Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Bảo hiểm xã hội ở quận thủ đức, thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.46 KB, 121 trang )

MỤC LỤC

Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO
HIỂM XÃ HỘI

1.1. Bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã

6
6

hội chủ nghĩa
1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa

25

1.3. Kinh nghiệm của một số quận ở thành phố Hồ Chí Minh về
hoạt động bảo hiểm xã hội

30

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở
QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

39


2.1. Vài nét về q trình hình thành và phát triển bảo hiểm xã hội ở
quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh

39

2.2. Thực trạng hoạt động bảo hiểm xã hội ở quận Thủ Đức giai
đoạn từ năm 2003 đến nay

46

2.3. Đánh giá chung hoạt động bảo hiểm xã hội ở quận Thủ Đức,
thành phố Hồ Chí Minh

78

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC
HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở QUẬN
THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

94

3.1. Những phương hướng chủ yếu về hoạt động bảo hiểm xã hội ở
quận Thủ Đức

94

3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hoạt động bảo
hiểm xã hội ở quận Thủ Đức

98


KẾT LUẬN

113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

115


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH

:

Bảo hiểm xã hội

BHYT

:

Bảo hiểm y tế

BHTN

:

Bảo hiểm thất nghiệp


BLLĐ

:

Bộ luật lao động

BTC

:

Bộ Tài chính

BYT

:

Bộ Y tế

CBCC

:

Cán bộ cơng chức

CBH

:

Chi bảo hiểm


CP

:

Chính phủ

LĐLĐ

:

Liên đồn lao động



:

Nghị định

SL

:

Sắc lệnh

TBH

:

Thu bảo hiểm


TBXH

:

Thương binh xã hội

TTg

:

Thủ tướng

TTLT

:

Thông tư Liên tịch

UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
48
49
49

Bảng 2.1:
Bảng 2.2:
Bảng 2.3:
Bảng 2.4:

Mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Danh mục lương tối thiểu chung năm 2003-2005
Số đơn vị quản lý của BHXH quận Thủ Đức năm 2003- 2005
Thu BHXH, BHYT bắt buộc tại BHXH quận Thủ Đức

Bảng 2.5:
Bảng 2.6:

giai đoạn 2003-2005
Danh mục lương tối thiểu chung năm 2006-2010
Số đơn vị quản lý của BHXH Quận Thủ Đức từ năm

50
52
53

Bảng 2.7:


2006 - tháng 6 năm 2010
Tốc độ gia tăng số thu BHXH, BHYT bắt buộc,

53

Bảng 2.8:

bảo hiểm thất nghiệp năm 2006 - tháng 6 năm 2010
Thu BHXH tại BHXH quận Thủ Đức giai đoạn 2006-

Bảng 2.9:
Bảng 2.10:
Bảng 2.11:

tháng 6 năm 2010
Lãi suất hoạt động từ quỹ đầu tư BHXH
Mức đóng BHYT tự nguyện năm 2005
Mức đóng BHYT tự nguyện theo từng nhóm đối

54
55
58

Bảng 2.12:
Bảng 2.13:

tượng đến đầu năm 2006-2007
Thu BHYT tự nguyện tại BHXH Quận Thủ Đức
Số lượng đối tượng được giải quyết chính sách BHXH


59
60
70

Bảng 2.14:

tại Quận Thủ Đức từ năm 2003-2009
Tỷ lệ tăng trưởng của đơn vị lao động tham gia BHXH

72

Bảng 2.15:

từ năm 2003-2009
Số liệu đối tượng tăng, giảm từ năm 2003 đến tháng 6
năm 2010

75

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1:

Sơ đồ tổ chức - BHXH quận Thủ Đức

Trang
42


Hình 2.2:

Hình 2.3:

Thu BHXH, BHYT bắt buộc giai đoạn 2003-2005
Số đơn vị quản lý của BHXH quận Thủ Đức từ năm

50

Hình 2.4:

2003-2009
Thu BHXH, BHYT bắt buộc, BHTN giai đoạn 2006-2009

53
80


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn đã cho chúng ta thấy rằng, trong cuộc sống sinh hoạt và sản
xuất hằng ngày của mỗi con người, dù muốn hay không, lúc này hay lúc khác
và dù cho khoa học kỹ thuật có tiến bộ đến đâu đi nữa, người ta cũng phải
gánh chịu về sự rủi ro, tổn thất hao mòn về mặt sức khoẻ, về bệnh tật hay đến
lúc tuổi già… Họ đã bỏ công sức của mình để chiến đấu và lao động phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì thế nhân tố con người và sự
bảo đảm về quyền lợi con người là vấn đề cần phải được quan tâm. Nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính
sách xã hội nhằm giảm bớt một phần đời sống khó khăn và duy trì, tái tạo lại
sức lao động, thực hiện cơng bằng xã hội trong phân phối cho người lao động,
do vậy, chính sách bảo hiểm xã hội được ra đời và phát huy tác dụng của nó.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người lao động
hoạt động trong lĩnh vực nào, ở thành phần kinh tế nào cũng có nghĩa vụ lao
động và quyền lợi được bảo hiểm xã hội ngang nhau. Do điều kiện xã hội
ngày càng phát triển nên chính sách về bảo hiểm xã hội đòi hỏi cũng phát
triển theo và mở rộng hơn. Nó chiếm một vị trí quan trọng và là thành phần
chính của hệ thống bảo đảm an sinh xã hội, khơng những ở nước ta mà cịn ở
các nước khác trên thế giới.
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm bù
đắp một phần vật chất cho người tham gia trong những trường hợp ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, tuổi già... Đây là các trường hợp mà trong cuộc đời
con người ai cũng phải trải qua. Nó mang tính nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống
an lành của con người, vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh. Nó khơng chỉ ảnh hưởng đến nhiều người, ổn
định lâu dài trong nhiều năm mà còn được trợ cấp khi người tham gia gặp lúc


2
khó khăn, cần được trợ giúp của xã hội vì “Một miếng khi đói khơng bằng
một gói khi no".
Bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội của
một nước. Chính sách xã hội ln gắn với một chế độ chính trị - xã hội nhất
định. Ở nước ta, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, vì thế Đảng và Nhà nước
ta đã có sự cân nhắc, làm thế nào để có chính sách xã hội cho phù hợp nên
ngay từ đầu thành lập Nhà nước ta đã quan tâm và được thể chế hoá bằng các
Sắc lệnh của Chính phủ,…
Cùng với q trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, các thành phần kinh tế trong nước cũng đã hoạt động mạnh, phát triển
cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng. Hoạt động BHXH ngày càng
được quan tâm và thực hiện mở rộng ra nhiều đối tượng.
Để phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1995 Nhà nước ta

bắt đầu đổi mới các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định tại Bộ
Luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994, bắt đầu có hiệu lực
từ ngày 1/1/1995. Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995
về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam, do đó hệ thống Bảo hiểm xã hội
được thành lập và thực hiện thống nhất trên cả nước. Quỹ BHXH được hình
thành từ nguồn đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và độc
lập với ngân sách nhà nước. Khác với các loại hình bảo hiểm khác, quỹ
BHXH được Nhà nước bảo trợ để bảo đảm ổn định và tăng trưởng quỹ,
hướng phát triển sẽ trở thành nguồn tài chính chủ yếu bảo đảm cho các nhu
cầu hoạt động và chi trả cho các đối tượng của BHXH trong tương lai.
BHXH quận Thủ Đức được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày
16/8/1995, từ khi thành lập đến nay công tác BHXH luôn được BHXH
thành phố, Quận ủy và Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức quan tâm và có sự
chỉ đạo sâu sát nên hoạt động BHXH được thuận lợi, hiện BHXH quận Thủ
Đức quản lý khoản 1.270 đơn vị, tổng số thu BHXH bình quân hằng năm là


3
90 tỉ đồng, về chi BHXH quận quản lý 5.479 đối tượng chi trả lương hưu
và trợ cấp BHXH thường xuyên hàng tháng, với số tiền chi thường xuyên
hàng tháng là 11,6 tỉ đồng, ngồi ra cịn các khoản chi trợ cấp ngắn hạn
như: ốm đau, thai sản, trợ cấp BHXH một lần…, với số tiền khoản hơn 6 tỉ
đồng, công tác chi trả luôn đảm bảo đầy đủ, kịp thời cho các đối tượng
hưởng. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới, BHXH quận Thủ Đức chưa khai
thác hết tiềm năng, thế mạnh của mình trên địa bàn, mặt khác trong q
trình thực hiện vẫn cịn phát sinh nhiều bất cập nên vẫn còn gây bức xúc
trong đời sống xã hội.
Để hiểu rõ hơn về hoạt động BHXH trên địa bàn quận Thủ Đức, thành
phố Hồ Chí Minh và có sự đánh giá khách quan, khoa học về BHXH quận, từ
đó tìm ra giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách BHXH. Do vậy "Bảo hiểm

xã hội ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay" được tôi chọn
làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có một số cơng trình khoa học, bài
viết, luận văn nghiên cứu quan tâm như:
- Đăng Ngọc Liên (2004), Quản lý thu BHXH đến với khu vực kinh tế
tư nhân tại Hà Nội. Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Luận
văn nghiên cứu BHXH dưới góc độ quản lý nguồn thu trên địa bàn Hà nội,
thời gian 1997 đến năm 2004 và các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý
thu bảo hiểm.
- Đỗ Văn Sinh (2005), Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, Luận
văn tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đề
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý quỹ BHXH.
- Bảo hiểm xã hội Việt nam, Lộ trình mở rộng đối tượng tham gia
BHXH theo nghị định 01/2003/NĐ-CP. Các tác giả đã đề xuất lộ trình mở
rộng đối tượng tham gia BHXH.


4
- Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến (1996), Góp phần đổi mới và hồn
thiện chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay, sách tham khảo
Nxb Chính trị quốc gia. Tác giả đề xuất những giải pháp góp phần đổi mới và
hồn thiện chính sách bảo hiểm ở nước ta hiện nay.
- Phạm Duy Đình (2006), Nghiên cứu “Dịch vụ BHXH Hà Nội”, Luận
văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Tạ Thị Ánh Nguyệt (2008), Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay,
Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Các cơng trình trên tiếp cận ở những góc độ khác nhau cả lý luận và
thực tiễn, song chưa có cơng trình nào trùng tên với đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu thực trạng BHXH ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ
Chí Minh. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hoạt
động BHXH ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Đề tài tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH và vai trò của
nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động BHXH ở quận Thủ Đức, Thành
phố Hồ Chi Minh và làm rõ những kết quả đạt được, tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt BHXH ở quận
Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu BHXH ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tiếp cận ở góc độ kinh tế chính trị
nhằm giải quyết quan hệ lợi ích, bản chất của BHXH ở quận Thủ Đức, thành
phố Hồ Chí Minh.


5
- Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng ta đã đề
ra trong các kỳ Đại hội về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, xã hội…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp: so sánh, phân tích, thống kê tổng hợp,
tổng kết đánh giá thực trạng để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.

6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ lợi ích vai trị của BHXH trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động BHXH ở quận Thủ
Đức, thành phố Hồ Chí Minh, rút ra những ưu, khuyết điểm và tìm ra những
tồn tại và nguyên nhân. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực
hiện tốt hoạt động BHXH trong thời gian tới.
- Là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan chức năng có liên quan
đến việc xây dựng, thực thi chính sách BHXH.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn
được cấu trúc thành 3 chương, 8 tiết.


6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. BẢO HIỂM XÃ HỘI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1.1. Bản chất, đặc điểm và phân loại bảo hiểm xã hội
* Bản chất BHXH:
Để hiểu được bản chất của BHXH thì trước tiên, chúng ta tìm hiểu về
khái niệm bảo hiểm xã hội.
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính tốn khoa học
và được dự báo trước; con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất
ngờ có thể xảy ra do rất nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất,
hạn hán, hỏa hoạn...), tai nạn giao thông (máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe

máy...), tai nạn trong lao động sản xuất, ốm đau, dịch bệnh... Những bất trắc,
rủi ro đó đã gây ra và đem đến cho con người những tổn thất, hậu quả to lớn
cả về mặt kinh tế, lẫn môi trường sinh thái và môi trường xã hội. Chính vì vậy
mà con người đã phải đưa ra nhiều biện pháp để phòng ngừa, hạn chế và khắc
phục những biến cố rủi ro đó. Những biện pháp phòng ngừa, né tránh và hạn
chế rủi ro thường được con người chủ động đưa ra các quy định cụ thể (bộ
luật, luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư...) trong từng lĩnh vực
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống sinh hoạt xã hội để
buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức và mọi thành viên trong xã hội phải tuân thủ
thực hiện. Chẳng hạn như để phòng, chống lụt bão, Nhà nước ban hành Luật
về đê điều; để đề phòng tai nạn giao thông, Nhà nước ban hành Luật Giao
thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không...
Mặt khác, theo quy luật sinh học thì hầu như mọi người thường phải
trải qua các giai đoạn là: con người ta được sinh ra, được nuôi dưỡng đến lúc


7
trưởng thành; lao động cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội, cho gia đình; tiếp
đến là giai đoạn hết tuổi lao động được xã hội, gia đình và lớp người tiếp theo
chăm sóc cho đến khi chết. Như vậy là trong tồn bộ cuộc đời, con người
khơng phải lúc nào cũng có đủ sức khỏe và cơ hội lao động để có thu nhập.
Trong khi đó con người ln ln cần phải có những nhu cầu sinh hoạt về mặt
vật chất và tinh thần. Vì vậy, mỗi người lao động và xã hội cần thiết phải có
một nguồn lực tài chính dự trữ để kịp thời cung cấp đáp ứng nhu cầu vật chất
và tinh thần không những cho bản thân mình, mà cịn cho cả người mình phải
trực tiếp nuôi dưỡng và cho những người gặp phải những biến cố rủi ro (kể cả
ngẫu nhiên và tất yếu) trong đời sống xã hội.
Thơng thường người ta có hai nhóm các biện pháp khắc phục rủi ro là
các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Chấp nhận rủi ro là người gặp
phải rủi ro phải chấp nhận khoản tổn thất đó, tự bản thân họ phải tự bảo hiểm

cho mình. Họ có thể chủ động lập quỹ dự trữ, dự phòng trước để bù đắp, khắc
phục những tổn thất do biến cố rủi ro gây nên; hoặc cũng có thể đi vay ngân
hàng, các tổ chức tài chính để bù đắp tổn thất trong trường hợp khơng lập quỹ
dự trữ, dự phịng trước.
Bảo hiểm là chế độ bồi thường kinh tế, là sự chuyển giao, san sẻ rủi ro
giữa những người cùng tham gia bảo hiểm trên cơ sở những nguyên tắc,
chuẩn mực đã được thống nhất và quy định trước. Nhằm đảm bảo an toàn, ổn
định sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội của những người tham gia bảo hiểm
và cộng đồng xã hội. Bảo hiểm là công cụ quan trọng và có hiệu quả nhất để
khắc phục hậu quả tổn thất khi xảy ra rủi ro.
Mục đích của bảo hiểm là góp phần làm ổn định, an tồn kinh tế cho
mọi người, mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm, đảm bảo an toàn
xã hội; đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng để tham gia đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện và phát triển theo cùng với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại. Theo Tổ chức lao động Quốc tế


8
(ILO) thì nước Phổ (nay là Cộng hịa Liên bang Đức) là nước đầu tiên trên thế
giới ban hành chế độ bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, đánh dấu sự ra đời của
BHXH. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách
BHXH và coi nó là một trong những chính sách xã hội quan trọng nhất trong
hệ thống chính sách bảo đảm xã hội. Mặc dù đã có q trình phát triển tương
đối dài, nhưng cho đến nay cịn có nhiều khái niệm về BHXH, chưa có khái
niệm thống nhất. Trong đề tài này, có thể hiểu BHXH là sự đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động, khi họ gặp phải những
biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm,
chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành
bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài

chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân người lao động và
những người ruột thịt (bố, mẹ, vợ/ chồng, con) của người lao động trực tiếp
phải ni dưỡng, góp phần đảm bảo an tồn xã hội.
Từ những điều phân tích trên giúp chúng ta hiểu rõ về bản chất của bảo
hiểm xã hội
Bất kỳ một nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng sự
nghèo khổ của người dân do ốm đau, tai nạn rủi ro, thất nghiệp, tật nguyền
bẩm sinh... gây ra không chỉ là trách nhiệm của bản thân cá nhân, của gia
đình, của những người thân của họ mà cịn phải là trách nhiệm của nhà nước
và của cộng đồng xã hội.
Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của lồi người, BHXH được coi
là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm bảo đảm
an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong
xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội, nhà nước
phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động,
đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ.
Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc


9
và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về
tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương khi
người lao động đến tuổi hưu... Đồng thời bản thân người lao động cũng phải có
trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi trả cho bản thân mình khi có
những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi như là một người chủ sử dụng
lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp của
người sử dụng lao động và người lao động không đủ để trang trải cho những
khoản chi cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có
trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo đảm đời sống cơ bản cho
người lao động.

Như vậy, BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách
quan. Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên
phổ biến thì càng địi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế
hàng hóa phát triển là nền tảng, là cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành
trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng
BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan
chuyên trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ
sử dụng và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ
BHXH. Người lao động (bên được BHXH) và gia đình của họ được cung cấp
tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định.
Đó chính là mối quan hệ của các bên tham gia BHXH.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải
ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối
trong BHXH vừa mang tính bồi hồn vừa khơng mang tính bồi hồn. Những
biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao
động nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính
bồi hồn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp
đó. Cịn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất


10
việc làm, những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính khơng bồi
hồn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc " cộng đồng - lấy số đơng bù cho số
ít" tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đơng người tham gia BHXH để bù
đắp, chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của
từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.
Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ cơng, mang tính xã

hội cao; lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá
trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức
quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế
độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với
người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ, chính sách
và chi BHXH cho người được hưởng; quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư
bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
BHXH và các loại hình bảo hiểm khác có những điểm giống nhau,
nhưng giữa chúng có những nguyên lý hoạt động mang tính phổ biến và nhất
quán, mà bất kỳ loại hình bảo hiểm nào khi hoạt động cũng phải tuân thủ, đó là:
Thứ nhất, bảo hiểm là một hình thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro,
hỗ trợ lẫn nhau giữa những đơn vị, cá nhân cùng tham gia bảo hiểm thực hiện
theo nguyên tắc "cộng đồng - lấy số đơng bù cho số ít". Vì vậy, dịch vụ bảo
hiểm cần phải có đơng người tham gia mới đạt được mục đích phân tán rủi ro,
tổn thất. Số người tham gia bảo hiểm càng đông thì mức độ tổn thất được
phân tán càng rộng, mức độ gánh chịu tổn thất của từng thành viên càng ít
hơn. Hình thành được quỹ bảo hiểm tập trung càng lớn, mức độ an toàn quỹ
bảo hiểm càng cao, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu chi trả
càng kịp thời, đầy đủ hơn cho người được thụ hưởng.


11
Thứ hai, quỹ bảo hiểm được hình thành từ sự đóng góp của những đối
tượng tham gia bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm phải được tính tốn một cách khoa
học dựa trên quy luật số lớn để xác định mức đóng góp của đối tượng tham
gia và mức hưởng thụ do quỹ phải chi trả; sao cho quỹ bảo hiểm phải được ổn
định, vững chắc trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn phải đảm bảo đủ nguồn lực
tài chính để chi trả kịp thời, đầy đủ các khoản bồi thường, trợ cấp cho đối
tượng được thụ hưởng.
Thứ ba, quỹ bảo hiểm được quản lý và sử dụng theo chế độ tài chính và

luật pháp của nhà nước quy định. Quỹ bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi được thực
hiện các hoạt động đầu tư vừa góp phần cung cấp nguồn vốn để phát triển nền
kinh tế - xã hội; vừa để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Khi thực hiện hoạt động
đầu tư quỹ phải đảm bảo an toàn; hạn chế rủi ro, thất thoát quỹ đến mức thấp
nhất, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội và đảm bảo khả năng thanh toán linh hoạt.
* Đặc điểm của BHXH:
BHXH là chế độ, chính sách, biện pháp mà Nhà nước và xã hội thực
hiện nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động và gia đình, khi họ gặp phải
những biến cố rủi ro, giảm hoặc mất thu nhập do bị suy giảm, mất khả năng
lao động, mất việc làm hoặc chết. Cơ sở hoạt động của BHXH là xây dựng
một quỹ tiền tệ tập trung từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng
lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc cộng đồng, lấy số đơng bù cho số ít,
dùng số tiền đóng góp nhỏ của nhiều người tham gia BHXH để bù đắp, cho
một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của từng người, khi họ
gặp phải những rủi ro. Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ cơng,
mang tính cộng đồng, tính xã hội rất cao, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu
hoạt động.
BHXH trên thế giới đã có bề dày lịch sử phát triển hàng trăm năm. Bảo
hiểm xã hội giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc
gia. Đặc điểm của BHXH thể hiện ở những khía cạnh sau đây:


12
Thứ nhất, BHXH là một định chế pháp lý bắt buộc nhằm chia sẻ rủi ro
cộng đồng. Mục tiêu cơ bản của BHXH là thực thi chính sách xã hội, khơng
nhằm mục đích kinh doanh.
Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của tồn
xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải là mục
tiêu của hoạt động BHXH.

Thứ hai, BHXH là cơ chế đảm bảo cho người lao động chống đỡ những
rủi ro của chính bản thân.
Thứ ba, BHXH là một bộ phận của hệ thống an sinh xã hội được thực
hiện theo nguyên tắc có đóng góp.
Thứ tư, BHXH thực hiện nguyên tắc chia sẽ giữa những người tham gia
bảo hiểm, lấy đóng góp phí bảo hiểm của số đơng bù đắp lại tổn thất của số ít.
Qua đó đã được thể hiện cụ thể những đặc trưng chủ yếu như:
- Khi người lao động còn làm việc, người lao động sẽ được đảm bảo
về quyền lợi bảo hiểm xã hội khi bị ốm đau,...
- Người lao động nữ được trợ cấp thai sản khi sinh con.
- Người lao động bị tai nạn sẽ được trợ cấp tai nạn lao động, tuỳ vào tỷ lệ
suy giảm khả năng lao động để xét hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.
- Khi người lao động khơng cịn làm việc nữa, nếu đủ điều kiện hưởng
hưu thì sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí.
- Khi người lao động chết được hưởng mai táng phí và gia đình được
hưởng trợ cấp tiền tuất.
* Phân loại bảo hiểm xã hội:
BHXH gồm hai loại hình: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện:
- BHXH bắt buộc: Theo quy định tại Điều 3 Luật BHXH, BHXH bắt
buộc là loại hình BHXH mà người lao động và người sử dụng lao động bắt
buộc phải tham gia.
- BHXH tự nguyện: Theo quy định tại Điều 3 Luật BHXH, BHXH tự
nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa


13
chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để
hưởng BHXH.
Ở nước ta, theo điều 4 Luật BHXH năm 2006 có quy định:
+ Bảo hiểm xã hội bắt buộc gồm các chế độ sau:

Đối với chế độ ốm đau:
Người lao động bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc và có xác nhận
của cơ sở y tế thì được hưởng trợ cấp ốm đau.
Đối với những người lao động làm việc trong điều kiện bình thường thì
được hưởng ba mươi ngày nếu đã đóng BHXH dưới mười lăm năm; bốn
mươi ngày nếu đã đóng đủ mười lăm năm đến dưới ba mươi năm; sáu mươi
ngày nếu đã đóng đủ ba mươi năm trở lên.
Người lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế
ban hành hoặc làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực 0,7 trở lên thì
được hưởng bốn mươi ngày nếu đã đóng BHXH dưới mười lăm năm; năm
mươi ngày nếu đã đóng từ đủ mười lăm đến dưới ba mươi năm; bảy mươi
ngày nếu đã đóng đủ ba mươi năm trở lên.
Người lao động mắc bệnh cần chữa trị dài ngày (theo Danh mục bệnh
cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành) thì được hưởng trợ cấp tối đa là
180 ngày trong một năm. Nếu sau 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được
hưởng tiếp chế độ trợ cấp ốm đau với mức thấp hơn, cụ thể là 65% lương
đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đóng BHXH từ 30 năm
trở lên, 55% nếu đóng từ 15 năm đến dưới 30 năm, 45% nếu đóng dưới 15
năm [35, tr.8-9].
Bên cạnh đó, người lao động có thể hưởng trợ cấp chăm sóc con nhỏ
hơn 7 tuổi bị ốm theo yêu cầu của tổ chức y tế; được nghỉ 20 ngày trong một
năm đối với trường hợp con nhỏ hơn 03 tuổi; 15 ngày trong một năm đối với
con từ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi.


14
Chế độ ốm đau cịn có chế độ cho những người dưỡng sức, phục hồi
sức khỏe. Những người lao động thuộc trường hợp này được hưởng chế độ từ
5 đến 10 ngày trong một năm, mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối

thiểu chung nếu nghỉ tại nhà, 40% nếu dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tại cơ sở
tập trung [35, tr.9].
Đối với chế độ thai sản:
Người lao động trong thời gian mang thai được nghỉ việc để đi khám
thai năm lần, mỗi lần một ngày; trường hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang
thai có bệnh lý hoặc thai khơng bình thường thì được nghỉ hai ngày cho mỗi
lần khám thai.
Trong trường hợp bị sẩy thai, nạo hút thai hoặc thai chết lưu thì lao
động nữ sẽ nghỉ chế độ thai sản 10 ngày nếu thai dưới một tháng; 20 ngày nếu
thai từ một tháng đến dưới ba tháng; 40 ngày nếu thai từ ba tháng đến dưới
sáu tháng; năm mươi ngày nếu thai từ sáu tháng trở lên.
Thời gian nghỉ thai sản được quy định là 04 tháng đối với những
trường hợp làm việc trong điều kiện bình thường; nếu làm việc nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm, làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số
từ 0,7 trở lên hoặc là nữ qn nhân, nữ cơng an nhân dân thì thời gian nghỉ
là năm tháng. Đối với lao động nữ là người tàn tật thì thời gian nghỉ là sáu
tháng; trường hợp là sinh đôi trở đi, cứ mỗi con người mẹ được nghỉ thêm
30 ngày.
Nếu trong trường hợp sau khi sinh con, nếu con chết (dưới 60 ngày
tuổi) thì người mẹ được nghỉ việc 90 ngày tính từ ngày sinh con và hưởng trợ
cấp 30 ngày tính từ ngày con chết nếu con từ 60 ngày tuổi trở lên nhưng
không vượt quá bốn hoặc năm tháng.
Người lao động trong chế độ thai sản sẽ được hưởng trợ cấp bằng
100% mức bình qn tiền lương, tiền cơng tháng đóng BHXH của sáu tháng
liền kề trước khi nghỉ việc.


15
Lao động nữ sau thời gian hưởng chế độ thai sản mà sức khỏe cịn yếu
thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ 5 ngày đến 10 ngày trong một

năm. Mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ
dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu
chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tại cơ sở tập trung [35, tr.11].
Trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản vẫn được tính là thời
gian đóng BHXH. Trong thời gian này, người lao động và người sử dụng lao
động khơng phải đóng BHXH.
Đối với chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động nếu bị tai nạn tại
nơi làm việc và trong giờ làm việc; ngoài nơi làm việc hoặc ngồi giờ làm
việc khi thực hiện cơng việc. Người lao động được hưởng chế độ bệnh nghề
nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành khi làm
việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại hay suy giảm khả năng lao
động từ 5% trở lên. Sau khi điều trị, người lao động sẽ được giám định khả năng
lao động tại Hội đồng giám định y khoa theo quy định của Bộ y tế. Tùy theo
mức độ suy giảm sức lao động mà người lao động được hưởng theo quy định.
Nếu người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì
được hưởng trợ cấp một lần. Nếu suy giảm 5% thì người lao động được
hưởng 5 tháng lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được
hưởng thêm 0,5% tháng lương tối thiểu chung.
Nếu người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thù
được hưởng trợ cấp hàng tháng: suy giảm 31% khả năng lao động thì được
hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì
được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung.
Ngoài ra, người lao động cịn được hưởng thêm 0,5% nếu đóng BHXH
từ một năm trở xuống, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm
0,3% mức tiền lương, tiền cơng đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ
việc để điều trị [35, tr.12].


16

Đối với chế độ hưu trí:
Người lao động (nam là 60 tuổi, nữ là 55 tuổi) có thời gian đóng
BHXH từ 20 năm trở lên thì được hưởng lương hưu là 45% mức tiền lương,
tiền cơng tháng đóng BHXH (hoặc 15 năm nếu tính theo ngày Luật BHXH có
hiệu lực). Sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với
nam và 3% đối với nữ, mức tối đa là 75%. Những người lao động trong điều
kiện đặc biệt thì chỉ đóng BHXH trong 15 năm (từ ngày Luật BHXH chưa có
hiệu lực) [35, tr.14].
Tuy nhiên, đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ
61% trở lên thì hưởng lương hưu như trên, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước
tuổi quy định thì giảm 1%. Mức lương hưu hàng tháng thấp nhất bằng mức
lương tối thiểu chung.
Người lao động đã đóng BHXH trên 30 năm đối với nam và 25 năm
đối với nữ khi nghỉ hưu còn được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần
được tính theo số năm đóng BHXH (từ năm thứ 31 đối với nam và từ năm thứ
26 trở đi đối với nữ). Cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng
mức bình qn tiền lương, tiền cơng đóng BHXH.
Đối với chế độ tử tuất:
Người lao động là đang bảo lưu thời gian đóng BHXH; người đang
hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng
tháng đã nghỉ việc thì khi chết sẽ được trợ cấp mai táng bằng 10 tháng lương
tối thiểu chung.
Đối với những trường hợp người lao động đã đóng BHXH đủ 15 năm
trở lên nhưng chưa hưởng BHXH một lần; đang hưởng lương hưu hoặc chết
do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hay đang hưởng trợ cấp tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng với mức suy giảm khả năng lao động từ
61% trở lên thì thân nhân của họ được hưởng trợ cấp hàng tháng nếu khơng
có thu nhập hoặc có thu nhập hàng tháng thấp hơn múc lương tối thiểu chung



17
(tính từ tháng liền kề sau đó). Đối với mỗi thân nhân mức trợ cấp bằng 50%
mức lương tối thiểu chung, 70% mức lương tối thiểu chung nếu như không có
người trực tiếp ni dưỡng.
Người lao động đang đóng BHXH hay đang bảo lưu thời gian đóng
BHXH, người đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân được hưởng trợ
cấp tuất một lần. Mức trợ cấp dựa trên số năm đóng BHXH, mỗi năm bằng
1,5 tháng mức bình qn thu nhập tháng đóng BHXH. Mức trợ cấp tuất một
lần đối với người đang hưởng lương hưu chết thì được tính theo thời gian
hưởng lương hưu. Nếu chết trong hai tháng đầu thì tính bằng 48 tháng lương
hưu đang hưởng. Nếu chết vào những tháng sau đó thì cứ hưởng thêm một
tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu.
Đối với chế độ trợ cấp nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe:
Là chế độ mà người lao động tham gia BHXH bắt buộc được hưởng
trong các trường hợp: có đủ 3 năm đóng BHXH trở lên tại các doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức mà bị suy giảm sức khỏe sau khi điều trị do ốm đau, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp vẫn chưa phục hồi sức khỏe, lao động nữ bị giảm
sức khỏe sau thai sản.
Thực tế, ngồi 6 chế độ BHXH trên thì người lao động còn được hưởng
chế độ bảo hiểm y tế (khám và chữa bệnh).
+ Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ sau:
Chế độ hưu trí:
Người lao động đóng BHXH từ 20 năm trở lên thì được hưởng lương
hưu nếu nam đủ 60 tuổi và 55 tuổi đối với nữ. Nếu người lao động đủ tuổi
hưởng lương hưu nhưng thời gian đóng BHXH cịn thiếu khơng q 5 năm thì
được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm.
Mức lương hưu hàng tháng bằng 45% bình quân thu nhập tháng đóng
BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ mỗi năm đóng BHXH
thì được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, tuy nhiên mức hưởng
không quá 75% [35, tr.18-19].



18
Nếu người lao động đã đóng BHXH trên 30 năm đối với nam, trên 25
năm đối với nữ, thì khi nghỉ hưu ngoài lương hưu sẽ được hưởng trợ cấp một
lần. Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31
trở đi đối với nam và từ năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng BHXH
thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình qn thu nhập tháng đóng BHXH.
Chế độ tử tuất:
Người lao động có ít nhất 5 năm đóng BHXH, hoặc người đang
hưởng lương hưu thì khi chết người lo mai tang được nhận trợ cấp mai táng
bằng 10 tháng lương tối thiểu chung.
Trường hợp người lao động đang đóng BHXH hay đang bảo lưu thời
gian đóng BHXH, người đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân được
hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp tử tuất một lần được tính theo thời gian
đã hưởng lương hưu, nếu chết trong hai tháng đầu hưởng lương hưu thì tính
bằng bốn mươi tám tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng
sau đó, cứ hưởng thêm một tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5
tháng lương hưu. Nếu người lao động đóng BHXH bắt buộc sau đó đóng
BHXH tự nguyện thì thời gian đóng BHXH bắt buộc được cộng với thời gian
đóng BHXH tự nguyện làm cơ sở tính hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
1.1.2. Mối quan hệ lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội
Trong BHXH, mối quan hệ này dựa trên quan hệ lao động và diễn ra
giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
* Người sử dụng lao động (bên tham gia BHXH):
Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy
định của pháp luật BHXH. Bên tham gia BHXH, như đã nêu, gồm có người
lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước (trong một số trường hợp).
Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san
sẻ rủi ro của số đông người lao động khác. Người sử dụng lao động có trách

nhiệm phải bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Khi tham gia


19
BHXH, người sử dụng lao động cịn vì lợi ích của chính họ. Ở đây người sử
dụng lao động cũng thực hiện san sẻ rủi ro giữa tập đoàn những người sử
dụng lao động, để bảo đảm cho quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng
khi phát sinh nhu cầu BHXH của người lao động.
BHXH cũng phục vụ lợi ích người sử dụng lao động vì góp phần duy
trì ổn định lao động trong xã hội. Người sử dụng lao động trả lương cho
người lao động và cả khi họ khơng cịn đủ khả năng làm việc để được hưởng
lương. Người lao động được bảo hiểm sẽ yên tâm phấn khởi làm việc, nâng
cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm góp phần giữ vững, thậm chí
làm tăng lợi nhuận của người sử dụng lao động.
* Người lao động (bên được BHXH):
Bên được BHXH là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh
những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại sự kiện,
rủi ro được bảo hiểm gây ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao
động tham gia BHXH và nhân thân của họ theo quy định của pháp luật, khi
họ có phát sinh nhu cầu được BHXH do pháp luật quy định. Trong kinh tế thị
trường, bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (người lao
động làm việc độc lập, không có quan hệ lao động chẳng hạn). Đối với người
lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là người được quyền
hưởng BHXH vì họ đóng phí BHXH để bảo hiểm cho chính họ. Giữa các bên có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi, trên cơ sở
các quy định của pháp luật (khác với bảo hiểm thương mại là trên cơ sở hợp
đồng). Nếu không thực hiện đúng các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm đóng
góp (của bên tham gia BHXH) cũng như trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho
người thụ hưởng (của bên nhận BHXH), thì đều là vi phạm pháp luật về BHXH.
* Nhà nước (bên BHXH):

Nhà nước tham gia BHXH với hai tư cách. Thứ nhất, Nhà nước tham
gia với tư cách là người sử dụng các công chức và những người hưởng lương


20
từ ngân sách. Khi đó, Nhà nước phải tham gia đóng góp BHXH thơng qua
kinh phí từ ngân sách, với tỷ lệ đóng góp tương đương người sử dụng lao
động trong các doanh nghiệp. Thứ hai, Nhà nước tham gia BHXH với tư cách
là người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn
và hỗ trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết. Ngồi ra, Nhà
nước tham gia BHXH cịn với tư cách chủ thể quản lý, định ra những chế độ,
chính sách, định hướng cho các hoạt động BHXH.
Bên BHXH, đó là bên nhận tiền đóng góp BHXH từ những người tham
gia BHXH. Bên BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan...) do Nhà nước
lập ra (ở một số nước có thể do tư nhân, tổ chức kinh tế - xã hội lập ra theo
quy định của pháp luật) và được Nhà nước bảo trợ, nhận sự đóng góp của
người lao động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH theo quy định
chặt chẽ của pháp luật. Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp
cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và có trách nhiệm quản lý và
đầu tư cho quỹ BHXH phát triển.
Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các
chế độ BHXH cũng do luật định. Nhà nước quản lý và bảo hộ các hoạt động
của BHXH. BHXH còn chịu sự giám sát chặt chẽ của người lao động (thơng
qua tổ chức cơng đồn) và người sử dụng lao động (thông qua tổ chức của
giới chủ) theo cơ chế ba bên. Đây cũng là đặc trưng rất riêng của BHXH. Tất
cả những khía cạnh đã nêu trên, một lần nữa cho thấy, BHXH được lập ra là
để tác động vào thu nhập theo lao động của người lao động tham gia BHXH.
Nói cách khác, BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất
việc làm, do đó bị mất hoặc giảm khoản thu nhập được thay thế, nhằm bảo

đảm thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ.
Đối với ngân sách, BHXH góp phần làm giảm “gánh nặng” cho ngân
sách Nhà nước. Do đặc điểm nước ta chiến tranh kéo dài, người hưởng


21
BHXH nhiều. Hàng năm ngân sách Nhà nước phải bỏ ra khoảng 4.500 tỷ
đồng để trả lương cho hưu trí và mất sức. Khi có chế độ BHXH mới, hàng
năm thu được của người lao động khoảng 1.800 tỷ [34, tr.26]. Khoản chi của
ngân sách Nhà nước cho trợ cấp hưu trí, mất sức... nhờ đó cũng giảm được
một phần. Đồng thời, phần “nhàn rỗi” của quỹ BHXH kết hợp với phần tiết
kiệm cho ngân sách Nhà nước tạo thành nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Đối với những nước có dân số trẻ, nguồn thu BHXH là một nguồn tiết kiệm
nội bộ rất quan trọng vì các khoản chi trợ cấp, trước hết là chi trợ cấp tuổi già
ít dùng đến ngay.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến bảo hiểm xã hội
* Tình hình phát triển kinh tế - xã hội:
Khi nền kinh tế phát triển cao và ổn định thì đời sống của người lao
động cũng được cải thiện hơn, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp cũng được phát triển hơn, các chủ doanh nghiệp sẳn sàng tham gia
BHXH cho người lao động.
Với tư cách là một chính sách, BHXH có mối quan hệ chặt chẽ với các
chính sách khác của quốc gia mà trước hết là với chính sách về an sinh xã hội
và các chính sách xã hội. Trong hệ thống an sinh xã hội của một quốc gia,
gồm các bộ phận: BHXH; trợ giúp xã hội; trợ cấp gia đình; các quỹ tiết kiệm
xã hội; các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn cơng cộng…
Trong đó, BHXH là một trụ cột cơ bản nhất, nhưng có mối quan hệ mật thiết
với các bộ phận khác, nhằm góp phần thực hiện an sinh xã hội cho đất nước.
Chính sách BHXH có mối quan hệ hữu cơ hoặc chịu ảnh hưởng bởi các chính
sách xã hội khác như chính sách dân số; chính sách lao động - việc làm; chính

sách chăm sóc sức khỏe dân cư... Chẳng hạn, khi chính sách dân số có sự điều
chỉnh (tăng hoặc giảm mức sinh) sẽ làm cho cơ cấu dân số thay đổi. Điều này
sẽ ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu đối tượng tham gia BHXH và ảnh hưởng
đến việc quy định trợ cấp thai sản... Chính sách dân số còn tạo ra xu hướng


×