ĐỘNG LỰC HÌNH THÀNH CÁC THỂ THƠ DÂN TỘC
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
LÊ NGUYỄN HẠNH NGUYÊN
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Các thể thơ dân tộc có nguồn gốc nội sinh trên nền tảng các thể loại văn học
dân gian của dân tộc, bao gồm vãn vè, lục bát, song thất lục bát và hát nói. Việc hình
thành các thể thơ này thể hiện ý thức dân tộc, tư duy sáng tạo của nhân dân và đánh
dấu bước tiến lớn cho văn học chữ Nơm và văn học dân tộc. Tìm hiểu về động lực
hình thành các thể thơ dân tộc giúp người đọc thấy được vị thế và tầm quan trọng của
các thể thơ dân tộc trong văn học trung đại và trong tiến trình văn học Việt Nam.
Từ khóa: Thể thơ dân tộc, văn học trung đại, động lực hình thành, nội sinh.
1. MỞ ĐẦU
Trong tồn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại có một vị trí đặc biệt quan
trọng. Có thể thấy nền văn học ấy đã nảy sinh từ chính q trình đấu tranh dựng nước, giữ nước
vĩ đại của dân tộc. Từ văn học trung đại, những truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình
thành, phát triển và ảnh hưởng rất rõ đến sự vận động của văn học hiện đại. Các thể thơ dân tộc
là một trong những thành tựu nổi bật của văn học trung đại. Việc hình thành các thể thơ dân tộc
có một vị trí quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc nói chung và trong văn học trung đại
nói riêng.
2. NỘI DUNG
2.1. Các thể thơ dân tộc trong văn học Việt Nam trung đại
Văn học Việt Nam cũng như văn học của nhiều nước trên thế giới bao gồm hai bộ phận là:
văn học dân gian và văn học viết.
Văn học dân gian là quá trình xây dựng và rèn giũa ngôn ngữ dân tộc, thể loại văn học
dân tộc, nâng cao năng khiếu thẩm mỹ và bồi dưỡng tâm hồn của nhân dân ta. Văn học dân
gian là một trong những thành tựu văn hóa quan trọng nhất làm cơ sở cho việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa nghệ thuật của một quốc gia, một dân tộc. Nó có tác động sâu sắc đến
nền văn học viết.
Văn học viết lại được chia thành hai giai đoạn, phụ thuộc vào thời gian ra đời và đặc điểm
của nó là văn học trung đại và văn học hiện đại. Văn học trung đại Việt Nam hình thành các
truyền thống tư tưởng và nghệ thuật quan trọng nhất, làm nên nền tảng vững chắc cho sự phát
triển phong phú của văn học dân tộc về sau.
Ở giai đoạn đầu của nền văn học viết, các tác phẩm được sáng tác với chủ đề thể hiện về
những vấn đề trọng đại của đất nước, về những tâm tư, khát vọng của con người thời đại. Ngay
từ khi mới ra đời, văn học chữ Hán được coi là văn chương cao q, là dịng chính thống. Từ lâu
người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán trong đó có thơ theo luật Đường. Trên thực
tế, trong lịch sử văn học Việt Nam đã tồn tại những tác phẩm bất hủ được viết bằng chữ Hán như
Thiên đô chiếu, bài thơ thần Nam quốc sơn hà; những bài thơ nổi tiếng như Cáo tật thị chúng,
Tụng giá hoàn kinh sư, Thuật hoài, Thiên Trường vãn vọng,... Tuy nhiên, thơ Đường luật nằm
trong khuôn khổ văn học trung đại Việt Nam đã bộc lộ những khuyết điểm trong hoạt động sáng
tác. Thơ Đường luật bát cú hay tứ tuyệt, với số câu, số chữ giới hạn, không chứa đựng nổi hiện
thực lớn lao, những tình cảm bay bổng, phóng khống, khơng diễn tả được những cảm xúc mãnh
liệt của con người trước những biến động của lịch sử. Vì thế trong quá trình vận động của thơ ca
11
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ
CYS 2016
đã diễn ra q trình Việt hóa các thể thơ Đường luật và quan trọng hơn cả là quá trình hình thành
các thể thơ dân tộc. Nhu cầu xây dựng thể loại văn học dân tộc đã bắt đầu từ sự “cách tân” thể
loại ngoại nhập đến việc sáng tạo những thể thơ mới cho thơ ca dân tộc.
Từ thế kỷ XIV, văn học chữ Nôm đã trở thành một bộ phận quan trọng trong dòng văn học
viết. Sự ra đời và phát triển của văn học chữ Nôm là một tất yếu của quá trình văn học nước ta.
Văn học chữ Nơm có thể ra đời và phát triển được trước hết chủ yếu dựa trên cơ sở của văn học
dân gian. Từ cơ sở đó đã tạo nên một trong những thành tựu của văn học trung đại về mặt thể
loại đó là xây dựng các thể thơ dân tộc.
Bài thơ lục bát sớm nhất còn được lưu trữ trong thư tịch là một bài hát cửa đình của Lê
Đức Mao (1462-1529). Trong tác phẩm Nam phong giải trào, ông Trần Danh Án cũng ghi được
một số bài hát cửa đình theo thể lục bát từ thời Lê. Sang thế kỷ thứ XVIII và XIX, lục bát đã trải
qua thời kỳ cực thịnh với những tác phẩm danh tiếng như Nhị độ mai (khơng rõ tác giả), Bích
Câu kỳ ngộ (không rõ tác giả), Hoa Tiên truyện của Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Truyện kiều
của Nguyễn Du (1765-1820), Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888). Điều đáng lưu
ý là thể lục bát cũng đã được sử dụng trong một số tác phẩm bằng Hán văn như Phụng sứ Yên
đài tổng ca (472 câu) của Nguyễn Huy Oánh (1713-1789).
Là một thể thơ đặc biệt của người Việt, song thất lục bát cùng với lục bát rất được các tác
giả ưa chuộng trong suốt thời kỳ văn học trung đại Việt Nam. Thể thơ này phát triển mạnh vào
thế kỷ XVIII cho đến tận đầu thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam đã sử
dụng thể thơ này như bản dịch Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm), Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân), Văn
tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Tự tình khúc
(Cao Bá Nhạ), bản dịch Tì bà hành (Phan Huy Thực), Khóc Dương Kh (Nguyễn Khuyến),...
Trong dịng văn chương bác học, đến cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, có sự xuất hiện
của khá nhiều bài vãn có giá trị như Lâm tuyền vãn của Phùng Khắc Khoan (1528-1613), và
Ngọa Long cương vãn và Tư Dung vãn của Đào Duy Từ (1572-1634). Bài vè đặc sắc nhất trong
văn học trung đại là Sãi vãi của Nguyễn Cư Trinh, tiêu biểu cho văn học Đàng Trong.
Hát nói là một thể thơ ca dân tộc được sinh ra từ nhu cầu của bộ môn nghệ thuật ca trù và
trở nên một thể thơ độc đáo trong nền văn học Việt Nam nói chung, văn học chữ Nơm nói riêng.
Hát nói xuất hiện sớm nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ XIX mới có những tác phẩm lưu truyền
đến nay như các tác phẩm của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh...
Các thể thơ dân tộc dù hình thành và phát triển muộn hơn, nhưng dần dần tiến lên theo quá
trình của lịch sử và đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa. Trải qua nhiều thời kỳ các thể thơ dân
tộc đã dần dần định hình. Để đạt nhiều thành tựu cho đến ngày nay, các thể thơ dân tộc đã không
ngừng vận động, củng cố, biến đổi nhiều yếu tố bên trong cấu trúc để dần dần ổn định và hoàn
thiện và sau cùng trở thành một hệ thống thể loại có vị trí quan trọng trong văn học trung đại nói
riêng và văn học Việt Nam nói chung.
2.2. Động lực hình thành các thể thơ dân tộc trong văn học Việt Nam trung đại
2.2.1. Thể hiện ý thức dân tộc
Đất nước phát triển, ý thức về dân tộc về văn hóa dân tộc càng mạnh mẽ, nhu cầu về văn tự
ghi âm tiếng Việt càng bức thiết. Tương truyền chữ Nơm có từ thế kỷ XIII, nhưng tác phẩm hiện
có thì từ thế kỷ XIV, tính từ Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông (1285 - 1308) và Vịnh
Vân Yên tự phú của Lý Đạo Tái (1254 - 1308). Chữ Nôm ra đời bắt nguồn từ ý thức của dân tộc
chống lại xu hướng Hán hóa của người phương Bắc, khẳng định tinh thần dân tộc của người
Việt. Sự hình thành và phát triển của chữ Nơm, dù nói gì chăng nữa, cũng mang đậm tính thuần
12
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016
11/2016
Việt ở chỗ nó đi lên từ địi hỏi của đời sống Việt, nó được cư dân Việt Nam chấp nhận trong nền
văn hóa của mình mà khơng cần một “sắc lệnh” nào từ giới cầm quyền. Sự hình thành và phát
triển của chữ Nôm là bước ngoặt thứ nhất trong lịch sử ngôn ngữ văn tự của người Việt và cũng
là “một bước ngoặt trong lịch sử văn hóa Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi của việc trực tiếp ghi chép
hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của bản thân người Việt” [3].
Mặc dù cịn những khiếm khuyết, chữ Nơm đã tạo nên những thành tựu rực rỡ làm phong phú
kho tàng văn hóa Việt, điều mà trước nó chữ Hán trên đất Việt khơng hề có được. Và trong
những thành tựu đó có sự ra đời của các thể thơ dân tộc.
Về mặt lịch sử xã hội, sau khi nước nhà độc lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà nước phong kiến
Việt Nam cần phải chú ý là việc xây dựng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc chống lại
âm mưu đồng hóa của kẻ thù phương Bắc và nâng cao tự hào dân tộc. Những tác phẩm chữ Hán
thời kỳ này thường dễ xa lạ với với quần chúng bình dân, tác phẩm ít được truyền tụng rộng rãi,
vì vậy càng về sau nhu cầu quần chúng hóa, dân tộc hóa tác phẩm ngày càng mạnh mẽ.
Hiện thực xã hội rộng lớn đòi hỏi sự ra đời của những thể loại văn học mới, đủ dung lượng,
khả năng nhận thức, tái hiện và lý giải cuộc sống, đáp ứng nguyện vọng của người tiếp nhận.
Muốn phản ánh chân thực và sinh động hiện thực phức tạp và đa dạng cùng với những biến động
lịch sử; muốn lý giải những vấn đề ý nghĩa thời đại đặt ra, văn học không thể dừng lại ở những
thể loại nhỏ hay thể loại vay mượn, những phương pháp biểu hiện vốn có. Nhu cầu phản ánh của
văn học xuất phát từ thực tại xã hội bắt đầu phức tạp trở thành nguyên nhân xuất hiện nhiều thể
loại mới.
Dòng thơ ca quốc âm mặc dù hình thành và phát triển muộn hơn so với dịng thơ ca chữ
Hán nhưng vì nó gắn với tiếng nói dân tộc, với cuộc sống và vận mệnh của nhân dân ta nên vẫn
cứ dần dần tiến lên theo quá trình lịch sử. Tinh thần dân tộc độc lập và dân chủ trong đấu tranh
đã khiến cho các thể thơ dân gian của ta tuy bị giai cấp phong kiến coi rẻ nhưng vẫn được quần
chúng nâng niu, do đó cứ dần dần được phát triển và nâng cao, tiến tới lấn át và thay thế từng
phần các thể thơ ca bác học có yếu tố ngoại lai.
Nếu ở thế kỷ XV, xã hội nước ta tương đối ổn định, thì đến thế kỷ XVI trở về sau, cho đến
thế kỷ XVII, XVIII lại có nhiều cuộc bạo động nông dân và nhiều cuộc xung đột giữa các tập
đồn thống trị trong giai cấp phong kiến. Trong tình hình đó, số lượng tác phẩm bằng chữ Hán so
với thời Lê sơ có giảm đi, nhưng số lượng tác phẩm bằng chữ Nôm lại tăng lên rõ rệt. Điều đó
chứng tỏ rằng tiếng nói của dân tộc và những tác phẩm viết những tác phẩm viết bằng tiếng dân
tộc, không phụ thuộc vào quy luật hưng vong của các triều đại phong kiến, mà chỉ theo quy luật
tiến triển từ thấp đến cao, phù hợp với các phong trào nông dân chống phong kiến từ quy mô nhỏ
đến quy mơ lớn. Các hình thức diễn ca lịch sử và truyện thơ bằng thể lục bát và song thất lục bát
là những hình thức đặc biệt của văn học ta, hình thành và phát triển trong tình hình nói trên, có
xu hướng lấn át các thể thơ khác.
Sự phát triển của Văn học chữ Nôm khẳng định ý thức dân tộc phát triển ngày càng cao,
biểu hiện lòng tự hào, ý thức bảo vệ ngơn ngữ, văn hóa dân tộc chống lại âm mưu đồng hóa của
kẻ thù. Các thể thơ dân tộc dù hình thành và phát triển muộn hơn nhưng dần dần tiến lên theo
quá trình của lịch sử và đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa. Việc dùng các thể thơ dân tộc để
sáng tác thơ đi sứ không chỉ làm phong phú thêm cho hệ thống thể loại của mảng thơ đi sứ mà
còn cho thấy ý thức dân tộc của người sáng tác trên con đường giao lưu, ngoại giao.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đã khẳng định rằng: “Con đường hình thành bản sắc dân
tộc của văn hóa khơng trơng cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà cịn trơng cậy vào khả
năng chiếm lĩnh khả năng đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngồi. Về mặt đó lịch sử chứng minh
là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh” (Nhìn về vốn văn hóa). Chúng ta sáng tạo chữ Nôm trên cơ sở
13
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ
CYS 2016
chữ Hán tạo nên những tác phẩm mang đậm âm hưởng Việt. Đặc biệt chúng ta sáng tạo các thể
thơ dân tộc gắn với đặc trưng riêng của dân tộc mình. Điều đó cho thấy ý thức dân tộc mạnh mẽ
của con người trung đại thể hiện trong văn học trung đại.
2.2.2. Thể hiện tư duy sáng tạo nghệ thuật của nhân dân
Trong q trình tiếp biến văn hóa, văn học người Việt đã không ngừng lựa chọn, sáng tạo
những giá trị phù hợp với tâm lý, thẩm mỹ dân tộc. Khơng những thế, cha ơng xưa cịn sáng tạo
ra những thể loại văn học thuần Việt để sử dụng sáng tác những tác phẩm văn học được đông
đảo quần chúng nhân dân đón nhận. Đó chính là các thể thơ dân tộc
Ở thời trung đại, văn chính luận mang tính chất, chức năng chủ yếu là công cụ của nhà
nước phong kiến. Mặt khác, những đặc thù trong tư duy nghệ thuật, truyền thống sáng tác dẫn
đến một thực tế là các tác phẩm văn xi hình tượng chỉ chiếm một số lượng khiêm tốn so với
các tác phẩm thơ ca. Hầu hết các nhà sư thời Lý, các văn nhân võ tướng đời Trần đều dùng chữ
Hán và các thể văn Trung Quốc để thể hiện những vấn đề trọng đại của quốc gia, để diễn tả
những rung động của tâm hồn trước non sông đất nước và cuộc sống đương thời.
Thể thơ thường sử dụng nhất trong văn học trung đại là thơ Ðường luật. Ðây là hệ quả của
q trình giao lưu văn hóa lâu dài và nằm trong quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ cổ điển.
Trong thời kỳ này, thơ Ðường luật đã được chính quy hóa trong văn chương trường ốc và văn
chương cử tử. Cho nên, sự thống trị văn đàn của thơ Ðuờng luật trong bất kỳ một tập thơ nào
thời trung đại là một điều dễ hiểu. Tuy nhiên, việc sử dụng thơ Ðường luật với tư cách là một thể
thơ chính thống trong các kỳ thi và trong sáng tác đã gây khơng ít trở ngại trong nội dung thể
hiện do bị chi phối bởi sự nghiêm ngặt của luật thơ.
Có thể nói ở giai đoạn đầu của nền văn học viết “những thể loại hồn tồn mang tính chức
năng” là trung tâm hệ thống văn học còn văn học nghệ thuật “hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của
hệ thống văn học. Dần dần theo quá trình phát triển vị trí các thể loại có sự thay đổi và văn học
nghệ thuật sẽ chuyển vào trung tâm. Sự ra đời của các thể thơ dân tộc là một trong những yếu tố
đưa văn học nghệ thuật vào trung tâm của hệ thống văn học. Các thể thơ dân tộc không gắn với
văn học chức năng (là những văn bản có tính chất quan phương, được viết với mục đích truyền
đạy u cầu thực thi các cơng việc mang tính chất nhà nước, đều mang tính quy phạm, đơn
phương một chiều) mà gắn với văn học nghệ thuật (những sáng tác có nội dung phản ánh xã hội,
cuộc sống, con người; có chức năng cơ bản là nhận thức thẩm mỹ; đa dạng, đa phương, không
giới hạn về nội dung và hình thức). Vì gắn với văn học nghệ thuật như vậy nên thể thơ có sự phá
cách, phát triển để phù hợp với nội dung phản ánh cũng như cảm hứng, tài năng của chủ thể sáng
tạo. Có thể dẫn chứng về thể thơ song thất lục bát góp mặt vào văn học viết Việt Nam từ những
năm cuối thế kỷ XVI. Đến giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII, thể thơ này bắt gặp tâm trạng của các
văn gia thi sĩ tạo nên thể loại ngâm khúc dùng hình thức thơ song thất lục bát nhanh chóng khẳng
định dấu ấn của mình trên văn đàn văn học dân tộc. Lục bát có khả năng lợi dụng cấu trúc của
mình để có thể kéo dãn bài thơ đến vơ cùng nhằm thích ứng với vai trị kể chuyện, cịn song thất
lục bát lại khai thác ưu thế của mình về các yếu tố vần, điệu, nhịp cũng như tổ hợp các dòng để
thể hiện nội dung của ngâm khúc.
Sáng tác thơ là quá trình tư duy nghệ thuật, quá trình khám phá về nội dung, cũng là quá
trình cách tân, phát minh về hình thức. Nó thể hiện khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Sự ra
đời của các thể thơ dân tộc gắn với ý chí tự cường của dân tộc, với sự trưởng thành về ý thức dân
tộc của mỗi nhà thơ. Mặt khác vì viết bằng chữ Hán nên những tác phẩm chữ Hán bị hạn chế khi
cần phản ánh hiện thực sinh động và cụ thể của đất nước Việt, tâm tư sâu sa, thầm kín của con
người Việt. Các nhà thơ cũng mong muốn có thể thơ của chính mình mà khơng phải vay mượn
14
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016
11/2016
để thể hiện tâm tư, khát vọng của dân tộc mình, nhân dân mình. Vãn vè ra đời gắn với nhu cầu
bộc bạch tâm tình của người đương thời trước cuộc sống, trước những biến cố của lịch sử, xã
hội. Lục bát được dùng để viết nên Truyện Nôm, thể loại phù hợp nhất phản ánh những vấn đề
về số phận con người mang tính xã hội rộng lớn, bức thiết. Song thất lục bát được sử dụng để
viết nên những tác phẩm thơ trữ tình trường thiên (khúc ngâm song thất lục bát) biểu đạt tâm
trạng con người trước bi kịch của cuộc đời. Hát nói lại thích hợp với sự giải thốt tâm tư của cái
tơi cá nhân ngày càng phát triển...
Như vậy, các thể thơ dân tộc ngay từ khi mới xuất hiện và cả suốt chặng đường về sau tỏ ra
có vai trị đặc biệt trong việc thỏa mãn các nhu cầu sáng tác cũng như nhu cầu thưởng thức.
2.2.3. Đánh dấu bước tiến lớn cho văn học chữ Nơm và văn học dân tộc
Trong q trình phát triển, các thể thơ dân tộc khẳng định dần hai mặt thể hiện về nội dung
và hình thức trở thành những thể thơ hoàn chỉnh được tác giả lựa chọn để sáng tác. Các thể thơ
dân tộc tạo nên sự hoàn chỉnh, cân bằng và phong phú cho nền văn học dân tộc.
Với khả năng phản ánh được những đặc trưng cơ bản của ngữ âm tiếng Việt, các thể thơ
này đã một có sức mạnh nghệ thuật vững bền và đầy sức thuyết phục, đã từng hiện diện cả trong
hai dịng văn học cổ điển và bình dân trong suốt các chặng đường hình thành và phát triển của
văn học dân tộc.
Vãn là một thể tài trữ tình nhưng giàu chất tự sự, triết lý. Nội dung của vãn vươn đến tính tự
sự cao. Đó là câu chuyện của kẻ sĩ yêu đời, thanh thản với thú lâm tuyền dù ngộ biến (Lâm tuyền
vãn - Phùng Khắc Khoan), là chuyện về kẻ sĩ ẩn chí đợi thời với hồi bão cao đẹp, tâm sự sục sôi
(Ngọa Long cương vãn - Đào Duy Từ), là chuyện đàm luận về đạo và đời giữa nho sĩ truyền thống
với các giai tầng xã hội trước cảnh non sống đất nước (Tư dung vãn - Đào Duy Từ). Có thể xem
vãn là thể tài khơi nguồn, làm tiền đề cho sự xuất hiện của truyện thơ Nôm sau này.
Sự xuất hiện và phát triển của thể lục bát trong văn hóa ngơn từ của người Việt từ thế kỷ
XVI trở về sau cho phép nhận định rằng thể lục bát gắn chặt với xu hướng “diễn Nôm”, “diễn
ca”. Việc sử dụng thể thơ lục bát cùng với chữ Nôm đã khiến cho truyện Nôm có sức sống kỳ
diệu trong đời sống dân tộc, được đơng đảo quần chúng nhân dân u thích.
Sự ra đời của tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc đã khai sinh một thể loại văn học dân tộc có
tên là ngâm khúc và mở ra một thế kỷ văn học của nhiều khúc ngâm có giá trị như Cung ốn
ngâm, Thu dạ lữ hồi ngâm, Tự tình khúc, Ai tư vãn,… Tác phẩm cũng đã bứt mình ra khỏi dịng
văn học chức năng, nặng về “tải đạo” “ngơn chí” của giai đoạn trước đó để nhập hẳn vào dịng
văn học nghệ thuật, lấy việc phơi trải những xúc động tự tâm can làm mục đích chính.
Trong khi truyện Nơm và ngâm khúc xuất hiện trước, có thành tựu trước nhưng cịn chịu
nhiều ảnh hưởng từ văn học nước ngoài như (cốt truyện, thi liệu, nội dung phản ánh, nội dung tư
tưởng...) thì hát nói ra đời sau nhưng mức độ ảnh hưởng từ văn học nước ngồi đã ít đi nhiều và
sự ảnh hưởng cũng đã mang ở một cấp độ khác. Hát nói đáp ứng những nhu cầu khác truyện
Nơm và ngâm khúc. Các tác giả sách Việt Nam Ca trù biên khảo đã từng nhận định rằng: “Hát
nói rất phù hợp với những nội dung đứng giữa hai thái cực: một bên là những nội dung cô đọng
quá dành cho thơ luật, một bên là những nội dung khai triển quá như truyện và ngâm dành cho
lục bát và song thất lục bát”. [1, tr. 139-140]
Có thể nói rằng sự ra đời của các thể thơ dân tộc đã đánh dấu một bước tiến lớn cho văn
học chữ Nôm, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của thơ ca trung đại.
Các thể thơ dân tộc vẫn tiếp tục có mặt, vừa giữ lại những yếu tố vốn có vừa phát triển
15
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ
CYS 2016
thêm các yếu tố mới, không ngừng biến đổi, tạo nên một diện mạo mới trong thời kì văn học
mới. Các thể thơ dân tộc hình thành trong văn học trung đại nhưng nó khơng chỉ tồn tại và phát
triển trong thời kì văn học nó được định hình mà cịn tiếp tục góp mặt và vận động trong thời kì
văn học tiếp sau đó. Ở thời kì văn học sau nó cũng có tiến trình phát triển riêng bên cạnh các thể
loại mới mẻ, phù hợp hơn với con người mới, thời đại mới. Văn học luôn vận động và sáng tạo,
khơng thể nói trước ở những giai đoạn sau các thể thơ dân tộc có vị trí như thế nào nhưng chắc
chắn rằng dù ở thời kì nào thì các thể thơ dân tộc vẫn ln có chỗ đứng vì bản thân chúng vẫn
ln giữ được các yếu bản sắc, yếu tố dân tộc.
3. KẾT LUẬN
Sự ra đời của các thể thơ dân tộc có vai trị vơ cùng to lớn đối với văn học trung đại nói
riêng và văn học Việt Nam nói chung. Các thể thơ dân tộc ra đời trong những điều kiện phù hợp
về mặt xã hội văn hóa, hoạt động sáng tác cũng như mối quan hệ mật thiết với bộ phận văn học
dân gian. Quá trình hình thành các thể thơ dân tộc bắt đầu từ những yếu tố truyền thống trong
văn học dân gian kết hợp với những sáng tạo của các tác giả trung đại trên hành trình kiếm tìm
hình thức thể hiện mới lạ, độc đáo mang bản sắc của dân tộc, thỏa mãn nhu cầu tình cảm và khả
năng chuyển tải nội dung của dân tộc mình. Nghiên cứu động lực hình thành là một việc làm có
ý nghĩa đối với việc nghiên cứu các thể thơ dân tộc trong văn học Việt Nam trung đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề (1962), Việt Nam ca trù biên khảo, Tp. Hồ Chí Minh.
Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân (1997), Văn học Việt Nam (thế kỷ X - nửa đầu XVIII), Nxb Giáo
dục.
Hoàng Thư Ngân (2001), Hai bước ngoặt trong lịch sử văn hóa Việt, />Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam (Hình thức và thể loại), Nxb Khoa
học Xã hội.
Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
Title: ORIGINS OF THE VERSE ETHNIC IN MEDIVAL VIETNAM LITERATURE
Abstract: The verse ethnic are originated endogenetic from forms of folklore of Vietnam, which include
“vãn vè”, “lục bát”, “song thất lục bát” and “hát nói”. The shaping of those aforementioned verse defines
national consciousnesscreative thinking of Vietnamese people and is a milestone of chữ Nôm literature
and national literature. The studies of this topic give reader the insights about the importance of the verse
ethnic to medival literature and Vietnam literary process.
Keyworks: the verse ethinic, medival literature, origins, endogenetic.
LÊ NGUYỄN HẠNH NGUYÊN
Học viên Cao học, chuyên ngành Văn học Việt Nam, khóa 23 (2014-2016), Trường Đại học Sư phạm –
Đại học Huế
Email:
16