Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

ÔN LUYỆN TÂY TIẾN Quang Dũng chi tiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.44 KB, 23 trang )

TÂY TIẾN- QUANG DŨNG
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tác giả Quang Dũng (1921-1988)
- Con người: nghệ sĩ đa tài (vẽ tranh,sáng tác nhạc, viết văn, làm thơ), lĩnh vực nghệ thuật
thành công nhất và làm nên tên tuổi Quang Dũng là thơ.
- Đặc điểm thơ:
+ Hồn nhiên, tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa phóng khống, đậm chất lãng mạn.
+ Giàu chất hoạ, chất nhạc, cách sử dụng ngơn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu rất tài hoa.
- Vị trí: là một trong những nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam thờ kỳ kháng chiến chống
Pháp.
2. Tác phẩm Tây Tiến
-Đề tài: Hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp
Có những bức tượng đài đã trở thành bất tử trong văn học viết về người lính: nữ anh hùng
thủa bà Trưng, bà Triệu “ cưỡi voi xông trận”, người nghệ sĩ với “ manh áo vải, ngọn tầm vông”
trong văn Nguyễn Đình Chiểu, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ- Quang Trung… nhưng có
1 bức tượng đài đẹp như huyền thoại trong văn học là hình tượng người lính trong kháng chiến
chống Pháp. Chắc hẳn chúng ta đã biết người nông dân vác súng lên đường đi chiến đấu trong
bài “ Nhớ” của Hồng Nguyên. Người đồng đội thắm thiết ân tình trong “ Đồng chí” của Chính
Hữu… Một mảnh đất thân quen của văn học đã bao người cày xới. Đã bao cây đại thụ trưởng
thành từ mảnh đất này. Đó là thử thách khơng hề nhỏ đối với người cầm bút có ý định viết về
mảng đề tài người lính. Nhưng khó khăn càng lớn càng thơi thúc và đánh thức tài năng. Quang
Dũng đã không hề ngần ngại khi lách bút vào kẽ hở của đề tài này và ươm 1 hạt mầm đủ sức
vươn cao, trường tồn, bất tử cùng thời gian. “Tây Tiến” là một minh chứng hùng hồn khẳng
định lao đông NT đầy trách nhiệm, ý thức và tình yêu của QD.

1


- Vị trí của tác phẩm: Là một trong những bài thơ hay nhất viết về hình tượng người chiến sĩ
trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói riêng và thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung; tác phẩm
xuất sắc của đời thơ Quang Dũng, là viên ngọc toàn bích của thơ ca kháng chiến.


- Hồn cảnh sáng tác: Bài thơ được khơi nguồn cảm hứng từ nỗi nhớ đoàn quân Tây Tiến.
Cuối năm 1948, khi Quang Dũng đã rời binh đoàn Tây Tiến đi nhận nhiệm vụ khác, nỗi nhớ
đồng đội, nhớ đơn vị cũ trào dâng mãnh liệt. Bài thơ là tiếng lòng chân thành, tha thiết của
Quang Dũng với mảnh đất miền Tây, với binh đoàn Tây Tiến.
(Đặc điểm của binh đoàn TT:
- Thành phần: Đoàn quân TT được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những
chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch: Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng/
Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng
lắm mơ. Đây là điểm khác biệt rõ nét làm nên chất lãng mạn và trữ tình cho bài thơ cũng như
hình tượng người lính trong thơ QD. (so sánh với hình tượng người lính trong bài Đồng Chí của
Chính Hữu)
- Tinh thần: Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Một lí tưởng sáng ngời chân lí của thế hệ thanh niên thời đại
Hồ Chí Minh.
- Địa bàn hoạt động: Một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu- Hịa Bình cho đến tận Thanh
Hóa, kéo sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ
quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.
- Nhiệm vụ: Chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ
đội Pa-thét Lào đánh tiêu hao sinh lực địch.
- Cuộc sống chiến đấu: Vơ cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ. Điều kiện thiên nhiên khắc
nghiệt. Chính vì thế mà những người kính TT hi sinh vì mũi tên hịn đạn thì ít mà vì ốm đau,
bệnh tật thì nhiều. Chính vì vậy chỉ sau một năm chiến đấu, binh đồn TT đã hi sinh rất nhiều,
đại đội trưởng QD được chuyển sang một đơn vị khác và TT sát nhập vào Trung đồn 52. Một
lần, ngồi tại dịng sơng Đáy hiền hịa thuộc tỉnh Hà Đơng cũ kỉ niệm, kí ức về những tháng năm

2


gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. TT được viết lên trong nỗi nhớ trào
dâng, da diết QD gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu)

-Nhan đề và xuất xứ:
+ Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến .Với nhan đề này bài thơ sẽ mang vẻ đẹp giản dị mà
nói được cảm xúc chủ đạo của thi phẩm là nỗi nhớ nhưng lại không làm nổi bật được hình
tượng trung tâm của bài thơ.
+ Nhưng có lẽ sau này QD hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, khơng nói nhớ mà nỗi nhớ cứ
như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ. Đấy mới là cái tài hoa của
người nghệ sĩ. Nhà thơ đã bỏ đi chữ” nhớ” – Chỉ để lại hai chữ quan trọng nhất “ Tây Tiến”.
Nỗi nhớ lặn xuống bề sâu trong tâm hồn, gợi nhắc cho người đọc về trang sử đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp; nhớ đồng đội, nhớ một thời máu lửa của dân tộc, một thời bừng cháy
khát vọng cống hiến “ khi tổ quốc cần” của cả một thế hệ.
Bài thơ in trong tập Mây đầu ô (1986).
- Giá trị nội dung:
+ Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc Tổ quốc vừa tráng lệ, hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ, bí ẩn mà
lãng mạn, nên thơ, trữ tình.
+Khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp của người lính Tây Tiến hào hùng,hào hoa.
Hào hùng trong chiến đấu, khi đối diện với thiên nhiên khắc nghiệt, ở lí tưởng sống.
Hào hoa trong tâm hồn, trong tình yêu, nỗi nhớ.
+ Tình cảm sâu nặng, tha thiết của tác giả với thiên nhiên, con người Tây Bắc và đặc biệt là với
đồng đội cũ.Nguồn tình cảm ấy chính là cái tâm, cội nguồn để cái tài nghệ sĩ bay bổng, thăng
hoa.
- Giá trị nghệ thuật:
+ Thể thơ bảy chữ khỏe khoắn mang giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành.

3


+Bút pháp:Xuyên suốt bài thơ, từng đoạn thơ là sự đan xen bút pháp hiện thực và lãng mạn.Tuy
nhiên, bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng là đậm nét và sâu sắc hơn.
+ Hình ảnh :Hệ thống hình ảnh trong bài thơ rất phong phú. Tuy nhên, có thể quy về hai hệ
thống chính: thiên nhiên và con người. Thiên nhiên cũng mang hai sắc thái: dữ dội, lãng mạn.

Con người:hào hùng và hào hoa.
+ Ngôn ngữ giàu chất tạo hình và giàu tính nhạc với âm điệu, nhịp thơ biến hóa linh hoạt từ, từ
Hán Việt gợi lên âm hưởng cổ kính.
II. PHÂN TÍCH
ĐOẠN 1:Thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, hiểm trở vừa lãng mạn,nên thơ, trữ tình. Bức
phơng nền làm nổi bật hình ảnh đồn quân Tây Tiến trên con đường đầy gian nan
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
1. Hai câu đầu: Cảm xúc chủ đạo, bao trùm là nỗi nhớ.
- Câu thơ mở đầu vang lên như 1 tiếng gọi thiết tha: “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
+ Sông Mã là linh hồn của núi rừng Tây Bắc, là nhân chứng lịch sử chứng kiến bao thăng trầm,
vui buồn của người lính Tây Tiến. Vì thế tiếng gọi sông Mã là tiếng gọi vọng về q khứ. Từ
đó, những kỉ niệm về Tây Tiến khơng thể quên, về thiên nhiên, con người miền Tây ào ạt chảy
về.
+ Tiếng gọi Tây Tiến bật lên thân thương, trìu mến, da diết biết bao. Tây Tiến là danh từ chung
chỉ đoàn quân TT nhưng khi QD cất tiếng gọi “ TT ơi” thì người đọc lại có cảm giác như tác giả
đang gọi 1 người bạn thân, tri âm, tri kỉ.
->Câu thơ có 7 chữ mà có 4 chữ là tên riêng, đó cũng là nơi gửi, chốn về của nỗi nhớ: Vùng đất
miền Tây và con sông Mã đã trở thành biểu tượng mà mỗi lần người ta nhắc đến mảnh đất nơi
chiến trường chiến đấu oanh liệt khiến bao thế hệ của TQ nhìn lại ngậm ngùi.

4


- Câu 2: Điệp từ “ nhớ” diễn tả nỗi nhớ mênh mơng, da diết cứ ùa về, cuộn xốy trong lòng nhà
thơ. Nỗi nhớ hướng về rừng núi Tây Bắc gắn liền với đó là cảm giác chơi vơi. Để diễn tả nỗi
nhớ, người ta có thể sử dụng hàng loạt các bổ ngữ: da diết, cồn cào, cháy bỏng, nồng nàn…
Nhưng QD lại không chọn những từ quen thuộc. Lọc trong hàng ngàn tấn quặng ngôn ngữ để
chắt lọc được một ngơn từ trong thơ đó là việc của những bậc thi thánh. QD khi viết nhớ chơi

vơi liệu ơng có nghĩ đến những câu ca dao quen thuộc: “ Ra về nhớ bạn chơi vơi/ nhớ chiếu
bạn trải/ nhớ chăn bạn nằm”. Hay Xuân Diệu cũng từng viết “ Tương tư nâng lòng lên chơi
vơi”. Phải chăng đó cũng ngầm chứa sự so sánh: Nỗi nhớ dành cho đồng đội thân yêu cũng da
diết, cháy bỏng như nỗi nhớ, nỗi tương tư của trai gái trong tình u. Từ láy chơi vơi cịn có tính
chất gợi hình. Nỗi nhớ ấy khơng có hình khối, khơng thể cân đo, đong đếm nhưng biết rằng nỗi
nhớ ấy cứ dâng lên, đầy lên , từ lòng người mà cứ lan thấm, lan tỏa ra bao trùm không gian núi
rừng mênh mông.
2. Sáu câu thơ tiếp: TN miền Tây qua chặng đường hành quân của những người lính
*Hai câu thơ đầu
QD đã đưa người đọc đến với những vùng đất xa xôi, hẻo lánh của miền biên cương tổ quốc
qua các địa danh nghe lạ lẫm đến vô cùng. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa
về trong đêm hơi
-Núi rừng Sài Khao sương mù bao phủ trắng trời, như nhấn chìm, khuất lấp cả đồn qn. Câu
thơ có tới 5 thanh bằng nhưng sức nặng dồn hết vào 2 thanh T “ lấp”, “ mỏi”. Sương khói là đặc trưng
của núi rừng . Sau này Tố Hữu đã từng viết trong Việt Bắc: “ Nhớ từng bản khói cùng sương/ Sớm
khuya bếp lửa người thương đi về”. Chế Lan Viên cũng từng tha thiết trong “ Tiếng hát con tàu” : “
Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ/ Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”. Sương khói trong
thơ Tố Hữu, thơ Chế Lan Viên thật thơ mộng, lãng mạn.Với người lính TT sương khói là thử thách.
Sương lấp trước hết là điều giúp họ hiểu thế nào là sự nhọc mệt của chặng đường hành quân . Đó cũng

là sự khắc nghiệt của thiên nhiên làm tăng thêm sự khó khăn, gian khổ cho đồn qn TT trong
quá trình chiến đấu.Thế nên mới dẫn đến hệ quả tất yếu “ đoàn quân mỏi”. Nếu chỉ dừng lại ở
câu thơ này thì có lẽ cảm xúc lắng lại là sự mệt mỏi nhọc nhằn cả về thể xác và tinh thần.
- Ngòi bút lãng mạn ở câu thơ sau đã nâng đỡ tâm hồn những người lính TT trên con đường
hành quân vất vả, gian lao. Ở Mường Lát những đóa hoa rừng đang bung nở trong đêm. Hình
5


ảnh “ hoa về” có nhiều ẩn ý. Người đọc có thể hiểu rằng những người lính TT trên chặng đường
hành quân đầy khó khăn gian khổ nhưng những chàng trai mang tâm hồn hào hoa, lãng mạn của

đất hà thành vẫn yêu đời “ ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi”. Khi đoàn quân dừng chân
nghỉ lại tại Mường Lát, quân về cũng là lúc hoa về. Đồng thời hình ảnh “ hoa về” cịn cho thấy
NT sử dụng ngơn ngữ tài tình của QD, đồn quân ấy là những chàng trai hào hoa, tâm hồn đẹp
và lí tưởng đang tỏa sắc lên hương như lồi hoa của núi rừng Tây Bắc. “ Hoa về” còn có thể
hiểu là khi hành quân đêm trong rừng rậm, những chàng lính trẻ đã làm những bó đuốc bằng
thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi cháy rất đượm và những tàn lửa tung bay trơng từ xa đồn
qn như một tràng hoa lửa rực rỡ đang về nơi tập kết giữa núi rừng trong làn sương mờ hư ảo.
-> Nếu câu thơ trước là nét vẽ gân guốc đầy khắc nghiệt của hiện thực thì câu thơ sau là nét vẽ
mềm mại của bút pháp lãng mạn. Đó là sức mạnh nâng đỡ tâm hồn người lính trên chặng đường
hành quân đầy gian khổ.
* Bốn câu thơ tiếp: hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở và thơ mộng trữ tình
hiện lên trong nỗi nhớ như 1 bức tranh hùng tráng
- Từ “ dốc” lặp lại hai lần, người đọc hình dung những con dốc cứ liên tiếp hiện ra trước mắt
những người lính, chúng vào hùa với nhau như muốn bẻ gãy ý chí của người lính Tây Tiến.
Bức tranh TN cịn trở nên sinh động hơn khi tác giả tô vẽ bằng những từ láy tượng hình:
+ “Khúc khuỷu”: con đường vừa dốc lại gập ghềnh, gồ ghề, gấp khúc, gẫy gập. Con đường
hành quân của những người lính Tây Tiến vốn đã gian nan giờ độ khó lại càng tăng thêm
+ “Thăm thẳm” vốn là từ độc quyền để tả độ sâu nhưng thật tài tình khi QD dùng nó để tả độ
cao của dốc núi và nó mang lại hiệu quả bất ngờ. Con dốc mà chót vót thì có lẽ người đọc cịn
nhìn thấy điểm cuối của con đường và nơi ấy là chỗ dừng chân. Nhưng để từ “ thăm thẳm” ở
cuối câu trong việc tả con dốc thì dường như cung đường ấy khơng chỉ cao mà cịn dài hun hút
không cùng, không tận, biết đâu là điểm cuối- gian nan nối tiếp gian nan.
+ Một câu thơ 7 tiếng mà có đến 5 thanh trắc khơng chỉ diễn tả con đường đi đầy gập ghềnh,
gian nan mà còn khiến người đọc như nghe rõ tiếng thở hổn hển của người lính Tây Tiến khi
theo dốc. Thế mới thấy trong thơ khơng chỉ có họa mà cịn có nhạc. Đọc câu thơ mà ngỡ nhạc
rung trong lời.
6


-Con đường hành quân còn cao tới tận mây. “ Súng ngửi trời” như 1 lần nữa khẳng định vị thế

đứng của người lính TT, họ đang đứng trên tầm cao nơi đất trời giao nhau nhưng điều kì lạ lạ
trước hiện thực ấy Quang Dũng khơng nói “ súng chạm trời” mà nói “ súng ngửi trời”. Nghệ
thuật nhân hóa như hé mở tâm hồn đang đùa vui, tếu táo, hóm hỉnh của những chàng lính trẻ
hào hoa, lãng mạn. Hình ảnh này cịn tơn thêm tư thế hiên ngang, đang làm chủ hoàn cảnh,
đứng trên đỉnh đèo cao. Con người mang tầm vóc kĩ vĩ , lớn lao. Một tư thế hiên ngang như bức
tượng đài của người lính thế kỉ XX, người lính thời đại HCM.
-Câu thơ “ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” là điểm nhấn của bức tranh TN Tây Bắc
hùng vĩ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành 2 vế tiểu đối: 1 vế nói chiều cao của núi, 1 vế nói chiều
sâu của vực thẳm. Hình ảnh khơng chỉ gợi độ cao của núi, độ sâu của vực thẳm mà còn gợi tả
những vất vả gian lao của người lính Tây Tiến trên chặng đường hành qn. Có đoạn nhìn lên
thấy cao chót vót cảm giác như đi trong mây, có đoạn nhìn xuống thấy sâu thăm thẳm. Đi lên
khó nhọc gian lao, đi xuống cheo leo, nguy hiểm. Người đọc như bị cuốn vào khơng khí lo âu
căng thẳng dõi theo bước chân người lính Tây Tiến.
- Sau ba câu thơ gân guốc, táo bạo với nhịp thơ như hơi thở dồn dập, tác giả khắc họa cái dữ dội
tột đỉnh của thiên nhiên Tây Bắc. Những thanh bằng với nhạc điệu lâng lâng, mênh mang, QD
đã thể hiện ánh mắt vơ cùng thơ mộng của người lính Tây Tiến để tìm thấy vẻ đẹp trữ tình nơi
núi rừng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
+Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt đèo cao, núi sâu. Họ tạm
dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ra xa qua không gian mịt mùng của sương rừng, mưa
núi để ngắm nhìn những ngơi nhà đang thấp thống trơi nhẹ nhàng giữa biển mưa. Câu thơ
giống như một gam màu lạnh giữa gam màu nóng trong hội họa dịu lại cả khổ thơ tạo nên một
cảm giác êm đềm.
+ Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc
ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến.
Dưới ngịi bút của Quang Dũng, dường như nó lãng mạn hơn, trữ tình hơn. Nhà thơ đầy sáng
tạo khi tả mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa khơi". Nó gợi lên một cái gì đó rất kì bí, hoang sơ
giữa chốn núi rừng, tả mưa rừng mà cho người đọc cảm giác như đang đứng trước biển khơi
7



mênh mang khác nào bậc kì tài Nguyễn Tuân đã dùng lửa để tả nước trong tùy bút Người lái đị
sơng Đà của mình.
+Hình ảnh ngơi nhà của ai đó thấp thoáng sau làn sương mù và mây núi thật hư ảo. Nó khơng
chỉ có tác dụng làm cho những người lính thấy ấm lịng khi tìm thấy cuộc sống quen thuộc nơi
núi rừng hoang sơ, hiểm trở. Mà ngôi nhà thân thương ấy còn là động lực giúp họ bước tiếp trên
con đường chiến đấu gian nan đầy hiểm nguy. Bởi: Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt /Như mẹ cha
ta như vợ như chồng /Ôi tổ quốc nếu cần ta chết /Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dịng sơng
+ Quang Dũng gợi cái xa của khơng gian để diễn tả độ cao của thế đứng con người. Người lính
Tây Tiến đứng trên cao thư thái ngắm nhìn cảnh vật bỏ lại tất cả những gian truân nguy hiểm,
quên đi những nhọc nhằn, vất vả. Những giây phút thả hồn với vẻ đẹp nơi phương xa, xứ lạ đã
thể hiện rõ nét chất lãng mạn, hào hoa của tâm hồn người lính Tây Tiến.
3. Hai câu thơ “ Anh bạn… đời” dường như chuyển mạch bất ngờ nhưng thực chất vẫn tiếp
nối ý tưởng khắc họa địa thế Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến trên con đường hành quân đầy
gian nan.
+ Hai từ “anh bạn” cất lên như muốn đùa vui, hóm hỉnh, như một cái vỗ vai nhẹ nhàng người
đồng đội thân quen của mình. Thân thiết biết nhường nào.
+Từ láy “dãi dầu”. Trong dân gian ta có câu thành ngữ “dãi nắng, dầu sương” để chỉ sự vất vả,
gian truân. QD đã rút gọn thành ngữ trong từ láy dãi dầu vừa để gom lại sự nhọc nhằn của
những chàng lính TT vừa để khắc họa cuộc sống và chiến đấu đầy khắc nghiệt. Chữ "dãi dầu"
đã lột tả được hết sự khốc liệt của chiến tranh. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên
đầu người lính nên mệt mỏi là những tất yếu.
+Thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt như vậy khiến cuộc hành qn của người lính Tây Tiên vơ
cùng gian khổ: Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời
+Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt ấy thế mà lại đuợc nói bằng giọng nhẹ nhàng, thấm
thía"…khơng bước nữa"và "gục lên súng mũ" gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Ý
+ Cụm từ ‘bỏ quên đời” trong câu thơ có nhiều cách hiểu. Cũng có thể là người lính TT, trên
chặng đường hành quân mệt mỏi, họ không đi nữa và dừng chân lại nghỉ và giấc ngủ say đến
thật nhẹ nhàng. Trong giây phút ấy người lính như gác lại, để quên những khó khăn, nhọc nhằn
8



của cuộc chiến đấu. Nhưng cũng có thể hiểu rằng các anh nằm xuống và vĩnh viễn không bao
giờ đứng dậy cùng đồng đội tiếp tục cuộc chiến đấu trường kì được nữa.
+Cái chết của các anh đựơc miêu tả nhẹ nhàng, than thản"bỏ quên đời" bởi nghệ thuật nói giảm,
nói tránh. Ba chữ:"bỏ quên đời" thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem
như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và
biết rằng:"Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi"(xưa nay chinh chiến mấy ai trở về). Họ chủ động
chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thơi. Hình ảnh về người lính anh
dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng đứng Việt Nam": Và anh chết trong khi
đang đứng bắn /Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng /Một bàn tay chưa rời báng sung/ Chân
lưng chừng nửa bước xung phong
+Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Đây là
hình ảnh vừa bi vừa hùng mang khơng khí thời đại. Họ ra đi chiến đấu với lời thề thiêng liêng:
"Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Vì thế, câu thơ khơng ảo não, bi thương bởi Quang Dũng có
cách nói đặc biệt thể hiện khí phách người lính TT. Trước vất vả, gian nan, trước mất mát hi
sinh người lính Tây Tiến vẫn ngạo nghễ, ngang tàng, hiên ngang, bất khuất.
4.2 câu thơ: Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người hé mở
một thiên nhiên miền Tây hoang sơ, bí ẩn,những hiểm nguy ẩn chứa nơi núi rừng. Người ta hay
nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà
lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào
cũng ghê rợn. Âm điệu câu thơ trầm, nặng cộng hưởng với thanh điệu các chữ “ thác”, “ hịch”,
“cọp” càng tạo âm hưởng âm u, ghê sợ. Chiều chiều, đêm đêm không chỉ là thời gian thực mà
còn là sự lặp lại đầy ám ảnh. Người đọc như rùng mình khi nghe tiếng chân cọp dữ rình rập
trong đêm, như nghe tiếng thác đổ giữa rừng già, như nghe uy hiếp tinh thần con người Với
nghệ thuật nhân hóa, sử dụng thanh điệu, âm điệu tài hoa, QD đã rất thành công khi khắc họa
TB hoang sơ, bí ẩn, đáng sợ.
+ Tâm trạng người lính Tây Tiến được hé mở qua cách nói “ cọp trêu người”. Trước sự đe dọa
ghê gớm của thiên nhiên: núi cao, vực sâu, thác gầm, cọp dữ…người lính Tây Tiến vẫn kiên
cường, ngạo nghễ. Nếu khơng có bản lĩnh kiên cường sẽ khơng thể có cách nói tếu táo, vui đùa
9



như vậy. Khung cảnh miền Tây đúng là “ lửa” để làm ngời lên “chất vàng mười” của tâm hồn
người lính Tây Tiến.
5. 2 câu cuối: Nồng ấm tình qn dân. Đoạn thơ đã khép lại bằng một cảm xúc thật ấm áp và
ngọt ngào Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em cơm nếp xơi
+Nội dung ý nghĩa của nó – đơn vị Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu, giữa mùa lúa chín, đón nhận
những bát xơi nếp thơm ngát, nghi ngút khói từ người dân Mai Châu.
+Hai câu này khác hẳn với 32 câu còn lại trong bài, khác “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”, khác
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” hay “ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”..., những câu thơ có hình
ảnh hoặc xúc cảm để gọi tên, nhận diện, bình chú..., cịn hai câu “Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai
Châu mùa em thơm nếp xơi” chỉ là những mảng ghép với nỗi nhớ/ tên trung đoàn/ bát cơm lên khói/
địa danh Mai Châu/ mùa ( chắc là lúa chín)/ em ( chắc chắn là các cơ gái Mai Châu)/ hương thơm xơi
nếp... khơng có những yếu tố ngôn từ kết nối giữa chúng!
+Haii câu thơ đã trở thành tập hợp những kí ức mơ hồ và rạo rực, xúc động và đắm say khi hai chữ Mai
Châu khơi thức nỗi nhớ nhung dâng trào mãnh liệt về bản làng, cánh đồng lúa vàng ruộm, bát xôi thơm
lừng nghi ngút khói, những ánh mắt trìu mến của mẹ, náo nức của cha, tình tứ của em... trong cuộc gặp
gỡ ân tình giữa mùa lúa chín. Với hình ảnh/ hương vị gợi ra từ bát xôi nếp đầu mùa, nhà thơ đã giúp
người đọc tái hiện được cảm giác xúc động của những chiến binh Tây Tiến, sau những chặng đường
hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao, vực sâu, giữa những tiếng chân thú dữ rình rập đầy
đe dọa..., phút dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm nếp mới thơm ngào ngạt, ấm nồng
nghi ngút khói đã đem đến cho các anh nỗi xúc động sâu xa vì tình quân dân gắn bó, vì cảm giác thanh
bình thật hiếm hoi, q giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh Tiếng gà trưa trên đường hành quân
của anh chiến sĩ trong bài thơ Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là
một kỉ niệm khó quên trong cuộc đời gian nan người lính chiến.
+ Và sự tài hoa và tình tứ của nhà thơ xứ Đồi còn đặc biệt hiện ra trong những cách hiểu về câu thơ
“Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”. Có thể hiểu “mùa" theo nghĩa đen của “mùa lúa chín”, câu thơ sẽ
gợi lại một kỉ niệm trên đường hành quân khi các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa
lúa chín, đón nhận bát xơi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của các em - những cơ gái
Mai Châu. Nhưng cũng có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn của tập hợp từ “mùa em”.

Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa táo bạo và tình tứ trong tập hợp từ “mùa em” mới mẻ khiến cho
trong ấn tượng của lính Tây Tiến, Mai Châu khơng chỉ là một địa danh gắn với kỉ niệm thơm thảo của
10


xơi nếp đầu mùa, của tình qn dân sâu nặng, Mai Châu cịn gợi nhớ tới hình ảnh những sơn nữ miền
Tây dun dáng - có người lính nào qn được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung
quanh các anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng rỡ nụ cười, tràn trề hương sắc... Chiến

tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui. Mãi là
mảnh tâm hồn của người cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong 9 năm
kháng chiến chống Pháp: Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch/ Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa
rừng /Đất Tây Bắc tháng ngàykhơng có lịch /Bữa xơi đầu cịn tỏa nhớ mùi hương (Tiếng hát
con tàu – Chế Lan Viên)
Phân tích đoạn thơ thứ hai.
Nếu như ở đoạn thơ trên, tác giả dồn khơng ít cơng sức để tái hiện Tây Bắc dữ dội, bí hiểm,
hoang sơ thì đến đoạn thơ này Tây Bắc hiện ra với một diện mạo hoàn toàn khác. Trước mắt
người đọc là một Tây Bắc với đầy ắp kỉ niệm, thơ mộng, duyên dáng. Có thể nói, cả đoạn thơ là
bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hịa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí
miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống đậm chất Đường thi: “Thi trung
hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.
1. Bốn câu thơ đầu: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấm áp tình quân dân.
-Những đêm liên hoan trong kí ức của QD được tái hiện bắt đầu bằng chữ “ bừng” và hình ảnh
“ hội đuốc hoa”.
+Chữ “ bừng” giản dị nhưng mang nhiều ý nghĩa: “Bừng lên” vừa chỉ được ánh sáng phát ra
đột ngột, bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả doanh trại đang im lìm bỗng nhiên bừng tỉnh dậy.Người
đọc hình dung một đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, đầy ánh sáng. Trong chữ “ bừng” có cả
bừng lên ánh sáng và bừng lên niềm vui. Núi rừng bản làng Tây Bắc như bừng tỉnh. Người lính
Tây Tiến như đã đem đến vùng núi hoang sơ này một sức sống mới.
Liên hệ:Nếu thực sự hòa nhập vào thế giới nghệ thuật của TP, ta sẽ nhận ra 1 điều thú vị: QD

thường khắc họa hình ảnh thiên nhiên và con người Tây Bắc trong một thời gian đêm: “ Mường
Lát hoa về trong đêm hơi”, “ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” và giờ đây là một đêm liên
hoan, một đêm hội hoa đăng với những ngọn đuốc sáng. Âm điệu thơ rộn rã, náo nức, lòng
người như cũng muốn bay lên, niềm vui không thể che giấu. Từng câu, từng chữ đều thể hiện
cái xôn xao, náo nức trong lòng người.
11


+ Hình ảnh “ hội đuốc hoa”. Nghĩa gốc: đuốc hoa là ngọn đèn thắp trong phịng đêm tân hơn,
QD đã sáng tạo thành hội đuốc hoa. Nhà thơ đã lấy sự đằm thắm trong tình u đơi lứa để ngợi
ca sự đằm thắm trong tình quân dân cá nước. Đây là xúc cảm thường gặp trong thơ ca CM. Ở
bài “Việt Bắc”, khi nhớ về quê hương CM, Tố Hữu đã viết: “ Nhớ gì như nhớ người yêu/ Trăng
lên đầu núi nắng chiều lưng nương/Nhớ từng bản khói cùng sương/ Sớm khuya bếp lửa người
thương đi về”.
-3 câu thơ tiếp theo là sự xuất hiện của các thiếu nữ Tây Bắc lộng lẫy trong những bộ xiêm y
rực rỡ như bước ra từ huyền thoại: e ấp, duyên dáng, tình tứ dưới ánh lửa đuốc lung linh, trong
những vũ điệu độc đáo của vùng cao Tây Bắc.
+Hai chữ “ kìa em” diễn ta cái nhìn ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say sưa, ngây ngất, đắm đuối của
những người lính TT giữa một vẻ đẹp mang màu sắc phương xa, xứ lạ. Khơng thấy hình ảnh
cuộc sống cũng khơng có những bước hành qn chỉ cịn lại hình ảnh những cô gái với bốn bề
là ánh sáng, âm nhạc.
+Nếu ánh sáng lung linh, rực rỡ bao nhiêu thì âm thanh rộn ràng bấy nhiêu. Người lính Tây
Tiến làm sao quên được tiếng khèn- thứ nhạc cụ độc đáo của vùng cao Tây Bắc. Hơn lúc nào
hết, người lính cảm nhận được giá trị của những phút giây được chứng kiến những man điệu kì
ảo, nó sưởi ấm tâm hồn họ, tiếp thêm sức mạng cho người lính sau những chặng đường hành
quân vất vả.
+Câu thơ cuối ngời sáng lí tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước sắc màu
lung linh của những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm bổng, trước những
điệu múa yêu kiều, duyên dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng trai Hà Thành sẽ bị hút hồn
vào đêm liên hoan văn nghệ. Đó cũng là những phút giây lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng

đường dài hành quân mệt mỏi. Nhưng khơng, có lẽ chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút
thăng hoa với nghệ thuật, cảm xúc cũng là lúc người lính sống đúng với khát khao cháy bỏng
của mình. Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ . Câu thơ có 7 chữ thì có tới 6 thanh bằng khiến nhạc
thơ rung lên nhẹ nhàng, diễn tả tâm hồn người lính bay bổng phiêu du về những miền đất xa
xôi, đến tận Viên Chăn- thủ đô nước bạn Lào để tâm hồn dệt nên những ý thơ, xây mộng thanh
bình, hướng về một ngày mai khải hoàn chiến thắng.
12


-> Khơng một câu chữ nào tả tình nhưng ta vẫn thấy xôn xao rất nhiều náo nức, yêu thương. Dù
cuộc sống với bao gian khổ, hiểm nguy song người lính vẫn vẹn nguyên một tâm hồn lãng mạn
và chất hào hoa của những chàng trai HN. Họ không chỉ biết chịu đựng vất vả, biết xả thân vì
nghĩa lớn mà còn biết tạo ra cái đẹp, thưởng thức cái đẹp.
2. Bốn câu thơ sau: Cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
*Vẻ đẹp thiên nhiên (Câu 1,2)
- Với những người lính TT, mọi miền đất họ đi qua đều thấm đẫm bao kỉ niệm. Nỗi nhớ đã gợi
về miền đất Châu Mộc, một địa danh thuộc Sơn La, nơi có cánh đồng cỏ bát ngát, mênh mơng,
có dãy Pha Lng cao ngất trời. Quang Dũng cũng như những người lính TT đã từng gắn bó với
miền đất Châu Mộc. Năm tháng trôi qua, cảnh và người miền đất xa lạ ấy trở thành miền tâm
hồn trong nỗi nhớ da diết.
-Vẻ đẹp bức tranh thơ được QD vẽ bằng những nét điển hình:
+ Thời gian: buổi chiều sương mù giăng mắc mang khơng khí huyền thoại, khơng xác định “
chiều sương ấy” khiến con người và cảnh mờ đi hư ảo như 1 bức tranh thủy mặc cổ điển gợi vẻ
đẹp tĩnh lặng, nguyên sơ của núi rừng.
Câu thơ khiến người đọc nhớ đến tứ thơ rất đỗi thi vị của Chế Lan Viên trong bài thơ “ Tiếng
hát con tàu” : “ Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ/ Nơi nao qua lịng lại chẳng u
thương”. Chỉ có điều ý thơ của Chế Lan Viên mang nỗi nhớ khái qt về bản làng, cịn hình ảnh
thơ của Quang Dũng gợi tả cụ thể những địa danh thấm đẫm kỉ niệm.
+ Không gian: cảnh sông nước mênh mang với bến bờ hoa dại đượm màu cổ tích
+Cảnh vật được đặc tả “ hồn lau nẻo bến bờ”- đó là hình ảnh ngàn lau đơi bờ phất phơ trong

gió, trong sương.
Hình ảnh hoa lau gợi nét đặc trưng của thiên nhiên vùng cao. Lau mọc khắp triền sông, vách đá.
Ngàn lau làm cho thiên nhiên TB thêm mênh mông, vắng lặng. Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc
cũng nhớ đến “ Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”.
Bằng NT nhân hóa “ hồn lau”, QD diễn tả được thần thái của cảnh vật, thiên nhiên Tây Bắc:
như có linh hồn phảng phất trong gió, trong mây và in đậm trong tâm trí người lính khơng thể
nào phai nhịa. Đúng như Chế Lan Viên đã từng viết: “ Hạnh phúc màu hoa huệ/ Nhớ nhung
màu hoa lau/Biệt li màu rách xé/Lãng quên đâu có mùa”.
13


*Nỗi nhớ con người
- Người lính TT nhớ về dáng người mờ xa trên chiếc thuyền độc mộc.Thuyền độc mộc là một
loại thuyền đặc trưng phù hợp với sông nước vùng cao, được làm từ thân một cây gỗ lớn, có
một người chèo lái. Hình ảnh “dáng người trên độc mộc” có thể là con người Tây Bắc, cũng có
thể là người lính Tây Tiến. Dù hiểu theo cách nào ý thơ cũng khắc họa vẻ đẹp của con người
mềm mại, duyên dáng mà cũng rất đỗi khỏe khoắn,hào hùng.
- Câu thơ cuối “ Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa” là một câu thơ đa nghĩa:
+ Nghĩa thực: hoa rừng trơi trên dịng nước lũ
+ Nghĩa ẩn dụ: hình ảnh thơ có sự hơ ứng với câu thơ trước “ dáng người trên độc mộc” giống
như bông hoa đong đưa trên mặt nước. Hai chữ đong đưa khiến cho ý thơ trở nên mềm mại hơn,
tình tứ hơn.
-Điệp từ “ có thấy”, “ có nhớ” như chạm khắc vào lịng người nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khơn
ngi. Người đọc hình dung bước chân người lính cứ xa dần, xa dần cà dịng hồi niệm về thiên
nhiên miền tay cũng như khép lại. Vì thế, câu thơ cuối chứa đựng đầy băn khoăn, nuối tiếc.
-> Đoạn thơ tập trung khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên và con người miền Tây. Thiên nhiên thơ
mộng, trữ tình, con người giàu bản sắc văn hóa, nặng nghĩa nặng tình. Đặt trong chỉnh thể bài
thơ, bức tranh miền Tây mang một vẻ đẹp hồn tồn khác, khơng cịn những dãy núi hiểm trở,
dữ dội, khơng cịn có những âm thanh uy hiếp tinh thần con người, chỉ cịn cảnh sắc thơ mộng,
bình yên.

-> Đoạn thơ hấp dẫn người đọc bởi ngôn ngữ giàu chất nhạc, chất họa, giàu giá trị tạo hình, hài
hòa ánh sáng, âm thanh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng “ Đọc thơ Quang Dũng
như vừa được xem tranh, được nghe nhạc. Nhã thú đó chỉ có được ở những tác phẩm VH chân
chính như Tây Tiến”.
Phân tích đoạn thơ thứ ba
1.Bốn câu thơ đầu: Chân dung người lính Tây Tiến
Bốn câu thơ đầu đưa người đọc đến với cuộc đời chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến.
QD đã tái hiện hiện thực bằng bút pháp và cảm hứng lãng mạn.
*Chân dung người lính Tây Tiến được vẽ bằng những nét vẽ phi thường, lãng mạn.
14


- Đoàn quân Tây Tiến sống và chiến đấu nơi rừng thiêng núi thẳm, sinh hoạt vơ cùng khó khăn,
gian khổ, thiếu thốn. Trong hồi ức của những đồng đội QD từ TT trở về thì đồn qn ấy đánh
trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều. “ Quân xanh màu lá “, “ khơng mọc tóc” là hậu quả của
những trận sốt rét rừng khủng khiếp.
- Hiện thực này ta đã bắt gặp hơn một lần trong những bài thơ viết về người lính. Chính Hữu đã
viết “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi…” Hay Tố Hữu
cũng viết : “ Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nếu những câu thơ trên viết về
gian khổ của người lính bằng niềm xót xa, thương cảm thì QD lại nghiêng về phía lãng mạn để
khắc họa vẻ đẹp đầy dũng khí mà kiêu hãnh của người lính. Cách nói “ khơng mọc tóc” đã biến
thế bị động thành thế chủ động, khơng thèm mọc tóc, khơng cần mọc tóc thì đúng hơn. Da
xanh màu lá chứ khơng phải xanh xao. Đó là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá rừng ngụy
trang. QD không phải kể khổ một thời, nhà thơ khắc họa hình hài tiều tụy, xanh xao để làm nổi
bật tinh thần, khí phách bên trong. Tác giả viết “ đồn binh” chứ khơng viết “ đoàn quân” khiến
câu thơ mang âm hưởng mạnh mẽ. Những người lính TT có thể tiều tụy, xanh xao dáng hình
nhưng phong thái, cốt cách có thể làm kẻ thù khiếp sợ. Với cái nhìn lãng mạn, bên trong hình
hài tiều tụy chứa đựng sức mạnh phi thường, tốt lên oai linh của chúa sơn lâm rừng thẳm.
- Liên hệ: Nếu các tráng sĩ đời Trần có vẻ đẹp “Tam qn tì hổ khí thơn ngưu”. Sức mạnh của
các tráng sĩ đời Lê là “sĩ tốt kén tay tì hổ” thì các chiến sĩ TT thời đại HCM có vẻ đẹp “dữ oai

hùm”. Đó là một dịng chảy lịch sử hào hùng của giòng giống “con rồng cháu tiên”.
->Với 14 chữ thơ, QD đã chạm khắc vào lịch sử 1 hình ảnh đồn quan mang vẻ đẹp độc đáo, vẻ
đẹp không dễ gặp trong cuộc đời cũng như trong thi ca.
* Hai câu thơ sau: vẻ đẹp của tâm hồn người lính. “…Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
-Hình ảnh “ mắt trừng” tuy có dáng vẻ anh hùng xưa cũ nhưng nói được lịng căm thù giặc chất
chứa, khơn ngi.
- Mộng và mơ của người lính hướng về hai phía khác nhau. Mộng giết giặc lập công, mơ về
HN với dáng kiều thơm. Đã có một thời những giấc mơ ấy bị xem là mộng rớt, tiểu tư sản, yếu
đuối, ủy mị. Nhưng thời gian đã trả lại cho ta vẹn nguyên giá trị của những câu thơ như thế. “
Đêm mơ HN dáng kiều thơm” là hào hoa TT, là lãng mạn, sức mạnh TT. Vậy là trong những
15


ngày tháng kháng chiến nơi núi rừng miền Tây xa thẳm cực kì gian lao, khắc nghiệt, HN với
những bóng dáng kiều thơm cứ hiện về lung linh trong những giấc mơ. Những giấc mơ chấp
chới bóng dáng kiều thơm sẽ làm cho tâm hồn người lính cân bằng, thư thái sau mỗi chặng hành
quân vất vả, giúp họ có động lực vượt qua khó khăn, gian khổ.
- Nỗi nhớ ấy cũng giúp ta hiểu hơn về người lính Tây Tiến. Ra đi chiến đấu người lính nào
chẳng nhớ về hậu phương, nhớ về những người thân yêu.
+Người lính trong “ Đồng chí” nhớ về “ Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính/ Gian nhà
khơng mặc kệ gió lung lay”. Trong bài thơ “Nhớ” - Hồng Nguyên có viết: “…Ba năm rồi gửi
lại quê hương /Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường/ Luống cầy đất đỏ/ ít nhiều người vợ trẻ
/Mịn chân bên cối gạo canh khuya…” . Đó là những nỗi nhớ mộc mạc, giản dị gắn liền với
giếng nước, gốc đa, ngơi nhà, mảnh ruộng.
+Những chàng lính TT xuất thân từ HN: trong hành trang của họ khơng thiếu những dáng kiều
thơm đẹp, quyến rũ. Có thể nói, HN và những dáng kiều thơm là địa chỉ của nỗi nhớ, là cõi đi
về trong những giấc mơ của người lính TT. Nỗi nhớ ấy là bằng chứng sống động cho chất lãng
mạn, hào hoa của những người lính vốn là trí thức.
-> Với 4 câu thơ, QD đã khắc họa nổi bật hình ảnh người lính TT hào hùng và hào hoa. Trước

đó khơng lâu, họ cịn là học sinh, SV chỉ quen với sách vở, bút mực. Hồn cảnh lịch sử đã hun
đúc, tơi luyện để họ trở thành những người anh hùng thực sự. Tuy nhiên, trong sâu thẳm tâm
hồn người anh hùng ấy vẫn là chất hào hoa, lãng mạn, mộng mơ. Hai sắc thái tương phản lại
thống nhất nên chân dung người lính TT, bản sắc TT.
2. Bốn câu tiếp: Sự hi sinh cao cả và tinh thần bi tráng của người lính TT.
- Câu thơ “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nói đến một hiện thực mà thời kì kháng chiến
người ta thường hay né tránh. Đó là cái chết, sự mất mát, hi sinh. Cho dù, sự hi sinh các anh là
cao cả, vì đất nước, vì nhân dân thì cảm giác đau buồn mất mát là điều khơng tránh khỏi. Nghệ
thuật đảo ngữ “rải rác “đặt lên đầu câu càng tô đậm ấn tượng bi thương về kết cục của cuộc đời
con người. Nếu tách riêng câu thơ ra khỏi văn bản thì ý thơ sẽ rất ảm đạm, u buồn. Người đọc
hình dung những nấm mồ nhỏ bé, vùi lấp qua loa trải suốt chiều dài biên giới. Ta chợt nhớ đến
cái chết của những tráng sĩ thuở xưa:“…Hồn tử sĩ gió ù ù thổi/ Mặt chinh phu trăng dõi dõi
soi…” (Chinh phụ ngâm- Đặng Trần Côn, Đồn Thị Điểm). Tuy nhiên, cứ mỗi khi chìm vào đau
16


thương thì cảm xúc của tác giả lại được nâng lên trên đơi cánh của lí tưởng. Vì vậy bi mà không
lụy. Câu thơ xuất hiện nhiều từ Hán Việt: “ Biên cương”, “ viễn xứ” tạo sự trang nghiêm, cổ
kính, biến những nấm mộ hoang thành mộ chí tơn nghiêm, vĩnh hằng.
-Câu “…Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…” khắc họa tư thế lên đường của người lính TT
là vì lí tưởng cao đẹp, vang lên thành lời thề sông núi, sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Hai chữ “đời xanh” chỉ tuổi thanh xuân mơn mởn tràn đầy sự sống, khơng có gì đẹp và q
bằng tuổi trẻ. Vậy mà hai chữ “ chẳng tiếc” lại ném xuống giữa dịng thơ 1 cách dứt khốt.
Người lính coi sinh mệnh của tổ quốc lớn hơn sinh mệnh của chính mình, hi sinh cả tuổi xanh
bao hoa mộng của đời mình cho đất nước, quê hương. Đây là lí tưởng của con người Việt Nam
thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Thanh Thảo đã từng tâm sự: “ Chúng tơi đi khơng tiếc đời
mình/ Tuổi hai mươi ai mà chẳng tiếc/ Nhưng nếu ai cũng tiếc tuổi hai mươi/ Thì cịn chi tổ
quốc”. Ý thơ của QD và Thanh Thảo khác nhau về giọng điệu, sắc thái nhưng gặp nhau ở tinh
thần “ nhất khứ hề, bất phục hồn” (Một đi khơng trở lại) mang chí lớn của các tráng sĩ thời
xưa.

-Câu thơ Áo bào thay chiếu anh về đất chất đầy đau thương, nói đúng và đủ cuộc sống thiếu
thốn, sự ra đi cũng hết sức thiếu thốn của người lính TT. Họ chết khơng có áo quan, khơng có
người thân đưa tiễn nơi biên ải xa xơi.
QD đã lãng mạn hóa cái chết của người lính TT với hình ảnh ước lệ áo bào thay chiếu. Đó có
thể là tấm áo đã mặc sờn mịn vì chinh chiến của người lính. Hình ảnh áo bào đã nâng người
lính TT lên bậc tráng sĩ uy nghiêm, lẫm liệt.
Vế sau của câu thơ có 3 chữ rất đắt “ anh về đất”. Đất là quê mẹ, tổ quốc vĩnh hằng. Từ “ về “
diễn tả thái độ chủ động đón nhận của người lính. Điều này đã vĩnh viễn hóa cái chết của người
lính . Họ về với đất mẹ để hóa thân vào sơng núi, sống mãi với mn đời. “ Ơi đất nước sau bốn
nghìn năm đi đâu ta cũng thấy/ Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm)
-Câu thơ cuối “ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
+ Sông Mã mở đầu bài thơ đến đây lại xuất hiện -> như một con chiến mã phi nước đại suốt dọc
bài thơ để nói cho hết niềm vui, nỗi buồn trong cõi lịng người lính.
+ Với câu thơ cuối QD thêm một lần nữa kì vĩ, bi tráng hóa cái chết của người lính, biến thành
cái chết của những nhân vật anh hùng ca. Cái chết của người lính chấn động thiên nhiên, vũ trụ.
17


Dịng sơng Mã cuồn cuộn gào thét dữ dội khúc ai ca bi tráng tiễn biệt linh hồn người lính đi vào
cõi bất tử. Đây là tiếng khóc mang tầm vóc sử thi ta đã từng gặp trong “ Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu “ Đối sơng Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng, nhìn chợ
Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”.
ĐOẠN 4:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xi”.
1. Hai câu đầu: Lí tưởng lên đường cao đẹp
- Từ ngữ: đi không hẹn ước, một chia phôi quyết tâm lên đường sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh.

- Hình ảnh đường lên thăm thẳm:
+ Con đường hành quân gập ghềnh, dữ dội, hiểm trở.
+ Con đường Cách mạng lâu dài, gian khổ, đầy thử thách.
2. Hai câu sau: Lời nguyện ước thiêng liêng
- Đại từ phiếm chỉ “ai” nhưng mang nghĩa cụ thể: những người tham gia kháng chiến nói chung
và những người trong đồn quân Tây Tiến.
- “Mùa xuân ấy”:
+ Thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến: mùa xuân năm 1947.
+ Mùa xuân của đất nước gắn liền với niềm tin chiến thắng.
- Câu thơ cuối:
+ Sự gắn bó với mảnh đất Tây Bắc.
18


+ Lời thề chung thủy với lí tưởng Cách mạng.
- Đặc sắc nghệ thuật:
+ Từ ngữ sáng tạo, giàu giá trị biểu cảm.
+ Hình ảnh giàu tính biểu tượng, đa nghĩa.
III.MỘT SỐ LƯU Ý
1.Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến
a. Vẻ đẹp hào hùng
- Vẻ đẹp của ý chí, khí phách, kiêu hùng, rất dũng cảm, can trường, bất khuất
- Biểu hiện:
+ Khi người lính phải đối mặt với những thử thách gian lao của miền Tây khắc nghiệt.
+Trong chiến đấu: kiên cường, dũng cảm, khiến kẻ thù phải khiếp sợ
+ Cái chết bi tráng và lí tưởng sống cao đẹp, ngay cả khi đối mặt với cái chết người lính vẫn
dũng cam, kiên cường.
b. Vẻ đẹp hào hoa
- Vẻ đẹp hào hoa là chất nghệ sĩ mộng mơ, lãng mạn. Một tâm hồn hào hoa sẽ giàu mộng mơ,
rất tinh tế trong việc phát hiện ra cái đẹp, đặc biệt là vẻ đẹp nơi phương xa, xứ lạ, thái độ yêu

thương trân trọng vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc đời, tình người. Đặc biệt người lính Tây
Tiến, chất hào hùng là do hoàn cảnh hun đúc nên, cịn hào hoa là bản chất vốn có của họ, bởi họ
là người Tràng An, là người của mảnh đất kinh kì ngàn năm văn hiến.
- Biểu hiện:
+ Nhạy cảm trước vẻ đẹp nơi phương xa, xứ lạ, vẻ đẹp chưa một lần nhìn thấy trong sách vở
nhà trường hay nơi phố phường đông đúc
+ Đắm say trước vẻ đẹp văn hoá, đậm đà bản sắc núi rừng của đồng bào Tây Bắc.
+ Trân trọng, cảm động với vẻ đẹp của tình người Tây Bắc
19


+ Nhớ thương da diết về Hà Nội, về những dáng kiều thơm.
2. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
a. Cảm hứng lãng mạn:
- Cảm hứng lãng mạn : là trạng thái tình cảm, cảm xúc đạt tới độ mãnh liệt, vượt thoát khỏi thực
tại đời thường, biểu hiện những khát vọng mạnh mẽ, hướng tới những vẻ đẹp trong mơ ước.
Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngơn
ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Đây là cảm hứng chủ đạo trong văn học
1945-1975 nâng đỡ con người vượt lên thử thách trong khói lửa chiến tranh để hướng tới ngày
chiến thắng.
- Biểu hiện:
+ Cái tơi trữ tình tràn dầy những cảm xúc lãng mạn xuất hiện qua nỗi nớ da diết, mãnh liệt là
cảm hứng chủ đạo bao trùm cả bài thơ.
+ Sự cảm nhận tinh tế vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc (vẻ đẹp huyền ảo,
thơ mộng của thiên nhiên; vẻ đẹp thiêng liêng huyền bí của núi rừng Tây Bắc; vẻ đẹp dun
dáng tình tứ của con người Tây Bắc.)
+ Vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa, mộng mơ trong tâm hồn người lính Tây Tiến
+ Biểu dương tinh thần bất khuất,lí tưởng sống cao đẹp của người lính Tây Tiến.
+ Sử dụng thủ pháp tương phản trong cảnh sắc thiên nhiên để nhấn mạnh sự hùng vĩ, hiểm trở,
dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc.

+ Ngơn ngữ, hình ảnh vừa giàu sức biểu cảm, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
=> Cảm hứng lãng mạn đã khiến Tây Tiến trở thành thi phẩm độc đáo của thơ ca kháng chiến
chống Pháp, làm cân bằng cho dòng thơ cách mạng mà chủ yếu nghiêng về hiện thực, nghiêng
về biểu dương vẻ đẹp anh hùng, bất khuất
- Nguyên nhân:
+ Quang Dũng là hồn thơ lãng mạn, hào hoa nên cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc
đều được cảm nhận, miêu tả từ điểm nhìn nghệ thuật trẻ trung, lãng mạn.
20


+ Bài thơ là nỗi nhớ về đồng đội Tây Tiến, phần lớn họ là thanh niên tuổi đời còn rất trẻ, những
chàng trai xếp bút nghiên theo tiếng gọi của tổ quốc. Tâm hồn họ mang vẻ đẹp hào hoa,lãng
mạn.
+ Địa bàn chiến đấu cua những người lính Tây Tiến là vùng rừng núi Tây Bắc. Đây không chỉ là
vùng đất hoang sơ, hiểm trở mà còn là xứ xở thơ mộng, trữ tình với nền văn hố lâu đời mang
bản sắc độc đáo.
b. Tinh thần bi tráng
-Tinh thần bi tráng trong văn học thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né tránh cái bi (gian
khổ, đau thương) nhưng thể hiện nó qua giọng điệu hào hùng, hùng tráng. Đề cập đến những
buồn đau mất mát với âm hưởng hào hùng, tráng lệ khiến cho tác phẩm khơng rơi vào bi luỵ mà
vẫn tốt lên vẻ đẹp mạnh mẽ, khoẻ khoắn.
- Biểu hiện:
+ Tác giả không hề né tránh những gian khổ và cả những hi sinh mất mát trên chặng đường
hành quân của người lính Tây Tiến.
+ Miêu tả mất mát đau thương mà không làm mềm lịng người đọc bởi đó là cái chết hào hùng
của những con người chiến đấu, hi sinh vì lí tưởng cao cả.
+ Sử dụng các từ Hán Việt, biện pháp nghệ thuật nhân hoá, câu hỏi tu từ khẳng định lí tưởng
cao cả của những người lính Tây Tiến
- Nguyên nhân:
+ Hiện thực chiến trường mà người lính Tây Tiến phải đối diện là những gian khổ, thiếu thốn,

cả sự ác liệt, nguy hiểm. Nhiều chiến sĩ Tây Tiến đã ngã xuống.
+Những chiến sĩ Tây Tiến là những con người có lí tưởng cao cả, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì
đất nước. Vẻ đẹp tâm hồn họ lại được đón nhận luồng gió yêu nước của một thời đại anh hùng
rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ.
c.Mối quan hệ giữa cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
- Sự gặp gỡ giữa hồn thơ của thi nhân, nhân vật trữ tình trong tác phẩm, thời đại anh hùng rực
lửa, những năm đầu kháng chiến chống Pháp và miến đất Tây Bắc là những yếu tố khách quan,
chủ quan đã hội tụ mãnh liệt trong nỗi nhớ.
21


- Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng ln gắn bó, nâng đỡ, cộng hưởng với nhau để tạo
nên linh hồn, vẻ đẹp độc đáo của Tây Tiến.
3.Vẻ đẹp nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến
a. Thế nào là vẻ đẹp NT của một TP
Vẻ đẹp NT chính là những giá trị độc đáo, nổi bật, đầy giá trị thẩm mĩ ở phương diện NT.
Những giá trị này có 2 tác dụng: làm nên sức hấp dẫn đặc biệt cho TP và khẳng định tài năng
NT của tác giá
b. KQ vẻ đẹp NT của TP
Dựa trên những đặc điểm đó có thể khẳng định : Tây Tiến là thi phẩm chứa đựng trong nó biết
bao vẻ đẹp NT. Vẻ đẹp ấy được tạo nên từ các yếu tố:
- Hài hịa bút pháp LM và cái nhìn hiện thực
- Hệ thống hình ảnh phong phú, có hồn, có thần thái
- Ngôn ngữ đa dạng, uyển chuyển đầy sáng tạo
- Giọng điệu biến đổi linh hoạt
c. Biểu hiện
* Hài hòa BP lãng mạn và cái nhìn hiện thực
- Bao trùm bài thơ và từng đoạn thơ là bút pháp lãng mạn. Việc sử dụng bút pháp lãng mạn đem
đến cho TP chất thi vị, thơ mộng, bay bổng. Tuy nhiên, viết về hiện thực chiến tranh khốc liệt
và đời sống người lính gian lao mà chỉ sử dụng riêng BP lãng mạn là khơng hợp lí, dễ rơi vào

tình huống thi vị hóa, lãng mạn hóa chiến tranh. Với sự nhạy cảm và bản lĩnh nghệ sĩ vững
vàng nên hồn thơ QD thăng hoa nhưng khơng thốt li hiện thực cuộc sống.
+ Bên cạnh 1 Tây Bắc thơ mộng lãng mạn là 1 Tây Bắc dữ dội núi cao, vực sâu, thác gầm, cọp
dữ .
+ Bên cạnh khẳng định tôn vinh vẻ đẹp hào hùng, tinh thần khí phách lẫm liệt của người lính
Tây Tiến, tác giả tái hiện đời sống sinh hoạt khó khăn, ốm đau bệnh tật và những cái chết trải
dài trên đường hành quân. Chỉ có điều QD thể hiện bằng cách nói riêng, sáng tạo riêng nên ý
thơ không bi thương, ảm đạm.
b. Hệ thống hình ảnh phong phú, có hồn, có thần thái riêng
- Hình ảnh thiên nhiên: dữ dội(dốc lên, ngàn thước) thơ mộng (Nhà ai…; Mai Châu…)
22


-> Chỉ qua 1 vài hình ảnh diện mạo thiên nhiên miền Tây đã hiện lên đúng với bản sắc của nó
- Hình ảnh con người: hào hùng( dữ oai hùm, rải rác…) hào hoa( đêm mơ..)
-> chỉ qua 1 vài hình ảnh tác giả đã lột tả được vẻ đẹp vốn có của người lính Tây Tiến.
- Hình ảnh địa danh: Thông thường khi sáng tác thơ, các tác giả ít sử dụng hình ảnh địa
danh,bởi nó chiếm giữ 1 dung lượng chữ, hạn chế thể hiện cảm xúc và ý tưởng. Tuy nhiên, 1 số
tác giả lại có tài trong việc sử dụng địa danh. Dưới bàn tay tài hoa của họ địa danh trở nên có
thần, có hồn, có ý nghĩa biểu đạt riêng của nó. Tài năng của QD thể hiện rất rõ trong BT( Pha
Luông, Mường Hịch, Mai Châu, Sài Khao…)
c. Ngôn ngữ: đa dạng, uyển chuyển, đầy sáng tạo
- Tác giả hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng các loại hình ngơn ngữ khác nhau. Chẳng hạn:
khi nói về cái chết sẽ rất bi thương, ảm đạm nếu dùng ngôn ngữ thông thường. QD đã rất chủ
động khi kết hợp những từ HV trang trọng, những điển tích, điển cố với những từ thuần Việt
giảm nhẹ sắc thái (Rải rác…; Áo bào…)
- Hệ thống các từ ngữ giàu chất HT song song tồn tại bên cạnh các từ ngữ giàu chất lãng mạn.
Bên cạnh đồn qn mỏi, dãi dầu, khơng mọc tóc, xanh màu lá…là hoa về, đêm hơi, mùa em,
có nhớ, dáng kiều thơm…
Đặc biệt có những từ là kết quả của những sáng tạo, tìm tịi riêng của QD. Nó rất mới mẻ mà có

sức mê hoặc quyến rũ lịng người: đong đưa, mưa xa khơi, mùa em, dáng kiều thơm… Thật khó
cắt nghĩa, phân tích rõ ràng ý nghĩa của những từ đó nhưng chất lãng mạn thơ mộng của TP
tăng lên rất nhiều bởi những từ ngữ như thế.
d. Giọng điệu
Bao trùm BT là cảm xúc nhớ. Tuy nhiên, ở từng đoạn thơ, cảm xúc này lại được biểu hiện
thành những giọng điệu khác nhau
Đoạn1: bồi hổi, khắc khoải. Đoạn 2: tươi vui, bâng khuâng. Đoạn 3: trang trọng, trầm lằng.
Đoạn 4 thiết tha, cảm động

23



×