Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ẩn dụ ý niệm “con người là công trình xây dựng” trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.33 KB, 9 trang )

ẨN DỤ Ý NIỆM “CON NGƯỜI LÀ CƠNG TRÌNH XÂY DỰNG”
TRONG TIẾNG VIỆT
TRẦN THỊ HUYỀN GẤM
Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Tóm tắt: Trên cơ sở lí thuyết ẩn dụ ý niệm của ngơn ngữ học tri nhận, bài viết phân
tích ẩn dụ ý niệm con người là cơng trình xây dựng trong tiếng Việt. Ẩn dụ này gồm
có sáu ẩn dụ dưới bậc, trong đó ẩn dụ cảm xúc là cơng trình xây dựng có sự thể hiện
phong phú và đa dạng nhất. Ẩn dụ ý niệm con người là cơng trình xây dựng phản ánh
nhận thức về phạm trù cơng trình xây dựng và quá trình tri nhận về con người trong
mối liên hệ với cơng trình xây dựng của người Việt.
Từ khóa: ẩn dụ ý niệm, cơng trình xây dựng, con người là cơng trình xây dựng.

1. MỞ ĐẦU
Ăng-ghen đã khẳng định: “Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi
mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo… được”. Đối với con người, sau nhu
cầu về đồ ăn chính là nhu cầu về chốn ở. Từ giai đoạn ban sơ của nền văn minh nhân loại, con
người đã dần tạo nhà dựng cửa, từ đó xây nên các cơng trình xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt của mình. Nhà cửa, đường sá và các cơng trình xây dựng gắn bó cố hữu, tác động
nhiều mặt trong đời sống cũng như nhận thức của con người. Trong quá trình con người tri nhận
về thế giới và chính mình, tri thức về cơng trình xây dựng cũng được sử dụng như phương tiện
để hiểu những đối tượng trừu tượng, khó nắm bắt, hình thành nên các ẩn dụ ý niệm liên quan đến
cơng trình xây dựng.
Với vai trị là chìa khóa mở ra sự hiểu biết, ẩn dụ ý niệm được xem là cơ sở của tư duy, công
cụ để con người tương tác và tri nhận về thế giới khách quan lẫn chủ quan. Liên quan đến cơng
trình xây dựng, ta có các ẩn dụ ý niệm chỉ về nhiều phạm trù khác nhau. Trong đó, con người là
miền tri nhận đích rất phong phú mà miền cơng trình xây dựng phóng chiếu đến. Những cách nói
như: trụ cột gia đình, mở cửa trái tim, kép lịng mình, xây dựng nhân cách, nền tảng học vấn, tình
yêu đổ vỡ,… hiện diện một cách thường xuyên trong đời sống. Từ thực tế này, chúng tôi sẽ miêu
tả, làm rõ ẩn dụ ý niệm con người là cơng trình xây dựng trong tiếng Việt để từ đó khám phá đặc
điểm tri nhận về miền ý niệm cơng trình xây dựng của người Việt và q trình nhận thức chính
mình trong mối liên hệ với cơng trình xây dựng.


1. NỘI DUNG
1.1. Ẩn dụ ý niệm và phạm trù cơng trình xây dựng trong tiếng Việt
1.1.1 Khái lược về ẩn dụ ý niệm
Theo Trần Văn Cơ, “Ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn dụ ý niệm - cognitive/conceptual
metaphor) - đó là một trong những hình thức ý niệm hóa, một q trình tri nhận có chức năng
biểu hiện và hình thành những ý niệm mới mà khơng có nó thì khơng thể nhận được tri thức mới.
Về nguồn gốc, ẩn dụ tri nhận đáp ứng năng lực của con người nắm bắt và tạo ra sự giống nhau
giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau” [1, tr. 292].
Ẩn dụ ý niệm là cách hiểu một miền ý niệm này thông qua một miền ý niệm khác, và với ý
nghĩa đó, ẩn dụ là một trong những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng ngơn ngữ. Lý
Tồn Thắng chỉ rõ bản chất của ẩn dụ ý niệm là: “một sự “chuyển di” (transfer) hay một sự “ánh
52


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

xạ” (mapping) cấu trúc và các quan hệ nội tại của một lĩnh vực hay mơ hình tri nhận nguồn sang
một lĩnh vực hay mơ hình tri nhận đích” [2, tr. 25]. Ẩn dụ ý niệm chính là sự ý niệm hóa một
miền tinh thần qua một miền tinh thần khác, tức là sự ánh xạ có hệ thống từ một miền nguồn
sang một miền đích nhằm tạo nên một mơ hình tri nhận (mơ hình ẩn dụ) giúp lĩnh hội miền đích
cụ thể, hiệu quả hơn. Đó là q trình chuyển di ý niệm giữa hai miền ý niệm khác biệt: miền
nguồn và miền đích. Những đặc điểm, thuộc tính được chọn lọc ở miền nguồn được xác lập lại
trong một bối cảnh tri nhận mới là miền đích.
Cấu trúc của ẩn dụ ý niệm gồm miền ý niệm nguồn (source domain), miền ý niệm đích
(tagret domain) và các ánh xạ tương ứng (mapping). Miền nguồn cụ thể, mang tính vật chất, có
chức năng cung cấp tri thức mới và gán những tri thức mới đó cho miền đích. Trái lại, miền
đích mang tính trừu tượng, được cấu trúc hóa, ý niệm hóa theo miền nguồn. Các ánh xạ tương
ứng là tập hợp những tương thích có tính hệ thống giữa miền nguồn và đích, trong đó các

thành tố ý niệm cấu tạo của miền đích tương thích với những thành tố ý niệm cấu tạo của miền
nguồn. Ánh xạ là sự phóng chiếu của cấu trúc miền nguồn lên trên miền đích. Kết quả của sự
ánh xạ này là sự tổ chức cách nhìn của chúng ta về những phạm trù thích đáng trong miền đích
dưới dạng miền nguồn.
Con đường của sự ánh xạ trong ẩn dụ tri nhận đi từ phạm trù cụ thể, đơn giản, dễ hình
dung đến phạm trù trừu tượng hơn. Nghĩa là người ta dựa vào những kinh nghiệm của mình về
con người, những sự vật và những hiện tượng cụ thể, thường nhật để ý niệm hóa các phạm trù
trừu tượng. Kinh nghiệm con người về thế giới là cơ sở cho những ẩn dụ tri nhận.
ĐÍCH

NGUỒN
ÁNH XẠ

Sơ đồ minh họa cấu trúc ẩn dụ ý niệm
1.1.2. Phạm trù cơng trình xây dựng trong tiếng Việt
Cơng trình xây dựng được hiểu là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con
người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào cơng trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao
gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước, được xây
dựng theo thiết kế. Phạm trù cơng trình xây dựng bao gồm hệ thống tất cả các ý niệm có liên
quan đến cơng trình xây dựng: các ý niệm chỉ cơng trình xây dựng, bộ phận của cơng trình xây
dựng, vật liệu, cơng cụ tạo nên cơng trình xây dựng, tính chất, thuộc tính của cơng trình xây
dựng, hoạt động của con người đối với cơng trình xây dựng.
Chúng tơi thực hiện khảo sát hệ thống từ ngữ liên quan đến phạm trù cơng trình xây dựng
trong nguồn Từ điển tiếng Việt [3], áp dụng phương pháp phân tích thành tố nghĩa [4] để phân giải
định nghĩa từ điển của các từ liên quan đến cơng trình xây dựng thành các nét nghĩa khu biệt.
Căn cứ vào lõi nghĩa vị tạo nên tập hợp từ ngữ, phạm trù cơng trình kiến thiết được phân chia
thành các tiểu phạm trù bộ phận như sau:
- Tiểu phạm trù định danh cơng trình xây dựng: Nhà, cầu, đường, lâu đài, đình, chùa,
thành, lều, quán, tháp, bến, lăng, mộ, đê, kênh, đập, mương, cống, cột mốc, ao, giếng.
- Tiểu phạm trù định danh các bộ phận của cơng trình xây dựng: Móng, nền, sàn, tường,

vách, nóc, trần, mái, trụ cột, rường, kèo, rui mè, bậc thang, tay vịn, cửa, ngưỡng cửa, cửa sổ,
tầng, lầu, gác, sân, sảnh, sân thượng, ban cơng, hành lang, phịng, bếp, cổng, thềm, bậc thềm,
hiên, vườn, hàng rào, ngõ, lề, vỉa hè, khúc cua, ngã rẽ, bia,…
53


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

- Tiểu phạm trù định danh vật liệu của cơng trình xây dựng: Đất, cát, gạch, đá, sạn, gỗ, tre
nứa, tranh, cỏ, lá, sắt thép, bê tông, xi măng, vôi, vữa, sơn, ngói,…
- Tiểu phạm trù định danh cơng cụ xây dựng cơng trình xây dựng: bay, búa, cuốc, xẻng,…
- Tiểu phạm trù đặc điểm tính chất của cơng trình xây dựng: Cao, rộng, chật, hẹp, thấp,
nhỏ, to, dài, ngắn, đẹp, xấu, nguy nga, tráng lệ, sang trọng, vững chắc, chắn chắn, nát, dột, rách,
tồi tàn, tan hoang, xiêu, đổ, sập, trống, kiên cố, lung lay, hoang, vắng vẻ, yên ắng,…
- Tiểu phạm trù hoạt động của con người tác động đến cơng trình xây dựng: Xây, dựng,
xây dựng, thi cơng, gia cố, tu bổ, trùng tu, sửa chữa, đào, chôn, lấp, đổ, lợp, san, sơn, trát, tô, lát,
ốp tường, dát, đóng, khép,…
Hệ thống từ ngữ thuộc phạm trù cơng trình xây dựng là cơ sở để thu thập ngữ liệu chứa ẩn
dụ liên quan đến cơng trình xây dựng, xác lập các ý niệm và thuộc tính điển dạng từ miền nguồn
cơng trình xây dựng chuyển di đến miền đích con người.
2. ẨN DỤ Ý NIỆM “CON NGƯỜI LÀ CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG” TRONG TIẾNG VIỆT
2.1. Cơ thể người là cơng trình xây dựng
Trong tiếng Việt, có nhiều từ ngữ dùng để chỉ bộ phận cơ thể người là từ vốn chỉ thành
phần của cơng trình xây dựng. Người Việt nhận ra sự tương ứng trong đặc điểm về hình dáng,
chức năng của các thành phần khác nhau trong công trình xây dựng với các bộ phận cơ thể
người. Cơ thể người được hình dung như một ngơi nhà với các bộ phận có sự tương ứng với bộ
phận của ngôi nhà. Khung xương nâng đỡ cơ thể với hệ thống gồm cột sống, xương trụ, xương
đòn giống như bộ khung, trụ cột của ngôi nhà. Các bộ phận trong căn nhà như vách, thềm, thành,

buồng, cửa có sự tương ứng với những chi tiết hay bộ phận trên cơ thể người, từ đó có những
cách định danh như: vách ngăn mũi, vách ngăn tim, buồng tim, buồng phổi, thềm mũi, thềm
ngực. Đặc biệt, cơ thể con người được hình dung như một cơng trình nhà cửa hồn chỉnh, khép
kín và những bộ phận tạo ra sự lưu thông giữa bên trong cơ thể với bên ngoài ứng với bộ phận
cửa hay cửa sổ của căn nhà. Vì thế người Việt hình dung miệng là cửa ra vào của cơ thể - cửa
miệng, còn mắt là cửa sổ của tâm hồn. Tóc là bộ phận ở vị trí cao nhất trong cơ thể người, trên
đầu, có chức năng che chắn, bảo vệ cho đầu nói riêng và cơ thể nói chung có từ chỉ loại là mái mái tóc, đây là ánh xạ từ ý niệm ngôi nhà với mái là phần cao nhất, che chắn cho nhà từ phía
trên. Sự tương ứng trong hình dạng của một số thành phần trong ngơi nhà với đặc điểm hình thức
của một bộ phận nào đó trên cơ thể người là cơ sở để định danh các bộ phận đó. Người ta nhận
ra sự tương ứng giữa hình dáng to, thơ của đơi chân với cột đình nên có cách miêu tả chân cột
đình. Hay chỉ vầng trán cao, rộng được gọi là trán sân bay.
Và tổng thể cơ thể người được nhìn nhận trong sự tương ứng với một tịa nhà.
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Vẻ đẹp của cơ thể người phụ nữ đầy đặn, toàn mỹ và tự nhiên được Nguyễn Du mơ tả bằng
hình ảnh “tịa thiên nhiên”.
Ngồi ra, việc đập đi và xây mới lại một công trình xây dựng cịn khơi gợi cho người Việt
hiện đại liên tưởng đến hiện tượng phẫu thuật thẫm mỹ ngày càng phổ biến hiện nay, khi nhiều
người phẫu thuật gần như tồn bộ gương mặt của mình, tạo ra diện mạo hoàn toàn mới: Một
54


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

trường hợp cũng gây xôn xao mạng xã hội Thái Lan là trường hợp một cô gái “đập mặt đi xây
lại” sau khi tỏ tình khơng thành ( />2.2. Cảm xúc của con người là cơng trình xây dựng
Cảm xúc, tình cảm là sự trải nghiệm của con người về thái độ của chính mình đối với sự

vật, hiện tượng của thế giới khách quan và đối với bản thân. Với những trải nghiệm thực tế,
người Việt áp dụng những đặc điểm, tính chất của cơng trình xây dựng vào đời sống tình cảm
vốn rất đa dạng, phức tạp của mình: niềm vui, nỗi buồn, yêu ghét, giận hờn, hạnh phúc, khổ đau,
thù hận… Người Việt đã tri nhận các trạng thái khác nhau của tình cảm con người với đặc điểm,
tính chất hay các hoạt động gắn liền với cơng trình xây dựng.
Biểu thị trạng thái cảm xúc buồn phiền, cô đơn, đau đớn trong nội tâm con người hay khi
trí tuệ bị tổn thương, suy kiệt, người Việt có những từ ngữ như: quạnh hiu, trống trải, trống
rỗng, cô quạnh, nát tan, mục ruỗng, sụp đổ, tối tăm,… Đây chính là sự ánh xạ từ tính chất khơng
có gì ở trong hay hư hỏng, khơng cịn ngun vẹn như ban đầu, thiếu ánh sáng của cơng trình
xây dựng đến miền đích tinh thần của con người.
- Nhưng với cõi lòng trống vắng của tôi lúc này, nỗi nhớ thương đứa con càng trỗi dậy, tơi
khơng thể khơng ốn y.
- Gió mang nỗi buồn quạnh hiu gửi chút thương yêu về nơi tôi nhớ.
- Chồng tan nát cõi lòng khi đọc nhật ký của vợ.
- Hạnh phúc và niềm tin về một người chồng chung thủy đã sụp đổ dưới chân tơi.
Cơng trình xây dựng khi bị bên ngồi tác động vào thì diễn ra nhiều biến đổi, trong đó có tình
trạng khơng cịn ở vị trí thẳng đứng mà bị nghiêng về một bên, không đứng vững được gọi là “đổ”,
“xiêu”. Người Việt nhận thấy sự tương đồng giữa trạng thái đó của cơng trình xây dựng với trạng
thái tâm lý u thích hay đã được thuyết phục của con người trước một đối tượng khác. Vì vậy người
Việt có cách diễn đạt sau:
- Diện váy denim khiến chàng “đổ rầm” như dàn sao Việt.
- Điểm nhấn khiến người hâm mộ “đổ gục” của hot girl Diệp Bảo Ngọc, Anna Trương.
- Nguyễn Du - Truyện Kiều:
“Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Nghe trong âu yếm có chiều lả lơi”.
Những thuộc tính, đặc điểm của cơng trình xây dựng tạo ra những khơi gợi nhất định đến
đặc điểm của tình cảm, ý chí, nội tâm con người. Một cơng trình xây dựng kiên cố, vững chãi,
chắc chắn thường gợi liên tưởng đến ý chí, sức mạnh tinh thần hay sự đảm bảo trong tình cảm
của con người. Chẳng hạn biểu thức ngôn ngữ “Vững chãi trước thị phi” ở đây ẩn dụ tinh thần
mạnh mẽ, kiên cường trước những lời dèm pha của người ngồi. Câu “Người phụ nữ thành cơng

là khi, họ xây được một bức tường vững chắc từ chính những viên gạch người đời đã ném vào
mình” cũng là một ẩn dụ như vậy.
55


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

Sự đảm bảo chắc chắn về tình u, hơn nhân, hạnh phúc cũng được ẩn dụ từ đặc trưng kiên
cố của cơng trình xây dựng.
- Nếu bạn nghiên cứu về lịch sử thì chắc hẳn bạn sẽ nhận ra rằng nơi nào hơn nhân vững
chắc thì nơi đó đất nước vững bền.
- Đối thoại chiến lược quốc phòng đem lại niềm tin vững chắc hơn trong hợp tác quân sự
Nga - Việt.
Cũng như một căn nhà, hơn nhân, tình u cần được xây dựng từ những yếu tố cơ bản chắc
chắn thì mới tồn tại bền vững theo thời gian được.
- Niềm tin là cái móng vững chắc nhất cho căn nhà tình u.
- Cuộc hơn nhân khơng bắt đầu bằng một tình u lớn, bản thân nó đã khơng có nền tảng
vững chắc.
Tương tự con đường, trạng thái của công trình xây dựng khi xuống cấp, hư hỏng, hay bị
phá hủy tạo cho người Việt sự liên tưởng đến tình trạng khó khăn, bất ổn trong chuyện tình u,
hạnh phúc.
- Hôn nhân tan vỡ, nguyên nhân nào gây nên?
- Diễm Hương lên tiếng về nghi vấn hơn nhân rạn nứt.
Tình cảm, thế giới nội tâm về bản chất là mơ hồ, khơng nắm bắt, cảm nhận bằng giác quan.
Tình cảm, cảm xúc là yếu tố thuộc con người. Con người có thể cảm nhận được nó nhưng để cấu
trúc hóa nó thì khơng phải dễ dàng. Do đó con người nhận thức, hình dung về đối tượng phi vật
chất như: tình cảm, cảm xúc thơng qua sự tương ứng với đối tượng vật chất cụ thể. Cấu trúc một
ngôi nhà được che chắn bằng tường bao quanh bốn phía, trên có mái, bên trong và bên ngồi

thơng với nhau qua cửa. Từ hình ảnh về ngơi nhà, con người tư duy về tâm hồn, thế giới nội tâm
cũng giống như vậy, là một đối tượng được bao kín, tương giao với bên ngồi qua cánh cửa
lịng, cánh cửa trái tim. Vì vậy, khi diễn tả việc khơi gợi, muốn trao nhận tình cảm của một ai
đó, người Việt có cách nói gõ cửa trái tim. Câu “Vũ trụ bao la q, lịng chàng giá lạnh q,
chàng muốn qn mình, qn hết thảy trong tình u của một người, vơ luận người nào. Chàng
gõ cửa hết nơi nọ chốn này song bao nhiêu tâm tư đều đóng kín” là một biểu hiện của ẩn dụ này.
Hành động mở cửa để mở không gian, phá vỡ sợ ngăn cách giữa phần bên trong và bên
ngồi của ngơi nhà được vận dụng để nói về tình cảm, cảm xúc của con người. Mở cửa lòng, mở
cửa trái tim, mở rộng tâm hồn là sự ẩn dụ chỉ trạng thái tâm lý cởi mở, sẵn sàng trao nhận những
tình cảm, cảm xúc với người khác.
“Anh ngân nga để mở rộng cửa lòng
Cho trăng xuân tràn về say chới với”.
(Hàn Mặc Tử - Trường tương tư)
- Có lẽ Thế Lữ là một người khát yêu, lịng mở sẵn để đón một tình dun khơng thấy tới.
(Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam).
Xây dựng, vun đắp, đánh đổ, phá vỡ vốn là những hoạt động của con người tác động vào
cơng trình xây dựng đã được dùng để tri nhận về các tác động đối với tình cảm. Bởi thế người
Việt có những cách nói như xây dựng tình yêu, hạnh phúc, vun đắp tình cảm, phá vỡ hạnh
phúc,…
56


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

- Chung tay góp sức, xây đắp tình u thương
- Vun đắp cho tình u hạnh phúc
Những ẩn dụ đó đã cho thấy tình cảm được nhìn nhận như một cơng trình mà con người
tạo dựng nên, vun vén bằng công sức, tâm trí của mình.

2.3. Nhận thức của con người là cơng trình xây dựng
Nhận thức là hoạt động diễn ra trong trí óc của con người và là kết quả của quá trình phản
ánh, tái hiện hiện thực vào tư duy, kết quả là con người hiểu biết thế giới khách quan. Nhận thức
khơng tự có sẵn mà phải trải qua một q trình con người tích lũy dần, học tập, trải nghiệm. Học
thuyết, lý lẽ là sản phẩm của quá trình tư duy, nhận thức. Trong cơng trình Metaphors we live by
[5], Lakoff và Johnson đã dẫn ra ẩn dụ: Học thuyết (lý lẽ) là tòa nhà với một loạt ví dụ cụ thể:
Đó có phải là nền tảng trong học thuyết của anh không? Học thuyết cần nhiều chống đỡ hơn. Lý
lẽ bị lung lay. Chúng ta cần thêm vài điều thực tế hơn hoặc là lý lẽ sẽ đổ vỡ. Chúng ta cần xây
dựng những lý lẽ mạnh cho điều này. Chúng ta vẫn chưa hình dung ra được cái gì sẽ hình
thành nên lập luận. [5, tr. 47]
Giữa nhận thức của con người và cơng trình xây dựng có sự tương đồng nhất định. Điều
này tạo cơ sở cho ẩn dụ nhận thức của con người là cơng trình xây dựng. Hoạt động nhận thức
được hình dung giống như q trình xây dựng một cơng trình kiến thiết. Muốn xây dựng một căn
nhà thì phải bắt đầu từ phần móng, nền móng có kiên cố thì căn nhà mới vững chãi. Quá trình
nhận thức của con người cũng phải đi dần từ căn bản mà lên. Những kiến thức cơ sở được coi là
nền tảng trong nhận thức của con người. Trong tiếng Việt, ta có các cách nói: kiến thức nền, nền
tảng kiến thức, nền tảng học vấn.
- Với học sinh cần phải lấy nền tảng kiến thức xã hội làm thước đo chất lượng và trí tuệ
của họ.
Những nhận thức mà con người có được lượng hóa, vật thể hóa như một cơng trình xây
dựng cụ thể (lâu đài tri thức, tòa nhà tri thức) với đặc điểm vật lý có thể tri nhận được bằng giác
quan (đồ sộ, rộng, hẹp,…).
- Các bạn sinh viên cần có được phương pháp học tập thích hợp để có thể tiếp thu hết khối
kiến thức đồ sộ đó.
- Kiến thức hạn hẹp mới chê Táo Quân 2014 một cách liều mạng như thế.
- Chính tính bất biến của các sự thật toán học là nền tảng vững chắc cho việc xây dựng tòa
lâu đài tri thức của con người về giới tự nhiên. Nếu tính bất biến của các sự thật tốn học khơng
cịn nữa, thì tịa lâu đài tri thức này khơng có cách nào đứng vững được.
Những tính chất của cơng trình xây cũng ánh xạ lên miền đích nhận thức. Nhận thức đúng
đắn, có cơ sở khoa học là cơng trình xây dựng kiên cố, chắc chắn, ngược lại là kiến thức lung

lay, không đứng vững. Ví dụ: Xây dựng nền tảng vững chắc từ bậc học đầu đời.
Với sự đồ chiếu từ miền nguồn cơng trình xây dựng, phạm trù nhận thức của con người
vốn là miền trừu tượng, tồn tại và diễn ra trong đầu óc con người được cấu trúc, ý niệm hóa cụ
thể và đầy đủ.
2.4. Phẩm chất của con người là cơng trình xây dựng
Cơng trình xây dựng nói chung và nhà cửa nói riêng là yếu tố thuộc về cơ sở vật chất. Nhà
57


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

cửa là của cải của con người. Một trong những sự đánh giá về cơ sở vật chất là giá trị kinh tế.
Những hình ảnh như nhà ngói đơi ba tịa, tịa ngói xây, nhà ngón, nhà lim gắn với sự giàu có,
cảnh sống đầy đủ về vật chất. Sự cơ hàn, nghèo khó gắn với hình ảnh nhà lá, nhà tranh vách
nứa, quán, lều, túp lều tranh,… Người Việt quan điểm rằng thái độ, cách ứng xử của con người
đối với sự giàu, cái nghèo phản ánh phẩm chất của con người. Với truyền thống trọng tình nghĩa,
người Việt đề cao thái độ thà nghèo khó mà giàu tình cảm và chê bai việc nhà cao cửa rộng mà
nghèo nàn về tinh thần. Thái độ đối với nhà cửa ẩn dụ cho phẩm chất của con người theo quan
điểm đậm tính văn hóa của người Việt.
“Tình thương qn cũng như nhà
Lều tranh có nghĩa hơn tịa ngói xây”.
“Chẳng tham nhà ngói ba tịa
Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành”.
Đặc điểm cụ thể của những bộ phận thuộc cơng trình xây dựng cũng được ánh xạ để tri
nhận về phẩm chất của con người. Tục ngữ có câu “Khơn làm cột cái, dại làm cột con” chỉ phẩm
chất khôn ngoan hay vụng dại của con người, hay câu “Chểnh mảng như kèo vênh đục” để phê
phán tính lơ là, chểnh mảng. Ngồi ra, cịn có những cách diễn đạt tính cách bằng hoạt động của
con người trong xây dựng công trình. Chẳng hạn “đào” vốn là hoạt động trong xây dựng (đào đất

xây móng) kết hợp với hình ảnh “mỏ” để chỉ tính xấu bịn rút vật chất, tiền bạc của người khác.
- Chị tơi ơm hận vì u phải kẻ đào mỏ.
- Vỡ mộng vì vợ giở chứng đào mỏ nhà chồng.
Có thể thấy, trong tâm thức người Việt, phẩm chất con người mang những đặc điểm được
phóng chiếu từ tri thức, cảm nhận của con người về công trình xây dựng, trong đó nhà cửa chiếm
đa phần.
2.5. Vai trị của con người là cơng trình xây dựng
Mỗi cơng trình xây dựng cũng như bộ phận của cơng trình đều có chức năng, giá trị sử dụng
nhất định. Vai trị của các bộ phận đối với cơng trình có sự tương đồng với vai trò của con người
trong tập thể và xã hội. Từ cơ sở đó, người Việt có ẩn dụ ý niệm vai trị của con người là cơng trình
xây dựng. Trong một ngơi nhà, nóc là bộ phận ở vị trí cao nhất, thuộc tính này chuyển di sang
miền con người, nóc ẩn dụ chỉ người đàn ơng, người chồng, người cha trong gia đình - người có
vị trí quan trọng, quyền lực cao nhất, che chắn cho cả gia đình.
- Con có cha như nhà có nóc.
- Con khơng cha như nhà khơng nóc.
Trụ cột (cột trụ, rường cột) là cột lớn, vững chắc, để chống đỡ vật nặng được chuyển di
sang phạm trù con người để ẩn dụ chỉ vai trò làm chỗ dựa chủ yếu và vững chắc.
- Trụ cột gia đình phải vững thì gia đình mới vững vàng.
- Để thanh niên mãi là chỗ dựa, rường cột của nước nhà
Với thuộc tính che chắn, ngăn cách, vách, tường trong miền nguồn cơng trình xây dựng
ánh xạ lên miền con người để chỉ những người có vai trị che chắn, bảo vệ cho xã hội.
- Nhân dân là “tường đồng, vách sắt” của quân đội.
58


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

Cầu với thuộc tính gắn kết, giao nối đã chuyển di từ phạm trù cơng trình xây dựng đến

miền đích con người để miêu tả những đối tượng có vai trị kết nối giữa đối tượng này với đối
tượng khác: Cộng đồng người Việt tại Slovakia là cầu nối hữu nghị giữa 2 nước.
2.6. Đời người là cơng trình xây dựng
Cuộc đời người là một khái niệm trừu tượng, khó có thể định nghĩa cụ thể. Cuộc đời con
người có thể hiểu là bộ quá trình sống, khoảng thời gian con người sống trên đời, một quá trình
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong số các cơng trình xây dựng, đường là ý niệm được ẩn
dụ để chỉ cuộc đời con người. Theo Từ điển tiếng Việt, đường là lối đi nhất định được tạo ra để
nối liền hai địa điểm, hai nơi. Đường chỉ cuộc đời và những phương diện trong đời sống của
con người:
- Đường đời đôi ta hai hướng đi buồn thật buồn.
- Biết nói gì khi đường tình chia hai lối. (Chia đơi con đường).
- Bí ẩn về con đường học vấn của Tổng thống Barack Obama.
- Ngã đời năm bảy lối. (Cho ngày nắng hạ).
Trên con đường có những ngã rẽ, khúc quanh là nơi thay đổi hướng đi được con người
nhận thức như những biến cố, sự thay đổi trong cuộc đời.
- Ngã rẽ cuộc đời.
- Cuộc sống, nhìn theo một cách phiến diện nhất, đơi lúc tơi thấy nó chẳng khác gì cái ngã
tư đường với nhiều lối rẽ.
- Phi Nhung và những khúc quanh cuộc đời.
Cuộc đời người trải qua những thăng trầm, có những nỗi buồn, nỗi đau mà con người ta muốn
giấu kín. Điều này có sự tương đồng với góc khuất của một ngơi nhà - nơi rất khó nhìn thấy: “Góc
khuất” trong cuộc đời người phụ nữ lẫy lừng xây hơn trăm ngơi chùa.
3. KẾT LUẬN
Trong q trình tri nhận, con người dùng điểm nhìn của mình chuyển di cho vạn vật, rồi lại
đưa những hiểu biết về vạn vật, thế giới quay ngược trở lại để nhận thức về thế giới người.
Những tri thức, hiểu biết về cơng trình xây dựng đã được phóng chiếu sang tri nhận phạm trù con
người bằng ẩn dụ ý niệm con người là cơng trình xây dựng. Cơng trình xây dựng đóng vai là
miền nguồn, cung cấp cơ sở tri nhận cho miền đích con người. Bài viết đã xác lập và miêu tả cụ
thể sáu ẩn dụ dưới bậc gồm: cơ thể người là cơng trình xây dựng, cảm xúc của con người là cơng
trình xây dựng, nhận thức của con người là cơng trình xây dựng, phẩm chất của con người là

cơng trình xây dựng, vai trị của con người là cơng trình xây dựng, đời người là cơng trình xây
dựng. Phạm trù cơng trình xây dựng có sự phóng chiếu đến miền đích con người, ẩn dụ cho
nhiều phương diện khác nhau trong đời sống con người. Dựa vào việc miêu tả các ẩn dụ, có thể
thấy rằng ẩn dụ cảm xúc của con người là cơng trình xây dựng là phong phú và đa dạng hơn cả.
Qua ẩn dụ ý niệm con người là cơng trình xây dựng trong tiếng Việt, đặc trưng văn hóa dân tộc
của người Việt đã thể hiện một cách thật sự rõ nét và nổi bật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận (Ghi chép và suy nghĩ), Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
59


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

[2]
[3]
[4]
[5]

CYS 2016

Lý Tồn Thắng (2005), Ngơn ngữ học tri nhận - từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hoàng Phê (chủ biên) (2014), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa dân tộc của ngơn ngữ và tư duy, Nxb Khoa học
Xã hội.
Lakoff, G & Johnson, M (1980), Metaphors we live by, The University of Chicago Press.


THE CONCEPTUAL METAPHOR “PEOPLE ARE CONSTRUCTIONS” IN VIETNAMESE
Abstract: Based on the conceptual metaphor theory of cognitive linguistics, this article analyzes the
conceptual metaphor “PEOPLE ARE CONSTRUCTIONS” in Vietnamese. This metaphor consists of six
submetaphors, in which the metaphor “EMOTION IS A CONSTRUCTION” has the most abundant and
diverse expression. The metaphor “PEOPLE ARE CONSTRUCTIONS” reflects the perception of the
category of construction and the cognitive process of human in relationship with the construction of
Vietnamese people.
Keywords: the conceptual metaphor, construction, people are constructions.

TRẦN THỊ HUYỀN GẤM
Đơn vị công tác: Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Số điện thoại: 01649 825 074. Email:

60



×