Tải bản đầy đủ (.pdf) (239 trang)

Tìm hiểu một số công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (Tập 2): Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.13 MB, 239 trang )

TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA

BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM

CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN cứu

Hệặ%íl íPÉNIili§li Ii
BẢO TÀNG
DÂN TỘC HỌC
VIỆT NAM
Í/ỈYỈ> T v ỉv ,J

•< ^ > 3

II

NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XẢ HỘI
HÀ NỘI - 2001


CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN c ứ u
CỦA BẢO TẦNG DẨN TỘC
HỌC
VIỆT
NAM



(II)



TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA

BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM

CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN

cứu

CỦA BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM




ƠD

NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ NỘI - 2001




BAN BIÊN TẬP

- PGS, TS. NGUYỄN VẢN HUY (Trường ban)
- TS. LÊ DUY ĐẠI (Thưký)
- TS. LUƯ HÙNG
- TS. LA CÔNG Ý


MỤC LỤC


Trang
Lời nói đầu

9
Phần I
NHŨNG VẤN ĐỂ CHUNG

- Bài phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh trong
dịp thăm và làm việc tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
ngày 23-1-1999.

13

- Bài phát biểu của Cố vấn Đỗ Mười trong dịp thăm và làm
việc tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ngày 11-9-1999.

21

- Bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, ủy viên Bộ
Chính trị trong dịp thăm và làm việc tại Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam ngày 15-6-1999.

23

- Trưng bày chuyên đề Tết trẻ em tại Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam.

27


- Nguyễn Văn Huy: Đổi mới các hoạt động của bảo tàng để
bước vào thế kỷ 21 (Từ kinh nghiệm của Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam).

35

- Nguyễn Trung Dũng: Bảo tàng Dân tộc học
(Vài suy nghĩ từ góc nhìn kinh tế - văn hoá).

45

ViệtNam

5


Phần II
NGHIÊN CỨU VÀ SƯU TAM v ớ i v iệ c h ìn h
KHU TRƯNG BÀY NGỒI TRỜI
VÀ TRUNG BÀY CHUYÊN ĐỂ

thành

Chu Thái Sơn: Lược sử nghiên cứu tập quán pháp ở Việt
Nam và việc bảo tồn di sản văn hố phi vật thể.

61

Lưu Hùng: Nhà rơng với Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.


71

Lê Duy Đại: sử dụng và quản lý tài nguyên đất và nước ở
các dân tộc miền núi phía Bắc - Hướng nghiên cứu, trưng
bày quan trọng ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

91

La Công Ý: Một số tư liệu về nhà sàn truyền thống của
người Tày ở Định Hoá (Thái Nguyên).

106

Nguyễn Anh Ngọc: Một số hình thức đánh bắt hải sản sơ
khai ở vùng biển Đơng Bắc.

117

Vi Văn An: Đặc trưng nhóm tộc người qua sự bố trí bên
trong ngơi nhà của nhóm Hmông Hoa ở huyện Mù Cang
Chải tỉnh Ỷên Bái.

130

Mai Thanh Sơn: Nhà ở của người Hmông Đen (Tư liệu điền
dã tại xã Tả Phin, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai).

142

Nguyễn Tôn Kiểm: Nghề giấy và các làng giấy truyền thống.


157

Phạm Văn Lợi: Ghi chép về một bữa ăn bỏ mả của ngưcri
Gia-rai Aráp.

177

Trần Thị Thu Thuỷ: Một vài yếu tố văn hoá tinh thần liên
quan đến nhà ở truyền thống của người Hmông ở huyện Mù
Cang Chải, tỉnh Yên Bái.
Phạm Văn Dương: Nước và kỹ thuật "Dẫn thuỷ nhập điền"
của người Thái Đen ở bản Pọng, xã Hua La, thị xã Sơn La,
tỉnh Sơn La.

6

191

203


- Võ Mai Phương: Trang phục trong nghi lễ của người Dao
Đỏ ở Sa Pa, Lào Cai.

223

- Vũ Hồng Thuật: Các lễ trong ngôi nhà người Việt ở Triệu
Sơn - Thanh Hoá.


230

- Chu Văn Khánh: Lịch tre của người Mường.

248

- Mai Thanh Sơn: Nhà ở của người Si La.

270

- Phạm Thu Hiền: Làng gốm Bát Tràng.

286

- Lưu Hùng: Vài nét về vải vỏ cây ở một số tộc người miền
núi Việt Nam.

303

- A. M. Reshetop, A. Iu Sinhisưn: Trưng bày "Văn hố tình u"
trong truyền thống của các dân tộc Đơng và Đơng Nam Á.

317

Phần III
TRƯNG BÀY NGỒI TRỜI -

NHŨNG VẤN ĐỂ BẢO QUẢN
- Nguyễn Thị Hồng Mai: Hình thành và bảo quản sưu tập Dân
tộc học trong các công trình kiến trúc trưng bày ngồi trời ở

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

333

- Hoàng T ố Quyên: Vài suy nghĩ về việc quản lý hiện vật
trưng bày ngồi trịi ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

341

- Nguyễn Thị Hường: Vài suy nghĩ về công tác chuẩn bị trưng
bày ngoài trời ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (Dưới góc
độ kiểm kê - bảo quản).
- Phạm Lan Hương: Vài suy nghĩ về bảo quản hiện vật trưng
bày ngoài trời (qua thực tế trưng bày ngôi nhà mồ Gia-rai) ở
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

367

- Nguyễn Tuấn Linh: Một số vấn đề bảo quản hiện vật chất
liệu gỗ và mây tre ở khu trưng bày ngoài trời Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam.

384








352

7


Phần IV
TRUYỂN THÔNG VÀ CÔNG CHÚNG
Đỗ Minh Cao: Vấn đề truyền thông của Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam.

395

Catherine Ballé: Cơng chúng - Sự sống cịn của các bảo
tàng đương đại.

407

Phần V
TƯ LIỆU NGHE NHÌN
TRONG BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM

8

Jean Rouch: Phim Dân tộc học.

429

Hoàng Thị Thu Hằng: Một vài suy nghĩ về phân loại tư liệu
phim ảnh ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.


479

Vũ Hồng Nhi: Vai trị, chức năng việc sử đụng Video trong
cơng tác giáo dục - tuyên truyền ở Bảo tàng Dân tộc học
Viêt Nam.

490


LỜI NÓI ĐẦU

r y y ^ ế ả o tàng Dân tộc học Việt Nam được thành lập vói chức
/ 4 Ị p ặ năng nhiệm vụ được xác định là: nghiên cứu, sưu tầm,

bảo quản, trưng bày và giới thiệu các giá trị lịch sử, văn
b á về-phương diện dân tộc học của 54 dân tộc ở nước ta. Do đó, trong
cíc hoạt động thường xun của mình, Bảo tàng phải triền khai đồng thời
trên rửùều tĩnh vực mà ở mơi một tĩnh vực đó phải dựa trên cơ sở nghiên
chi khoa học nghiêm túc, cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn.
Hàng năm, những kết quả nghiên cứu này được Bảo tàng công bố
trong xuất bản phẩm mang tên: Các cơng trình nghiên cứu của Bảo
tùng Dân tộc học Việt Nam.
Cuốn sách: "Cảc cơng trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam" (II) lần này là sự tiếp nối tập I đã được Nxb Khoa học
xã hội xuất bản năm 1999. Đây là kết quả hoạt động khoa học và
công tác nghiền cứu trong năm 1999 của các nhà khoa học trong Bảo
tang và các cộng tác viên của Bảo tàng.
Cuốn sách tập hợp hơn 30 bài nghiên cứu, được bố trí trong 5
phần:
- Phần I: Những vấn đề chung

- Phần II: Nghiên cứu và sưu tẩm với việc hình thành khu trưng
bày ngồi trời và trung bày chuyên đề.
- Phần III: Trưng bày ngoài trời - Những vấn đề bảo quản
- Phần IV: Truyền thông và công chúng
- Phần V: Tư liệu nghe nhìn trong Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
9


Có nhiều nổi dung được trinh bày trong cuốn sách nhưng hầu hết
đều tập trung chủ yếu vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trong năm
1999 là xây dựng khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng. Ở đây, ngay
cả những bài viết về công tác sưu tầm, trưng bày Tết Trung thu, giới
thiệu các cơng trình kiến trúc dân gian ngồi trời (nhà người Hmơng,
người Tày, ngơi nhà mồ Gia-rai...), các vấn đề bảo quản, kể cả nguồn
tư liệu nghe nhìn, phim ảnh, các cơng tác truyền thơng và maketing...
tưởng như là những công tác nghiệp vụ đơn thuần, đơn giản nhưng đều
được trình bày có hệ thống trên cơ sở nghiên cứu sâu các vấn đề mang
tính lý luận của ngành Bảo tảng học thế giới, nhất là thông qua hoạt
động thực tiễn trong những năm qua của Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam nên mang tính khoa học cao và có sức thuyết phục. Đặc biệt,
cuốn sách trân trọng giới thiệu các bài nói chuyện của các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong dịp đến thăm Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam đã gợi mở nhiều vấn đề mang tính định hướng chung khơng
chỉ có ý nghĩa cho Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam mà còn cho cả
ngành Khoa học xã hội nhân văn nói chung, ngành Dân tộc học, Bảo
tàng học ở nước ta nói riêng.
Chúng tơi hy vọng tài liệu hữu ích này sẽ giúp cho các cơ quan,
các nhà nghiên cứu Dân tộc học, Bảo tàng học, Văn hoá Dân gian...
quan tâm tới vấn đề nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và giới thiệu những
giá trị văn hố truyền thơng của các dần tộc ở nước ta và mong được

sự cộng tác chặt chẽ của bạn đọc gần xa để các tập "Các cơng trình
nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam" xuất bản tiếp theo
ngày càng tốt hơn.
Giám đốc
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
PGS. TS. NGUYỄN VÃN HUY

10


PHẦNI

NHỮNG VẤN Đ Ì CHUNG

11


BÀI PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH QUốC HỘI
NÔNG ĐÚC MẠNH TẠI BẢO TÀNG
DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM (NGÀY 23-1-1999)
Thua đồng chí Giám đốc Trung tâm Khoa học Xã hội và
Nhân văn Quốc gia, các đồng chí lãnh đạo của Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam và toàn thể các đồng chí. Hơm nay là ngày
đầu năm, tơi hết sức vui mùng được đến thăm Bảo tàng của
các đồng chí sau hơn một năm kể từ ngày bắt đầu đua Bảo
tàng vào hoạt động. Trưổc hết, cho phép tôi gửi đến các đồng
chí nhũng tình cảm tốt đẹp nhất.
Đây là lần đầu tiên ngay tại thủ đô Hà Nội chúng ta có nơi
trưng bày giỏi thỉệu về những nét đặc sác cùa nền văn hoá của
các dân tộc ỏ Việt Nam. Có lẽ đây là ý nghĩa lịch sử khồng chỉ

trong nưổc, mà còn đối vỏi quốc tế. Khi ngưòi nưổc ngồi đến
Việt Nam vì khơng có điều kiện thăm quan, nghiên cứu được
các dân tộc trên cả nưỏc, họ sẽ đến Bảo tàng Dân tộc học và
sẽ hiểu được truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam, cùa
các dân tộc anh em sống trong một cộng đồng Tổ quốc. Và
cơ thể nói, sau hơn một năm đi vào hoạt động, bằng sự nỗ lực
rất lỏn của các đồng chí, Bảo tàng đã có được nhiều bộ sưu tập
hiện vật, đã tổ chức trưng bày, giổi thiệu cho đông đảo đồng
bào ta đến thăm quan, làm cho Bảo tàng này là noi lưu giũ nét
đặc sác của nền văn hoá dân tộc Việt Nam phong phú và đa
13


dạng. Khi chúng ta đua cơng trình xây dựng Bảo tàng .Dân tộc
học Việt Nam vào phục vụ công chúng, Bảo tàng này đã thể
hiện được ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của nó. Vì vậy, hơm
nay gặp các đồng chí, cho phép tơi thay mặt Quốc hội biểu
dương, khen ngội thành tích của các đồng chí. Sau đây tơi có
vài suy nghĩ nói vỏi các đồng chí.
Mối quan hệ giũa Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vối Bảo
tàng Lịch sử, Băo tàng Cách mạng, Bảo tàng Văn hoá các dân
tộc ỏ Thái Nguyên nhu thế nào? Tôi nghĩ rằng, nhất định phải
xây dựng Bảo tàng này thành một trung tâm lổn. Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam địi hỏi có sự nghiên cúu, lựa chọn giỏi thiệu
những nét đặc sắc, đặc trưng của các dân tộc trên đất nuỏc
chúng ta. Ỏ nuóc ta, có nhũng dân tộc dân số rất đông, nhất
là dân tộc Kinh, nhưng cũng có dân tộc đến nay chì cịn có một
làng, nhưng đặc trưng của các dân tộc từ ngàn xưa và xuyên
suốt lịch sử là đoàn kết vổi nhau trong q trình dựng nưỏc và
giữ nưóc; gắn bó vỏi nhau để tồn tại. Tơi hình dung chúng ta

có điểm khác với dân tộc ỏ các nưốc: không một dân tộc nào
có thể tự mình tồn tại được nếu như khơng gán bó đồn kết
vỏi các dân tộc khác trên mảnh đất Việt Nam mấy ngàn năm
lịch sử này. Theo tôi, trong văn hoá cùa từng dân tộc, chỉ càn
giỏi thiệu một cách lựa chọn; nhưng qua đó thể hiện nét chung
nhất là sự đồn kết, tương trộ gắn bó vỏi nhau, cố kết vỏi nhau
của cộng đồng cẩc dàn tộc Việt Nam như một khối thống nhất.
Điều này theo tôi, khơng chỉ có ý nghĩa giỏi thiệu để ngưịi
ngồi biết được con ngưòi Việt Nam, các dân tộc Việt Nam như
thế nào, mà cái chính là khi đồng bào các dân tộc nưỏc ta đến
đây xem và thấy được sự thể hiện tình cảm gắn bó của mình
vỏi nhau, và chính Bảo tàng này chúng minh cho đưịng lối dân

14


tộc của Đảng và Nhà nuốc ta từ trưổc đến nay là bình đẳng,
đồn kết, tương trộ giúp đỡ lẫn nhau phát triển một cách đồng
đều. Ỏ nưỏc ta, thực sự một vấn đề quan trọng đặt ra là: Trong
khi ở những vùng có điều kiện thuận lợi sẽ phát triển nhanh
hơn, tốc độ phát triển cao hơn, đòi sống khá hơn, được cải thiện
sóm hơn, thì một bộ phận đồng bào ta ỏ nhũng vùng sâu, vùng
xa còn cực kỳ khó khăn, nghèo đói. Chủ trương của chúng ta
là đổi mói bằng mọi cách, bàng hệ thống chính sách, bằng hệ
thống biện pháp, làm thế nào đó ỏ tất cả các vùng, miền đều
phát triển, làm thế nào để thể hiện chủ trương, chính sách,
pháp luật của Nhà nưổc bàng tổ chức thực hiện. Để thực hiện
điều đó, khơng chỉ bàng lịi nói, mà phải bằng cơng việc cụ thể.
Tơi muốn nói một ý lỏn: ỏ Bảo tàng này vấn đề không chỉ là
trưng bày như thế nào: mặc bộ quần áo gì, màu gì, tên gọi dân

tộc gì v.v... Cái chính là gắn bó làm tốt lên truyền thóng cố
kết, đồn kết, gán bó các dân tộc trong cộng đồng quốc gia
Việt Nam. Tất nhiên tôi nghĩ ràng: tính chất ở đây là tính chất
vãn hố, nhưng cái tính chất văn hố ấy khơng tách rịi truyền
thống lịch sử, truyền thống cách mạng của đất nưỏc, của dân
tộc Việt Nam ta. Tồi khơng hiểu Bảo tàng Văn hố các dân
tộc vổi Bảo tàng Dân tộc học khác nhau như thế nào. Tơi xem
Bảo tàng Văn hố các dân tộc, thấy ỏ đó vừa có trưng bày thể
hiện về mặt dân tộc học, về văn hoá'truyền thống, vừa giổi thiệu
cả về lịch sử cách mạng. Cần làm sao Bảo tàng Dân tộc học
vđi Bảo tàng Văn hoá các dân tộc có sự phói hộp, để mọi ngưịi
xem ỏ đây và lên Thái Nguyên xem bổ sung. Còn về lâu dài,
Bảo tàng Văn hoá các dân tộc sẽ như thế nào thì cần phải có
sự nghiên cứu, trách nhiệm ỏ đây là Bộ Văn hố - Thơng tin:
nghiên cứu về văn hoá, về hệ thống khoầỉhọc bảo tàng để sắp

15


xếp như thế nào cho hộp lý. Song, Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam ỏ đây phải là trung tâm. Tù trung tâm này, suy nghĩ đến
mối quan hệ vỏi Làng Văn hoá ỏ Đồng Mồ trong tương lai sẽ
xây dựng, mà sức ta cũng có hạn, tơi muốn các đồng chí vừa
nghiên cứu vừa chỉ đạo, đây là vấn đề ỏ tầm vĩ mô. Tôi tán
thành việc các đồng chí sưu tầm, trưng bày giỏi thiệu để phục
vụ cho nghiên cứu, giáo dục truyền thống. Khi khách đi thăm
quan ở H à Nội, trưổc tiên họ đến Lăng Bác, sau đó đến Bảo
tàng Cách mạng và nhất thiết khơng thể không đến thăm
quan Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Nếu các đồng chí tổ
chúc các trng học, các địa phương trong cả nưổc và bạn

bè quốc tế đến đây thăm quan, nghiên cứu, ngưòi ta mổi hiểu
ra đuờc tính đồn kết cộng đồng, tình cảm của các dân tộc
Việt Nam gắn bó vỏi nhau; đồng bào ta sẽ hiểu chính mình
hdn và tự vươn lên bằng ý thức tự lực, tự cưòng xây dựng đất
nưỏc Việt Nam trong một quan hệ cộng đồng cực kỳ tuyệt
vòi này.
Mấy năm qua Bảo tàng Dân tộc học đã rất cố gắng sưu tầm
đưộc nhiều hiện vật văn hoá quý giá và tổ chức trưng bày. Tơi
nghĩ cịn nhiều việc phải làm, trưỏc hết làm những việc ngay
chính trong tồ nhà này, khuôn viên này. Trưng bày nhu thế
nào? Tôi vừa xem câc phần trưng bày của Bảo tàng và tháy còn
chua thật đầy đủ nhu sự phóng phú trong văn hố các dân tộc
ỏ các vùng miền. Để giđí thiệu về một dân tộc, chọn cái gì để
giơi thiệu, y phục hay đồ dùng hay cái gì đó đặc trung, đó là
điều cần phải có sự nghiên cứu. Chúng ta cũng cần nghiên cứu
các bảo tàng tiên tiến trên thế giỏi có nét văn hố tương đồng
vđi nưđc ta, để tham khảo về các phương diện lựa chọn, nghiên
cứu, trung bày. Tơi là ngưịi dân tộc Tày vào đây xem thấy rất

16


mùng là các hiện vật trung bày về ngưòi Tày đã được chọn đúng
cùa ngưòi Tày, thế nhung đã tiêu biểu chưa là một chuyện khác.
Ví dụ: Lễ Then đã là tiêu biểu của ngưịi Tày chưa, nét văn
hố đặc trung, độc đáo của ngưịi Tày là gì? Bỏi vì khi đến đây
thăm quan trưng bày về ngưòi Tày, ngưòi ta cần thấy được nét
vãn hoá đặc trưng của dân tộc Tày. Do vậy, tơi nghĩ phải có sự
lựa chọn, nghiên cứu kỹ lưõng. Tôi nghĩ cái mà các đồng chí
chọn là đúng rồi đấy, nhưng mà chưa đủ, và cái đó đã thực sự

tiêu biểu chưa cũng cịn là một vấn đề. Đây là Bảo tàng Dân
tộc học, theo tơi nó cịn ý nghĩa rộng hơn, khơng chỉ về văn
hố các dân tộc, mà cịn liên quan cả đến truyền thống, lịch sử
v.v... của các dân tộc.
Ỏ đây không chỉ phục vụ cho thăm quan, nghiên cứu, mà
có thể nghiên cứu sinh cũng đến tìm các đề tài và tư liệu làm
luận án - ví dụ như thế. Cơng việc ỏ Bảo tàng cực kỳ có ý nghĩa,
tơi cho là lý tưởng.
Tôi cũng tán thưỏng cái không gian kiến trúc của Bảo tàng.
Đến đây nguòi ta cảm nhận được mình đang bưổc lên cầu thang
nhà sàn. Bảo tàng lấy biểu tượng là trống đồng là đúng rồi.
Nhưng ỏ trong nhà nên trưng bày như thế nào, phần ngồi trịi
trung bày theo một ý tưởng thế nào. Giữa không gian ngồi trịi
vối tồ nhà Bảo tàng này cần được quy hoạch hài hoà. Nên
chăng thể hiện thu nhỏ tất cả các vùng miền, để ai đến đây
cũng có cảm giác dân tộc mình, vùng mình có mặt ỏ đây. Điều
này là một ý tưỏng hay. Tôi cũng rất tán thành ý tưỏng mở rộng
trung bày. Ví dụ: chủ đề trưng bày "Nét tương đồng văn hố"
là có ý nghĩa, nó thể hiện chủ trương của chúng ta. Theo tôi
mối quan hệ tương đồng văn hố góp phần tăng cưịng mở rộng
quan hệ, hội nhập vỏi các nưỏc trong khu vực và thế giỏi, khách

17


quốc tế đến đây vùa thấy sự tương đồng vừa vẫn nhận ra đưọc
bản sắc văn hoá của Việt Nam. Các đồng chí cần tìm mọi cách,
trong hồn cảnh vốn thì có hạn, điều kiện và khả năng cùa
chúng ta còn chưa đầy đủ, bàng sự nỗ lực, bàng nhiều hình thức,
có thể vừa huy động trong nưỏc như thế nào đó, vừa tranh thủ

các nguồn tài trọ vốn của nưỏc ngồi, để phát triển Bảo tàng.
Tơi nghĩ có đàu tư cái gì vào đây cũng là của đất nuốc Việt
Nam chúng ta thôi. Đây là giổi thiệu về con ngưòi Việt Nam
và là cho nưổc ta đẹp lên thêm. Tơi dùng hình tượng như thế
này: trong vưịn hoa đẹp bao giị cũng có rất nhiều màu sác sặc
sõ - Tổ quốc ta, đất nưỏc ta chính là vn hoa đẹp. Đây phải
là nơi, là chỗ thể hiện các hình ảnh thu nhỏ nét đẹp, nét đặc
sắc văn hoá của các dân tộc Việt Nam. Tôi mong rằng chúng
ta tiếp tục suy nghĩ để Bảo tàng này của chúng ta xứng đáng
vỏi tầm vóc đất nưỏc. Đạt tỏi quy mơ như vậy, Bảo tàng trỏ
thành nơi thu hút, cổ vũ, cũng là noi để tát cả đến dầy nhu trở
về nguồn. Chỉ một noi đây, Tổ quốc chúng ta đuộc thu nhỏ lại
và mang ý nghĩa giáo dục lỏn. Hôm nay đến thăm và làm việc
vỏi các đồng chí, tơi mong rằng các nhà khoa học, các nhà bảo
tàng học hết sức cố gắng nghiên cứu sâu, trung bày từng bưổc
một, trung bày những gì đặc trưng nhất, tiêu biểu nhất, nhưng
khồng phải chỉ trưng bày cố định, mà thường xuyên cần thay
đổi cho phong phú nội dung trung bày, khơng chỉ trưng bày
về q khứ mà cịn đề cập cả hiện tại và thậm chí cả vién
cảnh trong tương lai để thấy đất nưỏc ta đi lên. Làm được
như vậy thì Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam mới thể hiện
được hết ý nghĩa cao q của mình, v ỏ i tinh thần như vậy,
tơi chúc các đồng chí đã cố gắng thì cố gắng hơn nữa, đồn
kết vỏi nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng và Nhà nưổc đã
giao phó!

18


Mật khác, đến đây nghe các đồng chí giđi thiệu bằng tiếng

Kinh, tôi không hiểu được là bao, bởi tôi là ngưòi Tày. Vậy
khách thăm quan là ngưòi dân tộc thiéu số thì sao? Ngi ta
đuộc thấy trang phục, mầu sắc của dân tộc mình, nhưng ngưịi
thuyết minh có biết nói tiếng dân tộc mình khơng - Đây cũng
là điều đáng suy nghĩ. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam phải
chăm ỉo sao cho từ cán bộ nghiên cứu, cả cán bộ chủ chốt, đến
ngưòi giỏi thiệu đều biết tiếng dân tộc, dù ít hay nhiều. Ví dụ
khi giới thiệu các dân tộc nhóm ngơn ngữ Tày - Thái, nếu biết
nói tiếng Tày hay tiếng Thái hoặc mang trang phục của các dân
tộc này thì sẽ tăng phần hấp dẫn đối vổi khách thăm quan, nhất
là khách nước ngoài, và nên có thêm phàn biểu diễn văn nghệ
kèm theo, có bán hàng lưu niệm, bán những đồ thủ công của
các dân tộc, các cuốn sách nhỏ giỏi thiệu về các dân tộc, về sản
phẩm thủ cơng v.v... Đó cũng là hình thức giỏi thiệu, dịch vụ.
Nếu riêng Bảo tàng khơng làm được thì có thể phối hộp vỏi
một số Bảo tàng khác, để cho khách nưổc ngoài đến Bảo tàng
cỗ tặng phẩm để mua. Rồi các vị nguyên thủ quốc gia đến thăm
quan có thể tặng một vật gì đó làm kỷ niệm cho Bảo tàng. Vậy
Bào tàng nên có phần trưng bày các hiện vật đó. Sẽ là rất hay
nếu có cả trung bày giối thiệu những hình ảnh về các vị Tổng
thống các nưỏc đến thăm Bảo tàng. Nhân hôm nay đến thăm
Bảo tàng, tôi rất hoan nghênh kết quả phấn đấu và những ý
tưỏng làm việc của các đồng chí. Mong ràng các đồng chí sẽ
làm tốt hdn, hay hơn. Tơi cũng có ý kiến chỉ đạo đối vổi Thành
phố Hà Nội về vấn đề quy hoạch xung quanh Bảo tàng, làm
sao cho phù họp với yêu cầu về cảnh quan mơi trưịng của Bảo
tàng. Hà Nội cần biết: Việc này không phải là làm riêng cho
Bào tàng, mà làm cho Hà Nội, cho Tổ quốc Việt Nam. Tôi xin

19



chúc các đồng chí dồi dào sức khoẻ, hạch phúc, năm mối đạt
nhiều thành tích mỏi, và trong cơng việc các đồng chí từng năm,
từng nãm một làm tốt hơn nữa, thu hút nhiều hơn nữa đồng
bào trong cả nưổc và khách quốc tế đến thăm để hiểu về đất
nuổc Việt Nam chúng ta hơn, mà đó cũng là niềm tự hào của
chúng ta. Chúc các đồng chí thành cơng!

20


BÀI PHÁT Biểu CỦA c ố VAN Đỗ Mưòl
TRONG CHUYÊN THĂM VÀ LÀM VIỆC
TẠI BÁO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM








NGÀY 12-9-1999

Trưổc hết, tôi rất lấy làm vui mừng được đến thăm Bảo tàng
của các đồng chí. Tơi đã đi thăm nhiều nưỏc thấy Bảo tàng của
ngưịi ta đàng hồng lắm, to đẹp lắm. Còn Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam của chúng ta chỉ có 3,3 ha đất, nếu thêm phần
trưng bày về các dân tộc ỏ các nưổc ASEAN nữa là 4 ha thì

vẫn cịn chật hẹp lắm. Mặc dù quỹ đất của Hà Nội rất hiếm
nhưng cũng phải tính tốn như thế nào đó để có thể mỏ rộng
khuôn viên của Bảo tàng hơn nữa.
Nếu Bảo tàng ta làm đưộc tốt, phát triển thành một "quy
trình cơng nghệ" hồn chỉnh giổi thiệu các giá trị văn hố của
54 dân tộc của nưốc ta và các dân tộc ỏ các nưỏc ASEAN và
khu vực thì sẽ hấp dẫn hơn, thu hút nhiều khách tham quan
hon, nhất là trong những ngày nghỉ, ngày lể. Đồng bào cả nưốc
đến thăm nhà sàn Bác Hồ, lăng Bác, Bảo tàng Hồ Chí Minh
và có thể đến thăm Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ln.
Khách nưỏc ngồi, trưốc hết là khách từ các nưổc ASEAN đến
thăm Bảo tàng khơng những có dịp tìm hiểu về các dân tộc
Việt Nam mà cả các dân tộc của họ. Muốn vậy chúng ta phải

21


hiểu được đồng bào các dân tộc cũng như khách tham quan
nưỏc ngoài suy nghĩ như thế nào? Họ cần gì? Muốn gì ỏ Bảo
tàng chúng ta?
Trưng bày của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam phải thể
hiện cho được tư tưỏng lỏn của ông cha ta, tư tuỏng Hồ Chí
Minh cũng như thể hiện tư tưỏng, tình cảm, nguyện vọng của
đồng bào các dân tộc. Đó là tư tưởng đồn kết, thống nhất.
Chính nhị những tư tưởng này mà chúng ta đã đánh thắng nhiều
kẻ thù xâm lưộc, xây dựng đất nưỏc, gìn giữ và phát triển nền
văn hố của các dân tộc. Ngay kiến trúc của nhà Bảo tàng cũng
phải có hồn, phải thể hiện được cái "hồn thiêng sơng núi", cái
"linh khí" của dân tộc ta, phải làm sao đến ngàn đòi sau vẫn
còn nguyên giá trị như nhiều cơng trình mà các cụ đã để lại

cho chúng ta.
Để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình Bảo tàng này phải
huy động được sức lực và trí tuệ của cả 54 dân tộc. Nhà nưỏc
chỉ hố trộ một phần còn các tỉnh, các địa phương, đồng bào
các dân tộc phải đóng góp thêm. Phải lên danh sách cụ thể tỉnh
nào góp thứ gì? Thơng qua việc đóng góp hiện vật cho Bảo
tàng để giáo dục ý thức chính trị, nâng cao nhận thức tu tưỏng
cho đồng bào, để mỗi dân tộc hiểu được họ là thành viên của
đại gia đình các dân tộc Việt Nam, để các dân tộc đồn kết,
gắn bó vói nhau hơn.
Cuối cùng chúc các đồng chí mạnh khoẻ, hồn thành xuất
sác nhiệm vụ của Đảng và Nhà nưốc giao phó.
Xin cảm on các đồng chí.

22


BÀI PHÁT BIỂU
CỦA ĐỒNG CHÍ NGUYỄN PHÚ TRỌNG UỶ VIÊN BAN CHÍNH TRỊ BAN CHAP

hành trung

ƯƠNG ĐẢNG NHÂN CHUYÊN THĂM VÀ LÀM VIỆC
TẠI BẨO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM 15-6-1999


I




I

Hơm nay, tơi rất vui mừng được đến tham quan và học hỏi
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, một Bảo tàng có vị trí
quan trọng trong hệ thống Bảo tàng cùa cả nưỏc. Tôi nghĩ Bảo
tàng của chúng ta đầy hấp dẫn và lý thú. Các trung bày cho
thấy, dân tộc nào cũng có cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc, thể hiện
trên từng bức vẽ, từng hoa văn trang trí trên y phục, trên gùi,
ống điếu, gậy chọc lỗ...
Tơi đưọc biết, chỉ trong một thịi gian rất ngán các đồng chí
đã làm được một khối lượng cơng việc khá lỏn. Hiện Bảo tàng
có đến 15.000 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm
và mỏi trưng bày 700 hiện vật, như vậy, vốn của các đồng
chí cịn dài.
Tơi cũng được biết, mỗi tháng có từ 1.000 đến 5.000 khách
tham quan. Bảo tàng mỏi mở cửa vài năm nay mà có được lượng
khách như vậy là rất đáng mừng. Đưong nhiên, còn nhiều việc
phải làm và các đồng chí đã có phương hưỏng, chiến luợc để
làm, tơi rất hoan nghênh.
23


Các đồng chí lãnh đạo Nhà nưổc, Quốc hội đến thăm Bảo tàng
đã có những ý kiến đóng góp quan trọng có tính chất chỉ đạo.
Tơi chỉ xin gội ý thêm một số vấn đề các đồng chí tham khảo.
1. Phải bám sát Nghị quyết TW 5, tức là quán triệt vấn đề
xây dựng một nền văn hoá Việt Nam thống nhất và đa dạng.
Nưốc ta có 54 dân tộc. Phải làm sao thể hiện một cách sinh
động nhất sự đa dạng, phong phú, đặc sấc của mỗi dân tộc,
nhưng truỏc hết cần cho tháy cái chung của cộng đồng các dân

tộc Việt Nam. Bảo tàng chúng ta đã có phần giỏi thiệu khái
quát các giai đoạn từ thòi vua Hùng dựng nưóc đến Bác Hồ
đọc Tun ngơn độc lập. Nhưng cần bổ sung thêm như thế nào
đấy để hình dung đầy đủ hơn cái thống nhất và từ đó đi sâu
vào cái đa dạng.
2. Bảo tàng không phải "tĩnh" mà là "động". Trưng bày của
Bảo tàng phải thể hiện được quá trình phát triển của các dân
tộc. Tức là thể hiện sự thống nhất và đa dạng trong sự vận
động, phát triển của từng dân tộc. Bảo tàng của chúng ta mai
đây phải trỏ thành khu văn hoá, khu du lịch, có thể tự mình
ni mình. Nhiều nưỏc đã làm Bảo tàng ngồi trịi. Vốn bỏ ra
chi vài năm sau đã thu hồi được. Ỏ khu Cẩm Trì (Trung Quốc)
có cả chùa Một Cột, tháp Effel, Thiên An Mơn... thu nhỏ. Ta
khơng có điều kiện làm quy mơ như thế, nhưng có thể chọn
làm những cái đặc sác của từng dân tộc, từng tình như cọn nước
hay nhà ỏ của một sổ dân tộc. Bảo tàng còn là noi để học tập,
giáo dục truyền thống. Vì thế, phải kết hợp phần trong nhà và
ngồi trịi, tĩnh và động, cố định và di động, thường xuyên và
chuyên đề. Năm 2000 sẽ có một loạt ngày kỷ niệm lỏn như 70
năm ngày thành lập Đảng, 25 năm ngày giải phóng miền Nam,
55 năm thành lập nước, 110 năm ngày sinh Bác Hồ... Bảo tàng
có thể có những trung bày chuyên đề gán vổi các ngày kỷ niệm đó.
24


3. Việc nghiên cứu không phải để nghiên cúu, sưu tàm
không phải để cho vào kho. Bảo tàng phải đến được vỏi công
chúng, để tuyên truyền, giáo dục quàn chúng nhân dân và phải
có những phương pháp tuyên truyền, giáo dục tốt hơn. Phải mỏ
ra rất nhiều hoạt động khác nhau: tổ chúc hội thảo, sinh hoạt

văn hoá, văn nghệ, ... để thu hút khách tham quan. Tơi đã có
lần làm việc vỏi ngành giáo dục, yêu cầu cho học sinh đi thăm
các bảo tàng. Mục đích cuối cùng của các hoạt động bảo tàng
là đến được vỏi ngưòi xem và phải mang tính giáo dục cao. Dù
có hiện vật phong phú đến mấy nhưng bày ra để đấy, chẳng ai
đến xem, đến học tập thì chẳng có tác dụng gì.
4. Hiện vật trưng bày phải được bổ sung thêm. Tơi thấy cần
chọn lọc, sắp xếp có hệ thống và có cách giỏi thiệu sinh động
hơn. Bảo tàng ỏ Singapor cũng giỏi thiệu các dân tộc của họ
nhưng chủ yếu là ngưòi Hoa. Họ làm hấp dẫn, sinh động, lý thú
lấm. Chẳng hạn, giỏi thiệu tục thị cúng thì dựng bàn thị, có
cả ngưịi đang lễ bái giống như thật, lại dùng kỹ thuật điện tử
nữa, trông rất sinh động. Giổi thiệu đám ma, đám cưỏi, chỗ để
ăn cơm cũng thế. Đi m ệt thì ngồi nghỉ xem video, muốn xem
phim về dân tộc nào cũng có. Chẳng càn nói bàng lịi, chỉ
thơng qua hiện vật, hình ảnh ngưịi xem cũng có thể hiểu được
nội dung.
5. Phải hợp tác, sử dụng lực lường cộng tác viên ở các địa
phương. Phối hộp vối Văn phòng Quốc hội huy động các tỉnh,
các huyện cùng có trách nhiệm đóng góp hiện vật cho Bảo tàng.
Tỉnh này góp nhà rơng, huyện khác góp nhà sàn, cả nưỏc cùng
góp hiện vật để xây dựng Bảo tàng chứ khơng chỉ đến trồng
cây. Các đồng chí cần đề xuất ý kiến, đứng ra tổ chức, vận động,
chúng tôi sẽ ủng hộ.

25


6. Phải làm sao giữ được mơi trưịng cảnh quan. Bảo tàng
có khn viên rộng, lại gần hồ, gần cơng viên, gần làng quốc

tế đang xây dựng. Bảo tàng phải là khu văn hoá, khu du lịch,
phục vụ tham quan, vui chơi, giải trí, hội thảo khoa học, hộp
tác vỏi nưốc ngồi...
7. Bảo tàng mối có hon 50 cán bộ và lao động hợp đồng,
như thế cịn ít. Phải bổ sung thêm biên chế, tất nhiên, thêm cả
nhũng nguòi làm hộp đồng nữa. Phải đào tạo cán bộ, cả về bảo
tàng học và dân tộc học. Nếu có được một số cán bộ dân tộc
thiểu số thì rất quý. Phải cử cán bộ đi tham quan ỏ một số nưổc
để mị rộng tầm nhìn, học cách làm của họ.
Muốn làm được như các nưỏc xung quanh đương nhiên còn
phải làm lâu dài và phải có tiền. Phải có sự giúp đõ của Nhà
nưổc, các cơ quan có trách nhiệm và các địa phưong. Nhưng
cái chính là phải đi lên từ nội lực, bù đắp kinh phí bằng cách
phục vụ tham quan, du lịch, mỏ cửa hàng ăn, cho thuê địa
điểm... Tơi mong các đồng chí đồn kết, phấn đấu làm tốt hơn
nữa trách nhiệm của mình. Cuối cùng xin cảm ơn và chúc sức
khoẻ các đồng chí.

26


×