tín ngưỡng sơ khai của cư
dân nơng nghiệp (tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ mẹ, các thần sức
mạnh tự nhiên…) với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những người anh hùng và
có phần ảnh hưởng không nhiều của của đạo Phật và đạo Nho.
Đình làng thực sự là trụ sở hành chính - nơi mọi cơng việc về hành
chính của làng đều được tiến hành ở đó. Từ việc xét xử các vụ tranh chấp,
phạt vạ, khao vọng, từ thu tô thuế đến việc bắt lính, bỏ các xuất phu đinh.
Chủ thể tiến hành các hoạt động hành chính ở đình làng là các vị có
chức danh Chánh tổng, Lý trưởng, Phó lý, Trưởng tuần và các viên quan của
Hội đồng hương kì, kì mục. Cơ sở để giải quyết các cơng việc của làng được
dựa vào lệ làng hoặc hương ước. Hương ước là một hình thức luật tục. Gắn
với hồn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời của từng làng mà nhân dân có các
bộ luật nhà nước khơng thể bao quát được.
Các làng đều có hương ước riêng với nội dung rất cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, hương ước làng bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
+ Những qui ước về ruộng đất: việc phân cấp công điền, cơng thổ theo
định kì và qui ước về việc đóng góp (tiền và thóc).
+ Qui ước về khuyến nơng, bảo vệ sản xuất, duy trì đê đập, cấm lạm sát
trâu bò, cấm bỏ ruộng hoang, chặt cây bừa bãi.
+ Những quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức dịch
trong làng. Việc xác định chức dịch trong làng nhằm hạn chế họ lợi dụng
quyền hành và thế lực để mưu lợi riêng.

+ Những quy định về văn hóa tư tưởng, tín ngưỡng. Đó là những quy
ước nhằm đảm bảo các quan hệ trong làng xóm, dịng họ, gia đình, láng
giềng, được duy trì tốt đẹp. Quy định về việc sử dụng hoa lợi của ruộng công


12

vào việc sửa chữa, xây dựng đình, chùa, điện, quy định về thể lệ tổ chức lễ
hội, khao vọng, lễ ra làng, lễ nộp cheo…
Hương ước cịn có những quy định về hình phạt đối với ai vi phạm. Vi
phạm mức độ nào thì nộp phạt hoặc phải làm cỗ ở đình làng để tạ tội với
Thành Hồng làng. Hình phạt cao nhất là bị đuổi ra khỏi làng.
Có thể nói, hương ước là một bộ luật của làng xã. Về cơ bản, hương
ước chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian tốt đẹp, được hình thành lâu
đời và nếu được chắt lọc có thể phát huy những giá trị tốt đẹp trong cuộc
sống làng xã hiện nay.
Với đặc điểm của tính tự trị và tính cộng đồng của làng xã, hoạt động
hành chính và quản lí của làng xã được tiến hành có hiệu quả. Đình làng với
tư cách là trụ sở hành chính đã trở thành biểu tượng của tính tự trị và sự cố kết
cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử của mình.
Đình làng là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cả làng. “Cây đa, bến
nước, sân đình” đã đi vào tâm hồn của người dân quê. Đỉnh cao của các hoạt
động văn hóa ở đình làng là lễ hội. Làng vào hội cũng được gọi là vào đám, là
hoạt động có quy mơ và gây ấn tượng nhất trong năm đối với dân làng. Ở các
làng q Việt Nam cịn có hội chùa, hội đền nhưng phần lớn là hội làng được
diễn ra ở đình làng gắn với đời sống của dân làng. Lễ hội bao gồm hai phần
chính là: Phần lễ và phần hội:
+ Lễ là các hoạt động có tính nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng.
+ Hội là hoạt động mang tính giải trí, gắn liền với thế tục, nghệ thuật,
thể dục, thể thao. Nhưng trong một số trò chơi hội làng cũng có ý nghĩa tâm

linh, gắn với mục đích cầu mưa, cầu mùa. Lễ hội ở làng diễn ra “xn thu, nhị
kì” vào các dịp nơng nhàn. Lễ hội phần lớn vào tháng Giêng, có nơi vào thành
hai, tháng ba âm lịch. Lễ hội thu thường vào tháng bẩy, tháng tám. Đó là hai
lễ hội lớn, cịn trong năm người ta cúng lễ Thành Hoàng làng.
Lễ cúng Thành Hồng làng trong khi mở hội có quy trình như sau:
- Lễ trộc dục: Lễ tắm tượng thần hay thần vị.


13

- Lễ tế Gia quan tức là lễ mặc áo, đội mũ cho tượng thần. Nếu chỉ có
thần vị thì đặt áo, mũ lên ngai.
- Rước thân: Khi mở hội, người ta rước thần từ đền ra đình. Khi kết thúc
hội thì lại rước thần về đền. Ở nhiều làng, người ta thờ Thành Hồng làng ngay
trong đình. Trong ngày hội, người ta rước thần đi vòng quanh làng và quay về
đình.
- Đại tế: Là lễ tế quan trọng nhất. Có một người đứng chủ trì lễ (chủ tế),
cịn gọi là mạnh bái. Ngồi ra cịn có hai hoặc bốn người bồi tế, hai người
đồng xướng, hai người nội tán, mười đến mười hai người chấp sự.
Sau buổi đại tế, người ta coi thần ln có mặt ở đình nên các chức sắc
và bô lão phải thay nhau túc trực. Mở hội gọi là nhập tịch, hết hội gọi là ngày
xuất tịch hay còn gọi là ngày dã đám.
Sau phần tế lễ là các hoạt động vui chơi, giải trí. Sân đình trở thành sân
khấu diễn xướng, ca hát. Ở những hội làng Bắc Bộ, sân đình thường có chiếu
chèo, vùng Bắc Ninh, Bắc Giang sân đình gắn với hội hát quan họ.
Mỗi địa phương có trị chơi khác nhau, thỏa mãn con người với nhiều
nhu cầu như: Nhu cầu tâm linh (các trò chơi gắn với cầu mưa, cầu mùa, cầu
ngư...), nhu cầu cộng cảm, nhu cầu thể hiện sức mạnh, sự tài trí. Các trị chơi
gắn liền với nghi lễ cầu mưa, cầu mùa, như: Cướp cầu, kéo co, đua thuyền…
Cho đến nay, cúng đình và lễ hội vẫn là hình thức sinh hoạt cộng đồng

tiêu biểu ấn tượng nhất của làng xã. Trong sinh hoạt tín ngưỡng đó, người dân
vẫn tin vào sự phù hộ của các vị thần trong mùa màng và đời sống. Hội làng ở
đồng bằng Bắc Bộ sau một thời gian bị đứt đoạn đã có sự phục hồi nhanh
chóng, chứng tỏ dân làng vẫn có nhu cầu về tâm linh. Điều đó cũng chứng tỏ
sức sống bền bỉ của tín ngưỡng thờ Thành Hồng làng.
Tóm lại, đồng bằng trung du Bắc Bộ là cái nơi của nền văn hóa Việt
Nam. Những nhân tố tự nhiên và xã hội đã hình thành nên làng, một cộng
đồng làng, lối sống làng. Đình làng là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời
từ thời Lê Sơ, đánh dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền.


14

Đình làng là một biểu tượng của tính cộng đồng, tự trị dân chủ của làng xã.
Ngơi đình là trung tâm văn hóa của làng mà thể hiện cơ đọng nhất là lễ hội.
Ngơi đình làng là địa điểm diễn ra nhiều hoạt động quan trọng của làng
xã trong thời trung cận đại. Đây là nơi thờ Thành hoàng Làng để cầu mong
được chở che, ngăn tai giáng phúc, là nơi diễn ra lễ hội Nhập tịch Tàng câu
của làng, nơi kỳ lão chức sắc hội họp bàn bạc và giải quyết việc làng, nơi tất
cả đinh nam trong làng cùng thực hiện lễ Hương ẩm tửu mỗi khi có việc tế tự
cầu cúng. Nơi tiếp đón quan lại triều đình khi có việc cơng hoặc khách khứa
của làng… Điều này cho thấy ngơi đình làng là một địa điểm công cộng quan
trọng không thể thiếu của cộng đồng làng xã xưa kia.
Trước khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, các tín ngưỡng dân gian đã
ngự trị trong đời sống tinh thần người Việt. Để chấn an mình trước những
hiện tượng tự nhiên không thể lý giải, để được che chở, để có cuộc sống bình
n, người Việt cổ từ lâu đời đã thờ cúng các vị Nhiên thần như các thần núi
sông, cây đá, đặc biệt, do là vùng đất nhiều sông nước, người dân sống bám
dọc theo các triền sông nên thủy thần là vị thần được thờ phụng khắp nơi.
Việc thờ cúng ban đầu diễn ra ngoài trời, ngay tại gốc cây, bờ nước, về sau

khuynh hướng nhân hóa thần linh phát triển, người chết có những biểu hiện
thiêng bắt đầu được thờ cúng, nhiều vị đã trở thành phúc thần bảo hộ cho
cộng đồng, người ta đã dựng lên những ngôi miếu, ngôi đền nhỏ để thờ. Dần
dần những nơi này trở thành địa điểm sinh hoạt cộng đồng, không chỉ cầu
cúng xin được chở che, đừng gây tai giáng họa mà các hoạt động khác trong
cộng đồng như xử lý các vi phạm luật lệ của cộng đồng, ăn thề, xử các vụ
tranh chấp nhỏ… cũng diễn ra tại đây trước sự chứng kiến của thần linh và
dân làng.
Vào đầu công nguyên, khi bị nhà Hán xâm lược, văn hóa Hán dần xâm
nhập vào nước ta, tín ngưỡng thờ Xã thần du nhập theo chân các cư dân Hán.
Các đàn thờ xã thần (xã đàn) được lập lên tại các làng xóm. Xã ban đầu chỉ là
một cái nền đất đắp cao, xung quanh trồng một số loài cây làm biểu tượng cho
sự no đủ. Hàng năm vào các tháng trọng xuân và trọng thu, người ta tổ chức


15

cúng tế tại đây để báo đáp công sinh dưỡng vạn vật của đất đai. Về sau, tín
ngưỡng xã thần diễn biến dần, chuyển hóa thành tín ngưỡng thờ thần đất
(thần thổ địa) – vị thần có quyền lực chở che coi sóc cho một địa phương,
mang nhiều chức năng xã hội hơn. Dần dần, miếu thờ Thổ địa được dựng lên
thay thế Xã đàn. Cùng với những miếu thờ thần linh bản địa khác, miếu Thổ
địa trở thành một trong những địa điểm sinh hoạt cộng đồng của làng. Vào
các dịp lễ tết, dân chúng tụ tập đến trước những đền miếu này làm lễ tế thần,
ca hát vui chơi.
Đầu thế kỷ XV, tục thờ Thành hoàng làng cũng bắt đầu phát triển. Trên
thực tế, tín ngưỡng Thành hồng đã được truyền đến nước ta vào thời Đường
- Tống, tuy nhiên cho đến thế kỷ XIV, vẫn chỉ có Đơ thành hồng, chưa có
Thành hồng làng. Để tín ngưỡng Thành hoàng trở thành tục thờ Thành
hoàng làng đậm màu sắc Việt thì phải tính từ thế kỷ XV sau khi nhà Minh

chiếm được nước ta. Một số chính sách về thờ cúng tế tự được ban hành,
trong đó mệnh lệnh lập thêm Thành hoàng ở các phủ châu huyện được thực
thi, kể từ đó tín ngưỡng Thành hồng phát triển mạnh ở nước ta và đây chính
là thời kỳ Thổ địa và Phúc thần địa phương được nâng cấp thành Thành
hồng làng.
Vậy là cho đến trước khi có dấu vết tồn tại của ngơi đình (cuối thế kỷ
XV), lễ Nhập tịch Tàng câu, tục thờ Thành hoàng và các sinh hoạt cộng đồng
khác của người Việt như xử lý việc làng, bao gồm xử các tranh chấp kiện cáo
nhỏ trong làng, các hành vi vi phạm lệ làng, giải quyết các vấn đề về thuế má
quan dịch. Cả việc tập họp dân làng để nghe các lệnh lệ của triều đình đều đã
tồn tại và được thực hiện từ lâu đời tại các địa điểm công cộng của làng như
các đền miếu thờ thần linh, thổ địa và sân chùa, trên thực tế, nhu cầu về một
địa điểm dành cho tất cả các hoạt động này không đến mức buộc phải có. Vậy
điều gì thúc đẩy sự xuất hiện của ngơi đình làng?
Mơ hình Thân minh đình thời Lê sơ. Ở lễ hội này, người ta tế thần,
chúc tụng, vui chơi, hát xướng, yến hưởng… Hầu hết các hoạt động vốn có
trong cộng đồng thường được thực hiện ở đền miếu trước khi có sự xuất hiện


16

của ngơi đình thì vào cuối thế kỷ XV đã được diễn ra tại đình làng. Điều đó
có nghĩa là trước thời Lê chưa thấy sự xuất hiện của ngôi đình, nhưng chỉ sau
vài chục năm, ngơi đình đã hiện diện tại hầu khắp các làng xã và mang trong
nó rất nhiều chức năng xã hội quan trọng. Điều này cho phép suy luận, có thể
đình làng được diễn biến từ một hiện tượng văn hóa hoặc được ra đời theo
một mệnh lệnh nào đó ở thời kỳ này.
Kiến trúc ngơi đình thế kỷ XVI khá giản đơn, chỉ có một tịa nhà ba
gian hai chái với sân đình phía trước và trước sân có giếng, chưa có hậu cung,
cũng chưa có tịa tiền tế để cúng thờ Thành hồng. Rõ ràng là ngơi đình thế

kỷ 16 được dựng lên chưa có chức năng thờ Thành hồng, bởi thần đã có
miếu để thờ, điều đó cũng có nghĩa là ở thời Mạc ngơi đình chưa mang chức
năng tơn giáo. Thực tế ngơi đình ở thời kỳ mới xuất hiện (thế kỷ XV - XVI)
chỉ dùng làm nơi thực hiện lễ Kỳ phúc hàng năm và để tổ chức lễ hội, đồng
thời, việc phân ngôi thứ để thụ lộc và hội họp đã xuất hiện ở đình Làng từ thời
kỳ này.
Khi chỉ mang những chức năng hành chính, ngơi Thân minh đình
đương nhiên chỉ được làm đơn giản, điều này lý giải về kiến trúc đơn giản của
ngơi đình thời Mạc. Nhiều văn bia cũng cho biết, trước khi dựng ngôi đình
kiên cố, ngơi đình cũ chỉ bằng tranh tre nứa lá. Đồng thời lễ Kỳ phúc cũng
như việc phân ngôi thứ để thụ lộc và hội họp ở ngơi đình thời Mạc đều hồn
tồn khớp với những gì diễn ra tại Thân minh đình với lễ Hương ẩm tửu thời
thuộc Minh và Lê sơ.
Do mỗi lần có việc, cả làng tụ họp rất đơng, vì vậy Thân minh đình
thường được dựng lên ở những nơi rộng rãi và thuận tiện qua lại. Về sau để
lấy bóng mát, người ta cho trồng các loại cây lớn như cây đa, cây muỗm, sau
nhiều năm tháng, cây đa dần trở thành một bộ phận gắn bó với ngơi đình. Khi
Thân minh đình đã trở thành một địa điểm quen thuộc của làng, dần dần để
tiện gọi, Thân minh đình chỉ cịn được gọi ngắn gọn là “đình”.
Về sau mỗi khi làng vào đám (Nhập tịch Tàng câu), người ta rước
Thành hoàng làng đến đây làm lễ tế, rồi nhiều làng để thuận tiện cho việc


17

cúng tế, để ngơi đình trở nên uy nghiêm hơn đã cho nhập hẳn miếu Thành
hồng vào đình, mở thêm phần hậu cung làm chỗ thờ thần. Như vậy qua
nhiều diễn biến của phong tục, tập qn, ngơi đình làng mới dần mang thêm
chức năng tôn giáo.
Vào thế kỷ XVII - XVIII, cùng với sự phát triển mạnh của kinh tế văn hóa, tại

hầu khắp các làng xã, người ta đua nhau xây dựng đình làng với kiến trúc to
lớn vững chãi. Kể từ giai đoạn này, ngơi đình làng mới thực sự hoàn thiện cả
về kiến trúc cũng như các chức năng xã hội của nó, trở thành một biểu tượng
văn hóa đặc sắc của làng xã Việt Nam.
1.2. Tổng quan về làng Trù Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ
1.2.1. Vị trí địa lý
Thị xã Phú Thọ ngày nay là một vùng đất cổ thuộc trung du miền núi
phía Bắc. Đây là một vùng gồm những dải đồi thấp, xen lẫn đầm hồ và đồng
ruộng, nằm ven sơng Thao, có đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy qua, là nơi
tiếp giáp giữa đồng bằng sông Hồng và vùng đồi núi, trung du, cách thành
phố Việt Trì khoảng 35 km, cách thủ đô Hà Nội 100 km, về phía Tây Bắc.
Phía bắc và đơng bắc giáp huyện Phù Ninh, phía tây và tây nam giáp
huyện Thanh Ba, phía nam giáp huyện Tam Nơng (bên kia sơng Hồng), phía
đơng nam giáp huyện Lâm Thao.
Thị xã Phú Thọ có diện tích đất tự nhiên là 64,6 km2 với địa hình bán
sơn địa, điển hình theo dạng “bát úp”, nằm trên vùng giáp ranh giới giữa
Đồng bằng sông Hồng và vùng đồi núi thấp. Địa hình cao dần về phía Bắc và
Tây Bắc, thấp dần về phía sơng Hồng. Khí hậu có nhiều đặc điểm gần với
vùng đồng bằng Bắc Bộ, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô từ tháng
11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ khơng khí trung bình 23 01. Lượng mưa
ngày lớn nhất 701,2 mm, trung bình năm 1.850mm. Số giờ nắng trung bình
năm 1.571 giờ.
Làng Trù Mật thuộc xã Văn Lung nằm cách trung tâm Thị xã Phú Thọ
khoảng 1 km với tổng diện tích đất tự nhiên là 633,49 ha. Trong đó đất nơng
nghiệp: 454,89 ha, đất phi nơng nghiệp:151,43 ha, đất chưa sử dụng: 27,17


18

ha. Phía Đơng giáp xã Hà Lộc; Phía Nam giáp xã Hà Thạch, phường Trường

Thịnh, Phía Tây giáp xã Thanh Vinh; Phía Bắc giáp xã Đơng Thành huyện
Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
1.2.2. Lịch sử hình thành làng
Khi chưa thành tỉnh lỵ, làng Phú Thọ là khu vực có nhiều đồi gị rậm
rạp, nhiều luỹ tre xanh xen kẽ từ phía trên xuống phía dưới với bạt ngàn cỏ
tranh, tế, cây trám, cây dọc, cây cọ và sim mua. Đường đi lối lại chật hẹp
quanh co với các xóm Mận, xóm Đơng, xóm Sở, thơn Liêm, Gị Mua, Gị Sỏi;
có năm con suối nhỏ chảy qua làng.
Ngoài khu trung tâm, làng cịn có một số khu vực liên quan gồm:
Thơn Cao Bang (động cao), có thời kỳ gọi là xóm Bâng (trước thuộc
làng Thanh Lâu, Tổng Hạ Mạo). Đây là một khu đất giáp sông Thao với
phong cảnh sơn thuỷ hữu tình. Sau khi Pháp lập thành tỉnh Phú Thọ, một số
gia đình ở Trù Mật, Tân Hưng gia nhập trở thành thôn.
Thôn Phú Liêm: Thời Hùng Vương, nơi đây và An Ninh Thượng được
gọi là động An. Khi Pháp lấy đất để xây tỉnh lỵ Phú Thọ, cả xóm Khuân
(động Cờ) di chuyển lên đây và lập thành xóm Liêm.
Thơn Phú Lợi: Thời tiền sử, nơi đây khơng có người vì xung quanh các
quả đồi quanh năm úng nước đi lại khó khăn. Có triền đất bằng phẳng cao
hơn mặt nước thì cây cối um tùm, cỏ mọc rậm rạp. Trước khi pháp lập thành
tỉnh Phú Thọ có đơi ba người làng Phú Thọ ra lập trang trại. Từ khi Pháp xây
tỉnh lỵ Phú Thọ, mở rộng đường sá trong khu trung tâm để thành lập các phố,
nông dân trong làng di chuyển ra đây và thành lập xóm Gị- sau này cư dân
nội thị chuyển đến ngày càng đông đúc hơn và thôn được gọi là thôn Phú lợi.
Làng Cao Du: Dân làng Cao Du hầu hết là những người làm nghề chài
lưới từ dưới xuôi lên, gặp đất ven sông làng Mè, nơi thuận tiện cho việc làm
ăn sinh sống của họ, họ đã thành lập xóm Vạn Chài. Về sau, họ mua đất làm
nhà lập nên làng Cao Du dọc theo bờ sông Thao, từ khu chùa Thắng Sơn (cũ)
đến hết khu vực dưới chợ Mè.



19

Do nhu cầu xây dựng ngày càng tăng, dân các nơi đến làm ăn đông hơn
nên làng Cao Du dần trở thành một tụ điểm buôn bán trên bến dưới thuyền tấp
nập: các thuyền bè từ miền ngược chở lâm thổ sản (tre, gỗ, lá cọ, nứa, măng,
mộc nhĩ, nấm hương…) về đỗ tại bến sông và các tàu thuyền của Pháp cũng
thường xuyên đỗ ở bến sông để trao đổi hàng hoá. Dân làng Cao Du chuyển
hẳn sang nghề buôn bán lâm thổ sản, vật liệu xây dựng và định cư lâu dài ở
khu vực này.
Xét về mặt địa chất, các dải đồi thấp và đồng ruộng xung quanh thị xã
Phú Thọ đều thuộc loại đất đá tân sinh đại, bao gồm hai kỷ Đệ tam và Đệ tứ,
có từ khoảng 50 triệu năm trở lại đây. Ngoài ra còn xen kẽ đất đá Trung sinh
đại, Cổ sinh đại (200-300 triệu năm).
Sơng Thao đoạn chảy qua thị xã, lịng rộng tới 200-300 mét, lại lọt vào
vùng địa hình thấp dưới 25 mét nên nước lũ thường tràn ngập vào các vùng
xung quanh. Công việc đắp và bồi trúc đê đã được quan tâm khá sớm, nhưng
những vùng thấp trũng không được bồi đắp tiếp nên lầy lụt quanh năm. Chế
độ dịng chảy của sơng phụ thuộc vào chế độ mưa. Mùa mưa bao giờ cũng đi
liền mùa lũ, kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10; lượng dòng chảy chiếm khoảng
70,3 - 71,6%. Mùa khô đồng thời cũng đi kèm mùa hạn, chiếm khoảng 28,4 28,7%. Mưa bão và mưa giông thường gây ra lũ lụt lớn trên sông vào tháng 7,
tháng 8 và có khi cả tháng 10. Dịng chảy cát bùn trên sơng Thao vào loại lớn
nhất Bắc Bộ, tuy độ đục giảm dần từ thượng lưu về hạ lưu. Mức nước sông
Thao theo cốt ở thị xã, trung bình hằng năm một lần lên cao + 17,5 m đến
18,2 m, cao nhất là 20,4 m. Mức nước trên bên trong đê, theo cốt cống Lò
Lợn là 17,1 m. Thị xã cịn có năm suối nhỏ chảy qua cùng nhiều ao hồ, đập
nhỏ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, nhưng khi tới mùa khô thường thiếu nước
cho cây trồng. Mực nước ngầm phân bố không đều, độ sâu gặp nước từ 6 đến
15 mét.[12;12]
Thị xã Phú Thọ với các tên gọi truyền thống là làng Phú An (động Phú
An), vốn là một làng Việt cổ có lịch sử hàng nghìn năm. Cái tên “làng Mè”

lưu truyền trong dân gian xuất phát từ tên của một dòng họ Mè (Ma).


20

Theo các cứ liệu khảo cổ học, con người có mặt ở vùng này khá sớm,
tại khu vực Cao Bang (động Cao), giới nghiên cứu khảo cổ đã thu lượm được
nhiều di vật của nền văn hoá Sơn Vi, cho biết muộn nhất là vào thời kì đồ đá
cũ- tức là từ hơn một vạn năm trước, thị xã Phú Thọ đã có người nguyên thuỷ
đến cư trú. Lúc này người Sơn Vi sống giữa một vùng gò đồi, tự tạo ra các
mái che mưa nắng và dùng các gò đồi này để chống chọi với nạn úng ngập…
do sông Thao vẫn gây ra hằng năm. Để có thể tồn tại và phát triển được, họ đã
dùng đá cuội có hình dáng thích hợp, ghè đẽo qua loa hoặc đập thành nhiều
miếng để tạo ra các loại công cụ chủ yếu như: cơng cụ dùng để chặt, thường
có rìa lưỡi được tạo ra từ những viên cuội hình bầu dục, được ghè đẽo theo
phía dọc rìa cạnh từ ngồi vào trong, tạo ra cạnh sắc được gia cơng, cịn các
phần khác vẫn giữ nguyên vỏ đá đá cuội, dùng để chặt cây nhỏ, chặt cành cây,
cắt xương thịt. Công cụ dùng để nạo: được tách ra từ các loại cuội lớn để lấy
các mảnh sắc bén. Công cụ để giã và nghiền: thường chọn cuội dài có hình
trụ, hình nấm, hình bầu dục để tán bột, chà sát vỏ cứng của các loại hạt, kết
hợp với hòn ghè. Người Sơn Vi đã biết giữ lửa thiên nhiên, ăn thức ăn được
nướng chín. Trải qua nhiều thiên niên kỷ, người Sơn Vi đã tách ra thành hai
nhóm cư dân chính là người Việt - Mường, những thành viên chủ yếu của địa
phương có mặt trong các thời đại Vua Hùng dựng nước Văn Lang đến các
triều đại phong kiến sau này. Theo tộc phả của một số họ lớn cư trú lâu đời và
niên đại cịn lưu trên bia đá, chng đồng của đền, chùa cùng các ngôi mộ tổ
của các dịng họ táng tại làng Phú Thọ thì một họ định cư ở thị xã lâu đời
nhất, từ cách đây trên 1.000 năm là họ Ma (Mè) sau đến họ Kiều, họ Đinh.
Một số họ đến sau cũng đã cách đây từ 300 năm đến 500 năm như họ Phạm,
Nguyễn, Trần, Lê. Sau đó các dịng họ trên đã phân chia thành nhiều chi

nhánh. Từng chi gắn bó, sinh hoạt riêng, thờ cúng ông tổ của chi nhánh phân
chia. Từ bao đời nay, các dịng họ vẫn đồn kết trong tình làng nghĩa xóm phi
nội tất ngoại bởi những cuộc hôn nhân đan xen qua nhiều thế hệ.
Theo hương ước của làng Phú Thọ, dân số của làng vào đầu thế kỷ XX
mới có khoảng 420 suất đinh. Sau khi Pháp dời tỉnh lỵ từ Hưng Hoá về làng


21

Phú Thọ, cùng với những biến đổi về hành chính, kinh tế, văn hố…, một q
trình xáo trộn, thay đổi về dân cư đã diễn ra ở thị xã Phú Thọ, tạo nên sự
phong phú về thành phần, nguồn gốc. Tuy vậy, dân số của làng Phú Thọ
không tăng lên nhiều lắm.
Làng Phú Thọ có một số ngơi đình, đền được nhân dân xây dựng để thờ
các vị thần của làng. Trải qua sự thăng trầm của hàng nghìn năm lịch sử đã
huỷ hoại đa số các di tích này.
Sau hai cuộc kháng chiến trong thế kỷ XX, đền trù Mật là ngơi đền cổ
kính duy nhất cịn lại trong khu vực thị xã Phú Thọ. Đền Trù Mật (đền Lăng)
chính thức có từ năm Canh Ngọ (970), niên hiệu Thái Bình năm thứ nhất thời
Đinh Tiên Hồng, Đền Trù Mật vừa là lăng tẩm, vừa là đền thờ sứ quân Kiều
Công Thuận. Kiều Công Thuận (không rõ năm sinh, mất năm 968) là quan
dưới Vương triều Ngô Quyền và được giao cai quản vùng đất Phú Thọ. Trong
thời gian làm việc tại địa phương, ông thường làm nhiều việc giúp dân trừ ác,
trừ gian tà, che trở, bảo vệ người dân làng Phú An và Trù Mật. Khi có loạn 12
sứ quân gây ra cảnh loạn ly, đau lòng trước cảnh binh đao ơng đã tuẫn tiết bảo
tồn danh dự. Cảm phục trước tài cao đức trọng của ông, nhân dân hai làng
Phú An và Trù Mật, thường xuyên hương khói tưởng nhớ một người có cơng
với dân làng, coi ơng như thành hồng làng. Năm Canh Ngọ (970), Đinh Tiên
Hồng đã ban sắc truy phong cho ơng là “Cương nghị đại vương thượng đẳng
thần”. Phía trước đền Trù Mật là đền thờ thân mẫu của ông là bà Dương Thị

Thuần Mỹ.
Trải qua bao thế hệ, bao triều đại, nhân dân hai làng Phú An, Trù Mật
vẫn đồng lòng nhất trí xây dựng, tu tạo, giữ gìn và hằng năm hương khói
phụng thờ. Trong thời gian nắm quyền cát cứ, Kiều Công Thuận thường tổ
chức mở đại tiệc vào những năm mưa thuận gió hồ, nhân khang vật thịnh.
Sau vụ mùa thắng lợi, nhân dân ở các động nô nức về dự hội mang theo vật
phẩm góp phần để lãnh chúa khao quân. Ngày nay các nghi lễ cổ truyền trong
những kỳ lễ hội vẫn được duy trì đều đặn và thành kính. Nhân dân vùng phụ


22

cận và các nơi xa gần, những ngày lễ cầu, mở hội đều về dự lễ dâng hương
tưởng nhớ ân đức người xưa.
Năm 1999, ngơi đền được Bộ Văn Hố- Thơng tin cơng nhận là di tích
lịch sử - kiến trúc nghệ thuật. (Đền Trù Mật có một bản thần tích và bốn đạo
sắc phong trước kia lưu giữ tại Viện Viễn Đông bác cổ, nay lưu giữ tại Bộ
Thông tin Khoa học Xã hội Việt Nam)
Ở Cao Bang xưa, nhân dân đã lập một ngôi đền thờ hai vị trong tứ trụ
đại thần đời Hùng Vương thứ 18 là hai anh em Cao Sơn (Nguyễn Hiền) và
Quý Minh (Nguyễn Sùng). Hằng năm, nhân dân chọn giao thừa sang xuân
mới để xin lửa cầu may tại cửa đền với ước nguyện ban phúc lộc cho nhân
dân.
Đình Nhạp (đình Lập) trước ở xóm Khn, sau chuyển lên xây dựng ở
thơn Liêm, đình Nhạp thờ vọng đức đại vương Kiều Cơng Thuận.
Theo những truyền tích và văn bản cịn lưu giữ được, dân cư của làng
Phú Thọ thời kỳ hoang sơ còn thưa thớt, cư trú ở các khu vực nhỏ gọi là động
gồm: động Tiên - trung tâm của làng (khu vực ga ngày nay), động Cờ (khu
trường Đại học Hùng Vương ngày nay) và động Cao (khu Cao Bang ngày
nay). Phía nam làng là sơng Thao, phía trên và phía dưới làng đều chưa có đê

ngăn nước, mỗi mùa nước lớn, làng như một hòn đảo nhỏ nổi giữa biển nước.
Tương truyền vào thời Vua Hùng Vương thứ 18, người con trưởng của
Bảo Quốc Công đại tướng Ma Khê đã đưa một bộ phận họ Ma từ núi Đọi
(Cẩm Khê) sang cư trú và lập thành động riêng, người họ Ma làm động
trưởng, về sau hợp nhất với động Tiên liên kết với động Cao, động Cờ gọi
chung là động Phú An. Động trưởng họ Ma xây thành đắp luỹ để đề phòng
thú dữ (còn gọi là Ma thành). Cứ như vậy hàng chục thế kỷ sau, con cháu họ
Ma vẫn làm động trưởng.
Từ giữa thế kỷ X, hậu duệ đời thứ 43 của Bảo Quốc Công đại tướng
Ma Khê là động trưởng Ma Xuân Trường nắm quyền cai quản vùng này. Đầu
năm 945, Kiều Công Thuận, nguyên là Trưởng quản ngân khố triều Ngô, làm


23

thủ lĩnh đất Hoa Khê (Chương Xá - Cẩm Khê ngày nay) đã mở rộng địa bàn,
liên kết với động trưởng Ma Xuân Trường xây dựng bảo vệ động Phú An.
Cuối thời Lê Chiêu Tông (1516 - 1522), anh em Vũ Văn Uyên và Vũ
Văn Mật (người Gia Phúc - Hải Dương) lên lánh nạn ở Đại Đồng - châu Thu
Vật (Tuyên Quang) rồi trở thành lãnh chúa trong vùng. Sau khi Lê Chiêu
Tơng mất, triều đình suy yếu, khơng còn quản lý các vùng biên viễn chặt chẽ
như trước nữa, Lê Cung Hoàng (1522-1527) phải ban tước vị cho Vũ Văn
Mật cho phép tuyển mộ binh lính để trấn giữ Tuyên Quang. Vũ Văn Mật đã
mở rộng phạm vi kiểm sốt của mình sang nhiều phủ, huyện của Sơn Tây và
Hưng Hố. Lúc Mạc Đăng Dung cướp ngơi nhà Lê (1527), Vũ Văn Mật tuyên
bố chống Mạc, xây đắp hàng loạt tồ thành trong đó có tồ thành ở Phú An Sơn Vi gọi là thành nhà Bầu. Công việc xây thành cịn đang dở dang thì Vũ
Văn Mật cho dừng, rút toàn bộ quân về đại bản doanh ở Tuyên Quang. Bởi
vậy, ở thị xã ngày nay con lưu truyền về 99 cái giếng, 99 cây ngô đồng và cái
giếng còn in dấu chân người khổng lồ.
Năm 1548, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đi qua vùng này, thấy phế

thành mọc đầy dâu gai nên đổi gọi là Tang Ma Thành. Sách Đại Nam nhất
thống chí (tập 4) ghi rằng “Thành cổ Tang Ma, tục gọi là thành Nhà Bầu, ở
địa phận xã Phú An, huyện Sơn Vi, nền cũ vẫn còn… tương truyền đầu đời Lê
Trung Hưng, Trấn thủ Tuyên Quang là Vũ Văn Mật đắp thành này”. Có thể
những viên đá xanh ngun khối có kích thước 20cm x 30cm x 50cm tìm
được khi xây dựng cửa hàng bách hố thị xã sau này chính là ngun liệu của
phế thành Tang Ma.
Suốt trong thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê cái tên Phú An được giữ
nguyên, khi thì gọi là Phú An bộ, Phú An xã, khi thì gọi là làng Phú An. Cái
tên Phú An cịn được ghi trong thần tích, sắc phong của các triều đại. Các bản
thần tích do bộ lễ duyệt, nhà vua sắc phong. Hiện làng Phú An cịn một bản
thần tích và bốn đạo sắc phong đang được giữ tại Viện Thông tin khoa học xã
hội Việt Nam.


24

Phú An là tên gọi chính thức của làng Phú Thọ thời xa xưa. Đến năm
1890, vua Thành Thái chuẩn y cho đổi tên làng Phú An thành làng Phú Thọ,
nằm trong tổng Phú Thọ. Ngày 8-9-1891 tồn quyền Đơng Dương
Đờlanétxăng (Delanessan) ra nghị định điều chỉnh địa giới một số tỉnh ở Bắc
Kỳ, thành lập tỉnh Hưng Hoá mới. Theo đó, phủ Lâm Thao tỉnh Sơn Tây về
tỉnh Hưng Hố. Làng Phú Thọ trở thành đơn vị hành chính cơ sở thuộc địa
bàn tỉnh Hưng Hoá. Việc điều chỉnh địa giới còn diễn ra nhiều lần sau này đã
làm cho làng Phú Thọ ở vào vị trí trung tâm của tỉnh Hưng Hoá.
Trong sách Tên làng xã Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX chưa có địa danh
Văn Lung. Theo lời kể của cụ Phạm Văn Ba 93 tuổi - Thủ nhang đền, đình
Trù Mật “Tương truyền Văn Lung được thành lập sau Cách mạng tháng Tám
1945 bằng việc sáp nhập các thôn An Ninh Thượng, An Ninh Hạ và Trù Mật.
Có một thuyết cho rằng, thời Pháp thuộc có một cố đạo tên là Thái Văn Lung,

từ miền Nam ra truyền đạo, thành lập ở đây một làng Cơng giáo tồn tịng
(hiện nay vẫn cịn), xây dựng nhà thờ, mở mang đường sá và sáp nhập các
thơn nói trên thành một xã, người ta đã lấy tên Văn Lung đặt tên cho xã để ghi
nhớ”,
1.3. Nét khái quát về nghệ thuật chạm khắc đình làng Việt Nam ở Bắc Bộ
1.3.1. Khái quát về nghệ thuật chạm khắc trang trí cổ
Khái niệm nghệ thuật chỉ những hoạt động khéo léo, đạt đến một trình
độ điêu luyện, có tay nghề cao. Ðây là nghĩa đen, nghĩa rộng nhất của từ nghệ
thuật. Theo từ nguyên, kĩ là kĩ năng, tài năng, thuật là hoạt động, là kỹ thuật.
Trong tiếng Anh và tiếng Pháp, từ Art cũng có nghĩa ban đầu là kỹ xảo, khéo
léo.
Chỉ những hoạt động và sản phẩm hài hịa, đẹp mắt, có thể mang lại
cho người ta khối cảm thẩm mĩ. Ðây là nghĩa được sử dụng khá phổ biến
hiện nay. Theo nghĩa này, người ta có thể coi một bộ bàn ghế trang trí đẹp,
trang nhã, một số đồ thủ công mĩ nghệ...là những tác phẩm nghệ thuật, là
những cơng trình nghệ thuật. Thể dục thể hình, trượt băng nghệ thuật, bơi
nghệ thuật, nhảy dù nghệ thuật... là những hoạt động nghệ thuật. Khái niệm


25

nghệ thuật ở đây gần với nghĩa đẹp mắt, tạo được sự chú ý ở người thưởng
thức.
Chỉ một hoạt động đặc thù của con người nhằm tạo ra một loại sản
phẩm đặc biệt, không những chỉ đẹp mắt, êm tai, gây được sự hứng thú về cái
đẹp mà cịn có ý nghĩa tư tưởng, tình cảm sâu sắc. Ở đây, mỗi loại hình nghệ
thuật khác nhau sẽ sử dụng những phương tiện và chất liệu khác nhau để hình
thành nên tác phẩm của mình nhằm biểu đạt một tư tưởng, tình cảm, một chân
lí nghệ thuật.. .Trong ý nghĩa này, khái niệm nghệ thuật được dùng để chỉ các
loại hình nghệ thuật sau đây: Văn chương, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến

trúc, sân khấu, múa, điện ảnh, ảnh nghệ thuật. Trong chương này, khái niệm
nghệ thuật được hiểu theo nghĩa này. Nghệ thuật là nơi cao nhất tập trung mối
quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Nói đến nghệ thuật là nói
đến cái đẹp.
Nghệ thuật chạm khắc đình làng ở Phú Thọ bao gồm: Chạm khắc trên
gỗ: ở các thành phần chịu lực và không chịu lực ( tượng người trên cột, chạm
khắc trên: ván, cốn, kẻ, bẩy, xà...)Điêu khắc trên đá: ở cột trụ trên cổng, trên
mái (phượng , lân, kìm,...). Đắp nổi vơi vữa: ở tường (voi, ngựa), phù điêu ở
cổng (phượng, lân, con người, mây hóa, phượng hóa...) Tượng trịn: tượng thờ
(tượng Hai Bà Trưng – tượng cũ), tượng trên kiến trúc gỗ (trong các mảng
chạm và cả trên cột, xà...) Tranh vẽ màu trên gỗ: ở tường, ở ván gỗ trên kiến
trúc trong đình. Với Đề tài sinh hoạt của con người: vua hùng đi săn, đấu
vật… Đề tài Lễ hội dân gian truyền thống: chèo thuyền, bơi chải, rước kiệu,
đấu vật… Các tích truyện: ngũ lão đăng sơn, cờ lau tập trận, mả táng hàm
rồng, Hai Bà Trưng đánh giặc, thầy trò đường tăng đi tây trúc thỉnh kinh… Đề
tài tứ quý, tứ linh: Tùng – Trúc – Cúc – Mai; Long – Ly – Quy – Phượng, cá
hóa rồng, phượng hàm thư, rồng ngậm ngọc…Đề tài ca ngợi tình mẫu tử:
rồng ổ, rồng ấp, rồng leo… Ngoài ra đề tài còn miêu tả hoạt động của các con
vật khác như: chuột, thạch sùng, trâu, ngựa, voi, khỉ, rắn, rùa… Tồn bộ các
chạm khắc được tạo tác thơng qua hình ảnh trai gái, người đàn ông uống
rượu, người đàn ông thổi sáo, hình cơ tiên, Quan Cơng, hình ảnh Hai Bà


×