Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Từ phương pháp tự học ngoại ngữ của Hồ Chí Minh đến phương pháp nâng cao trình độ ngoại ngữ cho giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.56 KB, 3 trang )

Kỷ yếu hội thảo khoa học: "CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

MỘT TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC VỀ GIÁO DỤC VÀ SƯ PHẠM". pp. 82-84

TỪ PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC NGOẠI NGỮ CỦA HỒ CHÍ MINH
ĐẾN PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ NGOẠI NGỮ
CHO GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ThS. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh

Khoa Việt Nam học – Đại học Sư phạm Hà Nội
Nếu như ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu và quan trọng bậc nhất
của con người thì ngoại ngữ chính là cầu nối khơng thể thiếu trong quá trình giao
lưu, hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia dân tộc. Điều này không phải đến ngày nay
trong q trình quốc tế hóa, tồn cầu hóa chúng ta mới nhận thức được mà ngay
dưới thời phong kiến nước ta, nhiều vị vua đã thức thời nhận ra như vua Minh
Mạng dưới triều Nguyễn là một ví dụ: “Xưa, đời nhà Đường, Lý Bạch biết tiềng các
nước Phiên. Nếu ơng ta khơng học thì biết làm sao được”, “Ta muốn học cái hay
của người là mở dịch quán (trường đào tạo ở Kinh thành), cấp tiền lương cho những
ai hiểu biết chữ và tiếng nói của các nước để họ giảng dạy cho người trong nước.
Những tiếng chim mng là khơng cần học, cần biết; cịn thì tiếng người nên biết
cả. Có như thế thì mới mong trở thành nước văn minh và quốc thể mới được tôn
trọng” [6]. Nhận thức được tầm quan trọng của ngoại ngữ như vậy, nhưng làm thế
nào để biến thứ ngôn ngữ nước ngồi ấy thành phương tiện giao tiếp, thành cơng
cụ để học tập và nghiên cứu? Đó là câu hỏi đặt ra cho mỗi giảng viên chúng ta và
chúng ta phần nào sẽ tìm được lời giải đáp cho câu hỏi ấy qua việc tìm hiểu về cách
học ngoại ngữ của Hồ Chí Minh – một tấm gương tự học đầy sáng tạo.
Ngay từ thưở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã theo học chữ Hán và tiếp thu
vốn văn hóa Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Hoa. Song từ ngày đó, Người đã khơng
thích kiểu học nệ cổ, bắt học trò nhồi sọ cổ văn theo lối “tầm chương trích cú” [3]
mà ln tìm tịi những vấn đề liên quan đến thực tiễn cuộc sống để suy nghĩ và giải


quyết. Từ năm 1905 đến 1909, Nguyễn Tất Thành có theo học các trường tiểu học
Pháp – bản xứ ở Vinh, Đông Ba (Huế) rồi Trường Quốc học Huế. Trong thời gian
đó, Người đã có dịp tiếp xúc với tiếng Pháp song mới chỉ là những kiến thức sơ giản
mà thơi.
Phải đến khi Người bước chân ra đi tìm đường cứu nước thì hơn lúc nào hết
Người mới nhận thức sâu sắc vai trị của ngoại ngữ trên hành trình đi tìm chân lý.
Nếu khơng biết ngơn ngữ của các dân tộc mà Người đã đi qua thì làm sao Người
có thể tìm hiểu về lịch sử của dân tộc đó, làm sao Người hiểu nhân dân, đất nước
ấy đang làm gì và đang cần gì. Chính vì vậy, đặt chân đến đâu việc đầu tiên của
Người là học ngôn ngữ của đất nước đó để có thể sử dụng thứ ngôn ngữ ấy làm
82


Từ phương pháp tự học ngoại ngữ của Hồ Chí Minh đến phương pháp...

phương tiện giao tiếp, tìm tịi, khám phá, từ đó mà rút ra những bài học bổ ích
cho hành trình đi tìm chân lý của mình. Năm 1911, sau khi rời bến cảng Nhà Rồng
(Sài Gòn), Người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành đã vượt đại dương tìm đến
Singapore, Clơmbơ, Pari, Macxây. . . Rồi từ Have, Người đã đặt chân đến Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Angieri, Tuynidi, Đông Phi. . . Và từ châu Phi Người đã sang
Mĩ, từ Mĩ Người lại vượt Đại Tây Dương trở về châu Phi. . . Trên hành trình bơn
ba qua bao nhiêu quốc gia ấy, đến nơi nào Người cũng học ngoại ngữ. Bao nhiêu
ngôn ngữ được sử dụng ở các nước mà Người đã đi qua là bấy nhiêu ngôn ngữ được
Người dày công khổ luyện. Bởi thế, Người học cả tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây
Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha. . . Người không chỉ học ở sách mà người cịn tìm cho
mình cách học hiệu quả từ trong thói quen giao tiếp với người nước ngồi. Người rất
mạnh dạn, khơng ngần ngại khi giao tiếp với cô sen, với người bạn cùng tàu, với
anh đầu bếp hay thậm chí là với cả giáo sư người Anh. . .
Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, Người cũng có thể tìm tịi, học tập, khơng bỏ
phí một chút thời gian nào, một cơ hội nào. Sự kiên trì, chịu khó của Người khi học

tiếng Pháp được Trần Dân Tiên miêu tả khá chi tiết. Trần Dân Tiên đã kể lại rằng:
Ông Nguyễn bắt đầu viết tiếng Pháp rất khó khăn. Dù tin tức về Việt Nam không
thiếu nhưng ban đầu Người thiếu nhất là văn Pháp, ngôn ngữ Pháp. Bài viết đầu
tiên được Người viết thành 2 bản gửi cho chủ báo Pháp và một bản giữ lại cho mình.
Người đã vui sướng biết bao khi bài viết đầu tiên ấy được đăng trên báo. Người đã
đọc đi đọc lại bài báo đã in, so sánh và sửa những lỗi viết sai. Bài báo đầu tiên ấy
dài khơng q 7 dịng. Dần dần Người đã viết dài hơn, có thể viết cả một cột báo,
rồi tiến đến cả trang báo và rồi viết cả cuốn sách, vở kịch bằng tiếng Pháp. Ở Pari,
Người đã cho xuất bản tờ báo: Người cùng khổ; các tập sách Bản án chế độ thực
dân Pháp, vở kịch Con rồng tre và nhiều truyện kí khác bằng tiếng Pháp [2].
Vậy là trải qua từng bước đầy gian khổ, bằng đức tính kiên trì, chịu khó,
Người đã biến tiếng Pháp thành phương tiện hữu hiệu để hiểu về nước Pháp và con
người nơi đây. Không dừng lại ở học tiếng Pháp, Người cịn dũng cảm vượt qua mọi
gian khó trên hành trình tiếp cận với tiếng Anh, tiếng Nga và nhiều thứ tiếng khác.
Hơn ai hết Người hiểu rằng: con đường ngắn nhất để tiếp cận và hiểu một dân tộc
trước hết là sử dụng được ngôn ngữ của dân tộc đó. Theo lời kể lại của Trần Dân
Tiên, Người lúc nào cũng tận dụng thời gian đọc sách bằng tiếng nước ngồi. Hồ
Chủ tịch thích đọc truyện của Sếchxpia và Đíchken bằng tiếng Anh, truyện của Lỗ
Tấn bằng tiếng Hán hay các tác phẩm của Huygo, Đuyma bằng tiếng Pháp. Ngay
ở trong cảnh tù đày, Người còn lạc quan viết nên tập thơ Nhật ký trong tù bằng
tiếng Hán. Và trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, dù
bận trăm cơng nghìn việc nhưng Người vẫn không quên trau dồi tiếng Nga bằng
cách dịch những tác phẩm tiếng Nga có thể phục vụ thiết thực cho cách mạng hiện
thời. Cuốn sách Tỉnh ủy bí mật của A.Phêđôrôp – một trong những người lãnh đạo
phong trào du kích ở Liên Xơ hay cuốn Lịch sử Đảng cộng sản B Liên Xô (Bản tin
Liên Xô, số 10/312) ra đời chính trong trong thời kỳ đầy gian khổ ấy.
Rõ ràng, dù trong hồn cảnh nào, Người cũng ln tận dụng thời gian để học
83



Nguyễn Thị Mỹ Hạnh

ngoại ngữ, trau dồi nó, biết sử dụng nó một cách rất thiết thực. Người học liên tục,
không đứt đoạn và rất cẩn thận, từ tốn mà chắc chắn. Trần Dân Tiên đã kể lại rằng:
“Ngày còn học ở Xiêm (Thái Lan), Bác Hồ đã đề ra ngày học 10 chữ. Có người chê
ít, địi học nhiều hơn nhưng chỉ 3 tháng sau Bác đã xem được báo chữ Xiêm, còn
những người khác háo hức lúc đầu nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu” [2].
Quả thật là, khi nói đến học ngoại ngữ, người ta thường hay nói đến năng
khiếu. Cố nhiên có năng khiếu thì học sẽ nhanh hơn, nhưng nếu sẵn có khiếu mà
khơng học kiên trì, liên tục thì năng khiếu đó cũng khơng thể phát huy. Với Hồ Chí
Minh, trước hết chúng ta tìm thấy ở Người một phong cách học ngoại ngữ bền bỉ,
kiên trì và đầy nghị lực, khơng nóng ruột, vội vàng mà rất chắc chắn. Quá trình học
tiếng nước ngồi của Người là q trình học rèn luyện, rèn luyện liên tục, để không
ngừng xây dựng và củng cố kỹ năng ngôn ngữ mới, để đạt đến độ sử dụng được nó
một cách sinh động, có hiệu quả.
Từ tấm gương tự học ngoại ngữ của Người, chúng ta có thể suy ngẫm rút ra
được những bài học quý báu để hình thành cho mình một phương pháp học ngoại
ngữ tốt nhất. Là giảng viên đại học Sư phạm, muốn đào tạo ra những người Thầy
giỏi, có khả năng tiếp cận nhanh nhất những thành tựu văn hóa, khoa học kỹ thuật
trên thế giới và có sự năng động, linh hoạt trong quá trình giao lưu, hội nhập với
nền giáo dục bên ngồi thì trước hết phải được trang bị ngoại ngữ và ngoại ngữ
phải được biến thành công cụ trong quá trình học tập, nghiên cứu. Muốn đào tạo
ra những người Thầy như thế thì trước tiên người giảng viên phải là những người
có trình độ ngoại ngữ và sử dụng ngoại ngữ thành thục. Nên chăng mỗi giảng viên
chúng ta phải luôn luôn ý thức việc tự học ngoại ngữ là nhiệm vụ thường xuyên
song hành với nhiệm vụ trau dồi, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn của mình. Việc
học kiên trì, bền bỉ đến liên tục khơng ngừng với một quyết tâm cao độ sẽ giúp mỗi
giảng viên chúng ta biến ngoại ngữ thành công cụ đắc lực phục vụ, hỗ trợ cho quá
trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy, giúp mỗi chúng ta tự tin vững bước cùng
đất nước trên hành trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Quả thật tấm gương tự học ngoại ngữ của Hồ Chí Minh thực sự đã rung động
lịng người, khiến mỗi giảng viên chúng ta thêm ý thức, thêm trách nhiệm!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đinh Xuân Lâm. Về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Nxb Lao động, Hà
Nội, 2006.
[2]. Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch.
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.
[3]. Bác Hồ thời niên thiếu. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989.
[4]. Nguyễn Thành. Sự nghiệp báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1998.
[5]. Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 4/2000.
[6]. Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 2/2004.
84



×