Hiện tượng tự tử ở thanh thiếu niên Việt Nam trong những năm gần đây
Đăng ngày 13-08-2015
(Fondation N - T) Tổ chức y tế thế giới (WHO) chỉ ra rằng, thế giới mỗi năm có
khoảng 1 triệu người chết vì tự tử và trung bình mỗi phút có 2 người chết vì tự tử. Ở
Việt Nam, trong những năm gần đây, hiện tượng học sinh tự tử đã thu hút khơng ít sự
quan tâm, chú ý của các cơ quan báo đài, các kênh thơng thơng tin truyền thơng và
tồn xã hội. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có một thống kê cụ thể nào về hiện
tượng này.
1. Đặt vấn đề
Hành vi tự tử (suicidal behaviour) theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới bao gồm 3
thành phần: ý tưởng tự sát (chỉ thể hiện trong ý nghĩ); mưu toan tự sát (có hành vi để tự tử,
nhưng khơng thành cơng); tự sát (có hành vi tự tử đi đến tử vong).
Trong 45 năm qua tỷ lệ tự tử đã tăng 60% trên toàn thế giới. Hàng năm, có khoảng hơn
1 triệu người chết vì tự tử. Tự tử là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 13 ở mọi lứa tuổi
trên thế giới và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở lứa tuổi vị thành
niên và người lớn trẻ tuổi tại các nước đang phát triển. Các nước Đông Âu có tỷ lệ tự tử cao
nhất tồn cầu (45 - 75 người/ 100.000 người). Ở Mỹ, tự tử là nguyên nhân thứ 3 gây tử vong
cho thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 - 24.
Nghiên cứu ở các nước phát triển và các nước đang phát triển, phát hiện có các rối loạn
tâm thần ở 80 - 100% các trường hợp chết do tự sát. Người ta ước lượng rằng nguy cơ tự sát
trong cuộc đời của những người có rối loạn cảm xúc (chủ yếu là trầm cảm) là 6 - 15%; với
người nghiện rượu là 7 - 15%; và với tâm thần phân liệt là 4 - 10%.
Tại Việt Nam, tỷ lệ thanh thiếu niên từng nghĩ đến chuyện tự tử và từng tìm cách kết
thúc cuộc sống của mình đã tăng cao hơn gấp đơi so với năm 2005 (Theo cuộc điều tra quốc
gia về vị thành niên và thanh niên lần thứ 2, năm 2010).
Kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2008 cũng cho
thấy, trong hơn 10.000 thanh thiếu niên thì trên 73% người từng có cảm giác buồn chán, hơn
4% từng nghĩ đến chuyện tử tự. So với số liệu cuộc điều tra trước đó vào năm 2003, các
chuyên gia nhận thấy tỷ lệ thanh thiếu niên trải qua cảm giác buồn chán đã tăng lên. Đáng
chú ý, tỷ lệ nghĩ đến chuyện tự tử tăng lên khoảng 30%.
2. Thực trạng tự tử ở học sinh Việt Nam
Tự sát ở trẻ vị thành niên luôn là vấn đề đáng báo động. Hiện nay, trên thế giới ở các
nước phát triển như Mỹ và Nhật Bản tỷ lệ tự sát và có ý định tự sát ở tuổi vị thành niên đang
gia tăng. Ở Việt Nam chúng ta, đây cũng là vấn đề rất đáng lo ngại.
Trước đây, cũng xuất hiện một số những vụ việc thương tâm do các em cùng nhau tự tử
tập thể :
- Chiều 24/5/2006, 5 học sinh nữ sinh năm 1993, học lớp 7 trường THCS Phượng Hoàng,
huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương rủ nhau trầm mình tập thể tại đoạn sông Hương chảy qua
địa phận xã. Các em dùng khăn buộc tay nhau nhảy xuống sông, để lại 5 bức thư gửi cho gia
đình và nhà trường cùng một nội dung xin vĩnh biệt thầy giáo, bạn bè vì bị gia đình mắng mỏ
và bị phân biệt đối xử nam nữ.
- Ngày 24/5/2006: Bị gia đình ngăn cản vì yêu đương quá sớm, chểnh mảng việc học hành,
“cặp tình nhân” là học sinh cấp 2 đã rủ nhau uống thuốc ngủ tự tử ngay tại nhà cô bé. Khoảng
20h, bố của Đ.T.T.T. (sinh năm 1990) ở quận Long Biên - Hà Nội đi làm về, phát hiện con gái
cùng bạn trai là Đ.X.T. (sinh năm 1991) đã uống thuốc ngủ tự tử tại gia đình. Được phát hiện
sớm và đưa đi cấp cứu kịp thời, 2 em đã được các bác sỹ cứu sống.
- Ngày 16/2/2006, 9 học sinh nữ đều 14 tuổi và đang học tại Trường THCS Cổ Nhuế A - Từ
Liêm - Hà Nội, sau khi pha 100 viên thuốc ngủ vào cà phê đã uống và hậu quả là 5 em phải
nhập viện do hôn mê sâu. Ở trong lớp các em là nhóm bạn chơi rất thân với nhau. Học kỳ I,
một số bạn trong nhóm có kết quả học tập kém, bị gia đình trách móc, làm các em rất chán
nản.
- Ngày 7/10/2005: Sợ bị mắng, 3 học sinh 12 tuổi, trường Trường THCS thị xã Bến Tre (tỉnh
Bến Tre) uống thuốc ngủ, được nhà trường cùng gia đình lập tức đưa đi cấp cứu tại bệnh viện
tỉnh. Ba học sinh được giáo viên chủ nhiệm yêu cầu làm bản tự kiểm điểm về kết quả học tập
không tốt và buộc phải đưa cho phụ huynh ký tên vào. Các em không dám mang về cho bố
mẹ xem nên rủ nhau uống thuốc tự tử.
Theo số liệu của Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương, TP HCM, trong vòng một năm (từ
tháng 5/2007 - 5/2008), bệnh viện này tiếp nhận 310 ca tự tử dưới 16 tuổi, trong đó 4 ca tử
vong. Tại Bệnh viện Nhi đồng 1, TP HCM trong vòng một tháng đã phải cấp cứu cho 4
trường hợp trẻ tự tử bằng thuốc diệt cỏ. Số liệu thống kê của Bệnh viện Nhi đồng 2, TP HCM
cũng cho thấy, có đến 47 trường hợp trẻ tìm đến cái chết trong năm 2008. Những số liệu trên
đã gióng lên hồi chng báo động về nạn tự tử vị thành niên .
Có thể nhận thấy, hiện tượng thanh thiếu niên tự tử cũng như học sinh tự tử ở
Việt Nam đã và đang diễn ra hết sức phức tạp. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 2012, theo thống
kê của một số trang Internet, cả nước đã có khoảng 10 vụ học sinh tự tử. Dưới đây là một số
vụ việc điển hình:
- Ngày 13/4/2012, một học sinh lớp 12 ở trường THPT Thanh Chương 1 (huyện Thanh
Chương, Nghệ An) đã gieo mình xuống dịng sơng Lam tự vẫn.
- Ngày 31/3/2012, người dân TP Pleiku, Gia Lai tá hỏa vì một cậu học trị lớp 8 treo cổ tự
tử vì nghi bạn gái phản bội.
- Ngày 17/3/2012, 3 nữ sinh THCS Phan Chu Trinh (xã Đắk Sắk, Đắk Mil, Đắk Nơng) uống
thuốc độc tự tử vì sợ cơ giáo mắng.
- Ngày 11/3/2012, em Lầu Thị Dế, học sinh lớp 11, Trường Dân tộc nội trú huyện Điện Biên
Đông đã ăn lá ngón để tự vẫn vì cơ đã làm hỏng chiếc điện thoại di động bố cho.
- Ngày 28/2/2012, bị nghi ngờ ăn trộm đồ đạc, nữ sinh M.T lớp 12 Anh THPT chuyên Lê
Hồng Phong (Nam Định) thắt cổ tự tử trong kí túc xá.
- Trước đó, ngày 10/2/2012, cháu Lương Thị H, sinh năm 1997, học sinh một trường cấp 2 tại
Hải Dương đã tự tử vì bị cho rằng ăn trộm quần áo tại một cửa hàng.
- Tháng 1/2012, bị cô giáo bắt chép lại bài kiểm tra, nữ sinh K.O lớp 12 của trường THPT tư
thục Đơng Quan (huyện Đơng Hưng, Thái Bình) đã nhảy từ tầng 2 xuống đất tự tử.
Những năm gần dây nhất
- Tháng 4/2018, trẻ nam học sinh lớp 10 ở Thành phố Hồ Chí Minh tự tử bằng cách nhảy từ
tầng cao do thất vọng về kết quả thi cử. Tháng 7/2018, ở Nghệ An có hai trẻ vị thành niên bị
gia đình cấm kết hơn vì chưa đến tuổi đã vào rừng ăn lá ngón tự tử rồi đăng tin lên mạng vĩnh
biệt người thân.
- Liên tiếp thời gian gần đây nhiều trường hợp học sinh tự tử vì áp lực học tập từ cha mẹ
khiến nhiều người không phải xót xa. Cuối năm 2021, bé trai 12 tuổi ở chung cư Goldmark
City, Q.Bắc Từ Liêm (Hà Nội) đã rơi từ tầng cao chung cư xuống đất tử vong. Theo thơng tin
của gia đình, do áp lực việc học hành, làm bài thi không tốt nên con đã bất ngờ nhảy từ tầng
22 xuống đất.
Vào đầu năm 2022, một trong những trường hợp đau lòng xảy ra vào hồi tháng Một.
Khoa Hồi sức cấp cứu (Bệnh viện Nhi Trung ương) đã tiếp nhận một trẻ nam 13 tuổi, được
phát hiện đã thắt cổ tự tử bằng khăn quàng đỏ trong nhà tắm. Ngày 23/3/2022, nữ sinh lớp 9
đã tử vong sau khi rơi từ tầng 26 chung cư ở Hà Nội. Được biết, việc em tự tử cũng liên quan
đến học hành. Sáng cùng ngày, em đi học về trong tâm trạng khơng vui. Sau đó, em chia sẻ
với chị về việc học tập thì đến tối đã xảy ra vụ việc đau lòng. Gần đây nhất, chỉ trong một
ngày, liên tiếp 2 vụ trẻ vị thành niên (ở Hà Nội và Bắc Ninh) tự tử đã khiến nhiều người xót
xa. Cụ thể, ngày 1/4, một nam sinh 16 tuổi Nội có tên L.N.N.M (SN 2006) học chuyên tại
trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam đã để lại thư tuyệt mệnh rồi trèo ra ban công từ
tầng 28 nhảy xuống đất tử vong. Theo những dòng chữ cuối cùng nam sinh để lại, cậu đã chịu
nhiều áp lực từ việc học tập cũng như không nhận được sự động viên, cảm thơng đúng mực
từ phía bố mẹ. Nhiều hơm cậu đã phải học tới tận 3 -4 giờ sáng. Cùng ngày hơm đó, tại Bắc
Ninh, một nữ sinh lớp 8 được gia đình phát hiện tử vong trong tư thế treo cổ cùng lá thư và
nhật ký nói rằng "mình sắp đi xa." Nguyên nhân của các em tự tử đều liên quan đến học hành.
Thế nhưng chúng ta cần nhìn rộng ra các vấn đề sau:
Ở Việt Nam, hiện tượng học sinh tự tử là vấn đề chưa nhận được sự quan tâm thỏa đáng, vẫn
chưa có một thống kê cụ thể nào về vấn đề này. Những vụ việc được báo đài đưa tin chỉ là
những vụ việc điển hình, trên thực tế cịn khơng ít những vụ việc học sinh tự tử mà dư luận
xã hội chưa được biết đến. Theo thống kê của Trung tâm phòng chống khủng khoảng tâm lý
(PCP), ở Việt Nam thanh niên từ 15 - 24 tuổi là nhóm lứa tuổi có ý định tự tử cao nhất, trong
đó tỷ lệ nữ cao gấp hai lần so với nam. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt
Nam (năm 2010) đối với hơn 10.000 người trong nhóm tuổi này cho thấy, 4,1% người nghĩ
đến chuyện tự tử, 25% đã tìm cách kết thúc cuộc sống .
Theo bác sĩ Phạm Anh Tuấn, Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương, hiện tình trạng trẻ vị thành
niên tìm đến tự tử ngày càng trở nên bức xúc. Việt Nam là một trong các nước có tỷ lệ bệnh
nhân tự tử cao nhất trong các trường hợp nhiễm độc cấp, trong đó lứa tuổi tự tử nhiều nhất là
thanh thiếu niên dưới 25 tuổi (chiếm 59,7%). Điều đáng lưu ý là phần lớn bệnh nhân tự tử
đều có triệu chứng trầm cảm (khoảng 57,1% số bệnh nhân). Theo bác sĩ Tuấn, nguyên nhân
dẫn đến hành vi tự tử thường là do bệnh nhân gặp phải những biến cố về tình cảm (61,6%).
Ngồi ra cịn vì lý do tiền bạc (14,8%); bệnh tật (7,4%) và áp lực học hành thi cử (chiếm
3,5%). Phương thức tự tử phổ biến của các bệnh nhân là uống thuốc độc hay uống các loại
hoá chất (chiếm tới 97,7%), thông dụng nhất là các loại phục vụ cho nơng nghiệp như thuốc
diệt sâu rầy có hay khơng có phốt pho hữu cơ, thuốc diệt cỏ .
Theo một cuộc khảo sát của TS. Ngô Thanh Hồi - Giám đốc Bệnh viện Tâm thần ban ngày
Mai Hương, có đến 19,46 % học sinh trong độ tuổi từ 10 -16 gặp khó khăn về sức khỏe tâm
thần. Trong khi đó, hiểu biết của xã hội, thậm chí ngay trong ngành y tế về chăm sóc sức
khỏe tinh thần cho học sinh còn rất nghèo nàn. Thực tế những năm gần đây, rất nhiều vấn đề
liên quan đến sức khỏe tinh thần đang nổi lên như stress, lo âu, ám ảnh, trầm cảm, tự sát của
học sinh, các biểu hiện suy nhược và rối loạn cơ thể,...
TS Ngô Thanh Hồi cho biết, trẻ em vơ tình bị đẩy vào những tình huống buộc phải tự lập
cũng như phải đối mặt với quá nhiều tác động có hại do mặt trái của nền kinh tế thị trường,
trong khi các em khơng có cơ hội được trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết về tâm lý. Hiện
nay, trong nhà trường luôn luôn có một tỉ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tinh thần. Theo
đó, có 15,94% học sinh có rối nhiễu về tâm lý trong tổng số học sinh các cấp học, việc lạm
dụng chất gây nghiện đang tăng lên nhanh chóng trong cộng đồng thanh thiếu niên. Trong số
các vụ tự sát, thì 10% ở độ tuổi từ 10 - 17.
Nghiên cứu 21.960 thanh thiếu niên Hà Nội phát hiện 3,7% em có rối loạn hành vi. Khảo sát
sức khỏe tinh thần học sinh trường học thành phố Hà Nội bằng công cụ SDQ của Tổ chức Y
tế Thế giới chuẩn hóa Việt Nam cho thấy trên mẫu nghiên cứu gồm 1.202 học sinh tiểu học
và trung học cơ sở trong độ tuổi 10 - 16 tuổi, tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tinh thần
chung là 19,46 %. Tỷ lệ này đối với nam, nữ, tiểu học, trung học cơ sở, nội thành, ngoại
thành khơng có gì khác biệt.
Những khó khăn về ứng xử của học sinh trong nghiên cứu của Bệnh viện Mai Hương chiếm
9,23%. Lứa tuổi từ 10 - 11 có tỷ lệ 42 - 46% gặp khó khăn về ứng xử. Đặc biệt có sự chênh
lệch rất lớn về khó khăn trong ứng xử giữa học sinh nam (84.60%) và học sinh nữ (15,40%).
TS Hồi cũng lưu ý, trong lĩnh vực tâm lý trẻ em, những phân biệt đối xử của ơng bà, cha mẹ
thậm chí định kiến bất bình đẳng về giới cũng có tác động đến ứng xử của trẻ.
Các vấn đề liên quan đến phát triển trí tuệ, rối loạn nhân cách hành vi như rối loạn cảm xúc,
rối loạn tăng động, rối loạn ứng xử, xung động bạo lực, nghiện rượu và ma túy, rối loạn ăn
uống dẫn tới béo phì, đều là các rối loạn báo hiệu sức khỏe tinh thần gặp khó khăn và nó
hồn tồn có thể là nguy cơ của hiện tượng học sinh tự sát.
Nhìn chung, các vụ việc học sinh tự tử ở Việt Nam thường xuất phát từ một số các nguyên
nhân sau: Không đạt được kết quả mong muốn trong học tập như: thi rớt, bị điểm kém…; Bị
mất danh dự, bị sỉ nhục trước trường, trước tập thể lớp; Bị người thân xúc phạm, vu oan, hiểu
lầm; Bị áp lực do gia đình, nhà trường kỳ vọng ở các em q cao trong học tập; Gia đình có
nhiều xung đột không thể giải quyết: cha mẹ thường cãi vã nhau, anh em hiềm khích…; Bị
ngăn cấm trong tình yêu, tình bạn; Bị gia đình người thân ruồng bỏ; Phải chịu những đợt
khủng hoảng kéo dài, có cảm giác cơ đơn khơng cịn ai để tâm sự, chia sẻ; Mặc cảm với tội
lỗi như bị cưỡng hiếp, quay cóp bị phát hiện được…; Sụp đổ khi đang thần tượng một ai đó;
Tử tự cũng là một cách chứng minh rằng các em vô tội; Tử tự cũng là một cách trả thù; Do
khơng dám đương đầu với những hồn cảnh khó khăn, bế tắc trong cuộc sống; Do các em
khơng tìm thấy được ý nghĩa của cuộc sống.
Trong các vụ việc học sinh tự tử được đưa tin trên các kênh thông tin truyền thông, phương
thức mà các em sử dụng chủ yếu là nhảy cầu, uống thuốc độc, cắt mạch máu, nhảy lầu hoặc
treo cổ tự vẫn.
Hiện tượng học sinh tự tử ở Việt Nam là một vấn đề cần nhận được sự quan tâm thỏa đáng
của các nhà quản lý giáo dục, của mỗi gia đình và tồn xã hội. Hậu quả sẽ là rất đau đớn khi
hiện tượng này vẫn diễn ra. Bản thân những học sinh tự tử sẽ vĩnh viễn mất đi cơ hội được
sống, được học tập và phấn đấu, gia đình và nhà trường có học sinh tự tử sẽ phải gánh chịu
một vết thương tinh thần vô cùng to lớn, xã hội sẽ mất đi những chủ nhân tương lai.
3. Phân tích nguyên nhân hiện tượng học sinh Việt Nam tự tử
Khi học sinh tự tử, chính là lúc các em đang kêu cứu. Qua hành động này, trẻ muốn nói với
chúng ta rằng: con khơng muốn chết mà vì khơng ai quan tâm tới con, hoặc mọi người đã
hiểu sai con; con chỉ muốn được nhìn nhận, được yêu thương. Từng có đứa trẻ 11 tuổi ở
TP.HCM vừa uống thuốc ngủ vừa thông báo cho mẹ: “Mẹ cứ la mắng mãi, con nghe chán
lắm rồi, con uống thuốc tự tử đây để mẹ khỏi mất công la mắng con nữa”. Lần ấy, em được
cứu sống vì người mẹ phát hiện kịp thời. Nhưng oan nghiệt thay, ngay sau đó chưa đầy một
tháng, chính những lời chửi mắng, trách móc của người mẹ trước hành vi tự tử của con đã
khiến cô bé tự tử lần hai, và không cứu được.
Việc trẻ chọn lựa hành vi tự tử có liên quan đến nhiều vấn đề. Ngoại trừ vấn đề bệnh lý tâm
thần do bất thường của hoạt động não, đa số yếu tố ảnh hưởng đến việc tự tử ở học sinh là
những vấn đề xã hội, nhà trường và gia đình. Các nhà nghiên cứu tâm lý - tâm thần - xã hội
học đã ghi nhận tình trạng bắt chước, “lây bệnh” từ những chương trình truyền hình, phim
ảnh, các thơng tin xã hội về tình trạng tự tử. Theo nhà nghiên cứu Gould (1990), tỷ lệ trẻ tự tử
ở Mỹ càng lúc càng tăng thêm theo từng đợt xuất hiện các bộ phim liên quan đến những hành
vi tự tử. Tác giả Brent (1994) và Gould (1996) nhận thấy tự tử có liên quan đến những bất
đồng giữa trẻ và phụ huynh, tình trạng bất ổn trong sinh hoạt gia đình. Sự bất đồng này
thường xuất phát từ việc giao tiếp kém giữa phụ huynh và trẻ.
Những căng thẳng trong gia đình, như: bất hịa giữa cha - mẹ, cha mẹ ly hôn, sự thiếu quan
tâm của cha mẹ về tâm lý, sự độc tài, sự áp đặt, sự buông lỏng, thờ ơ của cha mẹ, kinh tế gia
đình khó khăn, tình trạng trầm cảm - lo âu của cha mẹ, bệnh lý của cha mẹ hoặc của trẻ… là
những yếu tố rất thường gặp trong những trường hợp tự tử tuổi vị thành niên.
Những yếu tố gia đình cịn có thể xem là yếu tố quan trọng nhất đối với tự tử ở lứa tuổi nhỏ
hơn, bên cạnh yếu tố bất an, căng thẳng trong trường học, trong giao tiếp với bạn bè. Ở độ
tuổi này, mối quan hệ với trường học và bạn bè là mối quan hệ ngồi gia đình duy nhất của
trẻ, có tính nâng đỡ và xây dựng nhân cách của trẻ. Khi có những khó khăn trong mối quan
hệ này, cộng với những khó khăn xuất phát từ gia đình, trẻ sẽ mất nguồn lực, mất đi sự động
viên và giúp đỡ trong khi tình trạng căng thẳng nội tại cũng vừa xuất hiện và mạnh mẽ dần.
Chính vì vậy, việc trẻ thu mình, tự kỷ, trầm cảm và nặng nhất là tự tử là điều rất dễ xẩy ra.
Đứng trước những vụ việc học sinh tự tử, chúng ta thường cho rằng đó là những hành động
“dại dột, bồng bột” của các em. Nhưng thực chất nó là kết quả của sự cộng hưởng giữa 3 cái
thiếu: Thiếu cân bằng trong tâm sinh lý lứa tuổi - thiếu kỹ năng ứng phó - thiếu chỗ dựa từ
thầy cơ, cha mẹ.
Dưới góc độ sinh lý, chúng ta đều biết ở độ tuổi thanh thiếu niên, hưng phấn trong thần kinh
rất mạnh, do đó các em dễ mất kiểm sốt và có hành động bất ngờ.
Dưới góc độ tâm lý, tuổi mới lớn đang gặp nhiều trục trặc trong thời điểm dậy thì, tính tự ái
cực kỳ cao, dễ thổi phồng mọi việc, lại gặp những vấp váp đầu đời trong khi chưa có kinh
nghiệm sống, chưa có kỹ năng ứng phó.
Dưới góc độ quan hệ xã hội, đây là lúc mà vị thế của người lớn giảm một bậc trong mắt trẻ
và các em tự nâng vị thế của mình lên một bậc, cho mình nhiều quyền quyết định hơn - thậm
chí quyết định cả mạng sống của mình, giữa các em và người lớn đang có một “dấu
cách” nhất định, gia đình ít gần gũi và ít sát sao các em hơn so với lúc trước.
Tất cả ba yếu tố sinh lý - tâm lý - quan hệ xã hội đó cùng lúc đã đẩy nhiều bạn trẻ vào sự
chông chênh trong cảm xúc, sự bế tắc trong suy nghĩ và bộc phát trong hành động. Trong khi
đó, rõ ràng điểm kém, một lần thi trượt, vài trăm ngàn đồng, một lời trách oan của cô giáo…
đều là những sự việc các em hồn tồn có thể vượt qua, hồn tồn giải quyết được. Tuy
nhiên, khơng ai chỉ bảo cho các em kỹ năng ứng phó với những chuyện đời thường này cả.
Trẻ đến trường với hơn 10 mơn học, các em ở với gia đình hơn 8 tiếng mỗi ngày, qua đó
chúng ta đã dạy các em rất nhiều kiến thức nhưng cách ứng phó với các vấn đề mâu thuẫn
thường ngày thì dường như các em phải tự học. Khi các em đi đến quyết định tự kết thúc
cuộc đời mình, lỗi khơng hồn là ở các em, mà chủ yếu là do chúng ta đã dạy các em chưa
đầy đủ.
Những dấu hiệu cảnh báo học sinh có ý định tự tử
Dấu hiệu nào có thể cảnh báo phụ huynh rằng một học sinh có bệnh tâm lý trầm trọng,
có ý muốn tự kết liễu mạng sống?
- Nếu phụ huynh quan tâm đến con cái của mình có thể nhận ra sớm các dấu hiệu như con
thỉnh thoảng nói rằng: "Con sẽ khơng cịn làm phiền ai nữa đâu", hay "Chả có gì quan trọng
cả!", "Mọi việc đều vơ ích thơi!", hoặc "Con chả cịn gặp ai nữa đâu mà nói"...
- Mặt khác, phụ huynh cũng có thể nhận diện qua các hành động khác lạ của con như: sắp xếp
mọi vật dụng cá nhân theo thứ tự và nói sẽ cho người này món này, người khác món kia mà
mình u q; tự nhiên dọn dẹp phòng ốc sạch sẽ, hay làm cách hành động như để trả ơn bố
mẹ...
- Trước đó là những dấu hiệu trầm cảm như: thay đổi cách ăn uống và ngủ nghỉ; trốn tránh
bạn bè, gia đình, và bỏ những thói quen thường nhật; có hành động cục cằn, thô lỗ hoặc bỏ đi
khỏi nhà; cẩu thả trong cách ăn mặc; thay đổi cá tính một cách bất ngờ; thường xun chán
nản, khơng tập trung được việc gì, từ chối không đi học; hay phàn nàn về những đau đớn thể
xác, thường liên hệ đến sự xúc động, như đau bụng, nhức đầu, mệt mỏi; mất hứng thú về
những thú vui cá nhân.
- Ngồi ra cũng có nhưng dấu hiệu "cấp báo" như: nói đùa sẽ chết; viết truyện viết thơ về cái
chết; có những hành vi tự hủy hoại (như cắt tay, dùng tàn thuốc dí vào tay) hay hành vi liều
lĩnh (đua xe, bỏ phanh); nói tạm biệt với gia đình; tìm kiếm những vũ khí hoặc phương tiện
độc hại có thể sử dụng để tự tử.
4. Một số giải pháp đối với hiện tượng học sinh tự tử ở Việt Nam
Việc đầu tiên khi biết trẻ có ý định tự tử, đó là phải đưa trẻ vào mơi trường an tồn:
tránh xa các vật dụng có thể tự sát (dao, kéo, vật nhọn, dây, vải, súng, vật cứng…), có thể
quan sát trẻ 24/24 (tốt nhất là nhập viện). Tuy vậy, điều quan trọng là giúp trẻ có thể nói về
vấn đề tự tử: ý định tự tử, cách thức thực hiện mong muốn, nguyên nhân dẫn đến ý định tự tử.
Đó là sự quan tâm cần thiết mà trẻ đang thực sự thiếu thốn trong giai đoạn này. Việc nói lên ý
định tự tử giúp trẻ dễ dàng bộc lộ những cảm xúc bị kềm nén, những lo âu do stress, những
căng thẳng khi quyết định tự tử… cũng như giúp phụ huynh có thể cho trẻ thấy sự quan tâm,
yêu thương của người thân dành cho trẻ.
Thường các vấn đề của giới trẻ không phải là chuyện bế tắc, không thể giải quyết như bệnh
ung thư, ly hôn, mất sạch tài sản, mà thường là những chuyện có thể “gỡ rối” được tức thì,
nhưng các em lại khơng có người lắng nghe và gỡ rối kịp thời. Cha mẹ, bạn bè, thầy cô giáo,
người trẻ tin tưởng, nhà tâm lý… chính là những nguồn lực có thể hỗ trợ trẻ trong lúc này.
Tuy vậy, cách giải quyết trên chỉ có tính tạm thời. Thói quen giao tiếp, cách giao tiếp trong
gia đình lại là yếu tố có tính trọng yếu hơn trong việc ngăn chặn trẻ có ý nghĩ tự tử. Việc giao
tiếp tốt trong gia đình giúp trẻ dung hịa được những căng thẳng nội tại của bản thân, ảnh
hưởng lớn đến sự thích ứng của trẻ trong việc tiếp xúc với những yếu tố từ môi trường xã hội.
Việc tạo lập mối quan hệ công bằng giữa cha mẹ và trẻ, giúp trẻ có thể dễ dàng bộc lộ những
cảm xúc, những căng thẳng tâm lý dù nhỏ nhất có thể xuất hiện nhanh chóng trong giai đoạn
phát triển tâm lý tuổi vị thành niên.
Tạo lập mối quan hệ này thật sự không dễ dàng khi phụ huynh ln có thói quen nghĩ rằng
con cái chúng ta là người trẻ, thiếu chín chắn và bốc đồng. Phụ huynh cho rằng quyết định
của bố mẹ là đúng đắn và tốt nhất đối với chính cuộc sống tình cảm của trẻ. Vì vậy, chúng ta
sẽ ít lắng nghe trẻ nói. Cách suy nghĩ và thói quen này có thể làm cho trẻ trở nên câm lặng và
bí hiểm với chính cha mẹ của chúng. Phụ huynh nghĩ rằng việc chăm sóc về sức khỏe và vật
chất sẽ chứng tỏ được tình yêu của mình với con cái, nhưng rõ ràng chúng ta chỉ đang chú ý
trẻ như một đồ vật, hơn là một con người có tình cảm và suy nghĩ.
Thấu hiểu và cảm thơng để tạo nên một mối quan hệ thật tuyệt vời đến từ cách nuôi dạy con
trẻ hiện nay của các bậc cha mẹ. Cha mẹ vừa là người kiềm cặp nuôi dạy con nhưng cũng là
người bạn đồng hành của con trên mọi chặn đường và nên hiểu rằng, mọi hành động hoặc lời
nói xuất phát từ cảm giác hoặc mong muốn nhất thời thiếu kiềm chế, muốn con mình phải
như thế này phải như thế kia mà không dành thời gian để hiểu và san sẻ cùng con nhiều hơn
vô hình chung làm tổn thương con trẻ đều dẫn đến những hậu quả xấu. Trong bộ phim “Reply
1988”, sau những ứng xử thiếu tinh tế đối với cô con gái tên là Duk Sun, người bố giãi bày:
Bố không phải vừa sinh ra đã làm bố, bố cũng là lần đầu tiên làm bố.
Còn trong bài viết “Nếu ba mẹ khơng lỡ may đi xa lạc mình, hãy chỉ đường, hướng dẫn, kéo
tay ba mẹ với nhé!”, nhà báo Trần Thu Hà chia sẻ: Mẹ tuy nhiều tuổi hơn nhưng về việc làm
mẹ, mẹ cũng chỉ bằng tuổi con. Con lung túng, mẽ cũng lung túng; con sai lầm mẹ cũng sai
lầm. Con thất vọng về mẹ có khi cịn ít hơn mẹ thất vọng về chính mình nữa.
Trong việc phát hiện, ngăn chặn và phòng ngừa hiện tượng học sinh tự tử thì giáo dục nhà
trường đóng vai trị chủ đạo, giáo dục gia đình đóng vai trị then chốt và sự cộng hưởng của
xã hội giữ vai trò quan trọng. Phải tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã
hội.
Rễ chắc thì cây sẽ vững. Gia đình hịa thuận ấm êm thì con trẻ sẽ khó gục đổ một cách dễ
dàng. Nếu cha mẹ thực sự quan tâm đến con cái, họ sẽ không quá khó để nhận ra các nét
buồn trong mắt của con, một hơi thở dài hay sự im lặng bất thường của trẻ. Tuổi mới lớn đã
bắt đầu có khả năng tự định đoạt mạng sống của mình, nhưng các em chưa đủ chín chắn để
làm chủ khả năng đó. Nếu các em gặp vấn đề, cha mẹ hãy phát hiện sớm và giúp giải quyết
ngay, đảm bảo tâm lý các em đã được giải tỏa. Về lâu dài, cha mẹ nên bên cạnh để là nhà tư
vấn tháo gỡ cho các em, là chỗ dựa tinh thần chống đỡ những bước đi vào đời, hướng dẫn các
em biết cách xử lý khi gặp khó khăn, bế tắc.
Song song với đó, nhà trường khơng chỉ dạy chữ, dạy khoa học mà còn phải chú trọng dạy kỹ
năng để sống cho học sinh. 100 tiết khoa học chưa chắc giúp cho trẻ thành công nhưng 100
tiết kỹ năng sống có thể làm cho trẻ vững vàng hơn hẳn. Phải hướng dẫn các em cách giải
quyết những vấn đề thường gặp, phải đem những câu chuyện tự tử và hậu quả của nó làm bài
học kinh nghiệm cho các học sinh khác, khơng thể bỏ phí những bài học mà chúng ta đã trả
giá quá đắt bằng chính mạng sống của các em được.
Các tổ chức xã hội mà nịng cốt là các tổ chức Đồn, Đội trong nhà trường và các cơ quan
truyền thông cũng phải tạo thành một sức mạnh thông tin tổng hợp, một “tiếng chuông”
chung để cảnh tỉnh các em, tạo ra những sân chơi lành mạnh, tổ chức những chuyên đề giúp
các em biết cách tự tháo gỡ những khúc mắc của mình.
Tuy nhiên, vai trò quan trọng nhất là ở bản thân các em. Các em cần phải hiểu rằng: Trên đời
này không có sự bế tắc, chỉ có con người nghĩ mình bế tắc mà thơi. Nếu một mình khơng tự
giải quyết được, hãy tìm đến sự trợ giúp từ người khác, đó cũng là một cách giải quyết. Ngay
khi sự cố xảy ra, các em nên tâm sự với ba mẹ hoặc có thể nhờ đến sự giúp đỡ của thầy cơ.
Đừng vội tìm đến cái chết khi em chưa kịp sống, đừng vội bó tay khi em chưa kịp cố gắng hết
mình.
Nếu vẫn chưa được người lớn hỗ trợ, em cũng cần nhớ rằng: 600 ngàn đồng tiền quỹ không
quý bằng mạng sống của em, 1.000 lời ác ý từ thiên hạ không quý bằng mạng sống của em,
sự “phụ bạc” trong tình u mới lớn của những người khơng đáng tin cũng không quý bằng
mạng sống của em, điểm 2 mơn tốn cũng khơng thể so sánh với mạng sống của em được. Có
rất nhiều tấm gương trong xã hội mà các em có thể đã gặp ở đâu đó, họ cịn có những giai
đoạn khủng hoảng hơn nhiều cả về thể xác lẫn tinh thần. Nhưng bằng bản lĩnh dám đối đầu
và tìm cách giải quyết, họ đã đứng dậy từ tận cùng bế tắc và sống tốt hơn .
Tự sát không phải là một biến cố bất ngờ khó hiểu ở học sinh. Các học sinh có ý tưởng tự sát
sẽ bộc lộ cho những người xung quanh thấy đủ các dấu hiệu báo trước và đó cũng chính là cơ
hội để người lớn can thiệp, giúp đỡ các em. Trong đó cần đặc biết chú ý một số điều cốt lõi
sau:
(1) Phát hiện học sinh có rối loạn về cảm xúc và trợ giúp tâm lý cho các em;
(2) Tăng cường mối quan hệ gắn bó hơn với trẻ bằng cách nói chuyện với các em, cố gắng
hiểu và giúp đỡ các em;
(3) Giảm bớt những âu lo thường ngày cho trẻ thông qua việc giảm bớt những áp lực trong
học tập và u cầu của gia đình, thầy cơ;
(4) Theo dõi và nhận biết sớm các thông điệp về tự sát qua cách nói chuyện hay sự thay đổi
trong hành vi của trẻ;
(5) Giúp đỡ những học sinh có biểu hiện trốn học, bạo lực, cảm xúc thất thường;
(6) Xoá bỏ các mặc cảm và khinh miệt của dư luận đối với những học sinh có đặc điểm tính
cách khác biệt, những học sinh có bệnh và tránh việc các em lạm dụng rượu và ma túy hay
các chất kích thích;
(7) Gửi học sinh đi điều trị rối loạn tâm thần và lạm dụng rượu, ma túy (nếu có);
(8) Hạn chế học sinh tiếp xúc với các phương tiện có thể dùng để tự sát như thuốc độc, thuốc
gây chết người, thuốc trừ sâu, súng và các vũ khi khác...;
(9) Cung cấp cho phụ huynh, giáo viên và các nhân viên trường học cách tiếp xúc và cách hỗ
trợ cho những học sinh gặp khó khăn về tâm lý.
5. Kết luận
Hiện tượng tự tử ở học sinh Việt Nam trong những năm gần đây có chiều hướng gia
tăng. Chúng ta phải hiểu rằng không phải ngẫu nhiên học sinh vì áp lực chuyện học hành mà
dẫn đến tự tử, mà nên nhìn rộng ra bản chất vấn đề nguyên nhân vì sao các em bị áp lực học
hành có phải do bài vở nhiều hay do chương trình nặng hay xuất phát từ việc người lớn là cha
mẹ là thầy cô đặt nặng bản chất và áp dụng sai phương pháp học tập, vẽ và đề ra “đường lối
học tập” cho con mình mới là mấu chốt của vấn đề. Bên cạnh áp lực học tập hang ngày thì
nguyên nhân dẫn đến hành vi tự tử ở các em xuất phát chủ yếu từ mâu thuẫn giữa bản thân
với mơi trường gia đình, trường học và xã hội. Việt Nam chưa có một nghiên cứu cụ thể nào
thống kê được con số chính xác số lượng học sinh tự tử hàng năm. Theo đó, việc phát hiện,
can thiệp và phòng ngừa đối với hiện tượng này ở Việt Nam cịn mang tính nhỏ lẻ, thiếu sự
thống nhất và phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội. Luôn thấu
hiểu và sẻ chia và nên nhớ rằng đừng gây áp lực học tập cho con trẻ từ quá sớm. Tự do để các
bạn học sinh trong mọi lứa tuổi khám phá bản thân và nhận ra những khả năng đặc biệt mới
là quan trọng nhất. Vì mọi kiến thức khơng phải cần thiết cân đo đong điếm được hết thông
qua điểm số hay bằng cấp, loại, hạng mà xuất phát từ tự mỗi bản thân các bạn nhỏ nhận ra và
ghi nhớ trong chính bản thân mình. Nên nhớ rằng học để có tri thức học để vận dụng vào thực
tiễn học để trở thành người có ích trên các phương diện của đời sống xã hội. Khơng có bằng
cấp nào nào bằng bằng lịng. Khơng thành cơng trên con đường học chữ thì thành cơng trên
con đường học nghề.
Để kết lại vấn đề phản biện ngày hơm nay mình xin kể lại một câu chuyện nho nhỏ như
sau:
Thomas Edison được biết đến là một nhà phát minh vĩ đại nhưng xuất thân của ông không
giống như những thiên tài khác. Một giai thoại được kể lại từ khoảnh khắc giáo viên tiểu học
của Thomas Edison viết thư cho mẹ cậu bé. Sau khi đưa thư cho mẹ, Edison hỏi bà về nội
dung, mắt bà nhòe lệ khi đọc cho con từng chữ một: "Con trai bà là một thiên tài. Trường học
này q bé và khơng có giáo viên đủ tốt để đào tạo nó. Xin hãy để nó tự dạy chính mình". Rất
nhiều năm sau, khi mẹ đã qua đời và Edison đã trở thành một trong những nhà phát minh vĩ
đại nhất thế kỷ, ông ngồi xem lại những vật dụng cũ trong gia đình. Đột nhiên, ơng tìm thấy
tờ giấy gấp lại trong góc ngăn kéo bàn. Ơng mở ra và nhìn thấy dịng chữ được viết trên đó:
"Con trai bà là một kẻ đần độn. Chúng tôi sẽ khơng để nó đến trường nữa". Edison đã khóc
trong nhiều giờ liền, sau đó viết vào nhật ký: "Thomas Alva Edison là một đứa trẻ đần độn,
nhờ người mẹ anh hùng mà trở thành thiên tài của thế kỷ". Edison được giáo dục tại nhà dưới
sự hướng dẫn của mẹ sau khi rời trường học. Thomas Edison biết mình bị giáo viên xem là có
vấn đề về tâm thần. Trong lớp học của những năm 1800, Thomas Edison gặp nhiều khó khăn
trong học tập bởi mắc chứng khó đọc. Rất ít người biết về chứng bệnh này vào thời điểm đó.
Phải đến đầu những năm 1900, tức hàng chục năm sau khi Edison rời trường, những nghiên
cứu đầu tiên về chứng khó đọc mới được thực hiện. Câu chuyện trên khơng chỉ để đúc kết
một thơng điệp về lịng u thương mà là cách dạy con đúng cách trong mọi thời đại. Biết
đâu vì nhờ những mẫu chuyện kể nho nhỏ như thế này mà tương lai chúng ta sẽ ít nghe ít
thấy ít bắt gặp những thông tin và mẫu chuyện đau lòng về vấn đề tự tử ở học sinh như hiện
nay.
Cha mẹ không thấu hiểu được con cái thì có thể lấy vị thế đấng sinh thành, công nuôi
dưỡng để bắt ép con cái thay đổi theo khn khổ mà mình cho là đúng. Cịn con cái khơng
hiểu được cha mẹ thì chỉ có thể nổi loạn hoặc từ bỏ cuộc đời (như nhiều sự việc đáng tiếc vừa
xảy ra trong thời gian qua). Vì vậy với quan điểm cá nhân, vai trò – trách nhiệm của phụ
huynh đối với việc thấu hiểu con cái trọng yếu hơn nhiều so với vai trò – trách nhiệm của con
cái phải thấu hiểu cha mẹ, đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh trẻ nhỏ đến vị thành niên – lứa
tuổi còn thiếu vốn sống, thiếu suy nghĩ. Và nên nhớ rằng cha mẹ đã từng là con cái, hoặc chí
ít là cháu là trẻ con nhưng trẻ con chưa bao giờ là cha mẹ. Lẽ ra phải biết và hiểu trẻ hơn.
Và điều tác giả muốn gửi gắm qua việc bàn luận về chủ đề học sinh tự tử về áp lực học là vấn
đề và câu chuyện tự tử ngày nay rất nhiều không chỉ dừng lại ở một vài cá nhân là học sinh
mà nó luôn thường trực ở nhiều những đối tượng khác nữa dù là người lớn hay trẻ em là học
sinh thì bản thân mỗi người hãy tự rèn luyện cho mình thật dày dặn kỹ năng sống, rèn luyện
cho mình đức tính chấp nhận. Rèn luyện cho mình sự bản lĩnh. Chỉ như thế mới giúp bản
thân vững vàng hơn khi có khó khăn hay biến cố xảy ra. Mà rèn luyện điều này ở đâu? Ở
xung quanh chúng ta có hết. Hảy một lần đến bệnh viện vào thăm các ca bệnh nhân đang cố
gắng dành từng hơi thở để được sống. Sẽ thấy bản thân may mắn thế nào khi được khỏe
mạnh. Hãy một lần đi thăm các mái ấm trại trẻ mồ cơi để thấy mình cịn có một gia đình để
trở về và bao bọc. Hãy cho phép bản thân trải nghiệm cuộc sống này thật nhiều, để cho mình
có thêm sức mạnh. Và nếu thật sự ai đó đang thiếu động lực để sống thì lúc nào cũng nên nhớ
về ngồi kia có rất nhiều người tấm gương vượt lên trên nghịch cảnh và không bao giờ đầu
hang số phận đề học tập và lấy động lực vươn lên.
Danh mục tài liệu tham khảo
/>