Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Kháng sinh penicillin được tìm ra như thế nào? pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.83 KB, 8 trang )



Kháng sinh penicillin được
tìm ra như thế nào?

Loại kháng sinh này được nhà
khoa học Alexander Fleming
(Anh) tìm ra năm 1928 khi tình cờ
quan sát một chiếc đĩa bẩn dùng
trong thí nghiệm. Ông nhận thấy
vi khuẩn phát triển nhiều trong
đĩa, nhưng không hề tồn tại ở khu vực có một mảng meo
lạ.
Alexander Fleming sinh năm 1881 ở một vùng đồi núi cách
thành phố nhỏ Darvel, Scotland (Anh) bốn dặm. Khi mới lên
10, hằng ngày Fleming đã phải đi bộ 6 km đến trường ở thị
trấn Darvel. 14 tuổi, Fleming lên London học trường Bách
khoa. Nhưng chỉ được 2 năm, ông đã phải thôi học và làm
thư ký cho một hãng tàu thủy.
Năm 20 tuổi, Fleming được hưởng thừa kế của một ông chú
và có điều kiện theo học trường y Bệnh viện Saint Mary,
London. Sau khi ra trường, ông gia nhập một nhóm chuyên

Alexander
Fleming.
nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn. Trong Thế
chiến I, ông cùng các thành viên trong nhóm sang Pháp để
điều trị cho binh lính. Sau chiến tranh, Fleming trở lại
London, sống với vợ là Sally Mc. Elroy.
Một ngày cuối năm 1921, do bị cảm lạnh từ vài tuần trước,
Fleming vô tình để rơi một giọt chất lỏng từ mũi lên chiếc đĩa


cấy vi khuẩn và nhận thấy những vi khuẩn chung quanh giọt
chất lỏng đó trở nên trong vắt và có vẻ như đang biến mất.
Từ đó, ông đã nghiên cứu và khám phá ra lysozyme - chất
khử trùng tự nhiên của cơ thể; được tìm thấy trong nước mắt,
nước nhầy, nước bọt, mủ, huyết thanh, máu

Một buổi sáng tháng 9/1928, Fleming vào phòng thí nghiệm,
cầm lên một đĩa cấy bẩn và thấy các khuẩn cầu chùm vàng
kim bao phủ đầy. Bên mép đĩa, một mảng meo đã bắt đầu
phát triển và gần đó là các vi khuẩn cầu chùm trong suốt.
Gần sát với mảng meo không có vi khuẩn nào cả. Ông chợt
nghĩ có gì đó đã giết chết khuẩn cầu chùm và tiến hành thử
nghiệm nhiều lần trên chất dịch meo. Kết quả thật kinh ngạc:
Chất này có thể ngăn chặn một số vi khuẩn nguy hiểm nhất,
không cho chúng phát triển. Ngay cả khi được pha rất loãng,
chất dịch vẫn làm chết các vi khuẩn độc. Nó lại không gây
hại cho cơ thể. Khi chất dịch được tiêm vào cơ thể chuột và
thỏ thí nghiệm, chúng vẫn không có những biểu hiện bệnh lý.
Một nhà khoa học am hiểu về các loại meo cho Fleming biết
loại meo mà ông tìm thấy thuộc nhóm penicillium. Vì thế,
ông sử dụng tên “penicillin” cho chất giết vi khuẩn này.
Fleming đã yêu cầu các phụ tá sản xuất dịch meo cho những
thí nghiệm của mình và khám phá được thêm nhiều điều về
nó. Họ cấy penicillium vào súp thịt trong những chiếc lọ lớn
có các mặt nhẵn. Qua nhiều ngày, nó lan tràn khắp bề mặt
của súp thành một lớp như nùi bông, trong khi chất lỏng bên
dưới ngày càng trở nên vàng và có tác dụng giết chết vi
khuẩn mạnh hơn. Tuy nhiên, họ đã gặp khó khăn trong việc
thử tách riêng penicillin ra khỏi chất lỏng và các thứ khác
trong chất dịch. Và khi đã thành công phần nào thì những vấn

đề mới lại nảy sinh: nó rất dễ bị mất khả năng giết vi khuẩn;
và penicillin bất lực trước một số vi khuẩn, chẳng hạn như
pfeiffer - thời bất giờ được coi là nguyên nhân gây bệnh cảm.

Trong vài năm kế tiếp, nhóm nghiên cứu đã có những cố
gắng khác nhằm chiết chất penicillin và khám phá nhiều điều
hơn về nó. Nhưng họ vẫn không giải quyết được vấn đề: khi
cố gắng tinh chế, khả năng giết vi khuẩn thường biến mất.

Khoảng năm 1938, Howard Florey, giáo sư Bệnh học ở Đại
học Oxford và Ernst Chain, nhà nghiên cứu sinh hóa người
Đức đã tiếp tục công việc của Fleming. Họ biến các phòng
thí nghiệm và nghiên cứu thành một xưởng sản xuất
penicillin. Khoảng giữa tháng 3/1940, Chain đã chiết được
100 mg penicillin ở dạng bột màu nâu, mạnh hơn nhiều so
với chất nước ép meo thô của Fleming, đủ để tiến hành thử
nghiệm trên thú vật. Florey đã tiêm khuẩn cầu chuỗi cho 8
con chuột bạch với liều lượng đủ gây chết. Trong đó, 2 con
được tiêm thêm một liều penicillin, 2 con khác được tiêm 5
liều nhỏ penicillin trong 10 giờ tiếp theo. Sáng hôm sau, 4
con chuột không được dùng penicillin đã chết, những con kia
vẫn sống.

Được biết về công trình nghiên cứu penicillin của Đại học
Oxford qua báo, Fleming đã đến gặp nhóm nghiên cứu này.
Florey giải thích từng chi tiết nhỏ về công trình nghiên cứu
và tặng cho ông một mẫu penicillin của họ.

Khoảng đầu năm 1941, “xưởng” sản xuất ở Oxford đã có đủ
penicillin để hoạch định thử nghiệm trên con người. Bệnh

nhân đầu tiên là viên cảnh sát Albert Alexander, bị nhiễm
khuẩn cầu chùm và khuẩn cầu chuỗi từ một vết cào xước do
bụi gai hoa hồng. Trong vòng 24 giờ sau mũi tiêm penicillin
đầu tiên, bệnh trạng của Albert đã được cải thiện rõ ràng.
Nhưng bệnh đỡ được ít ngày rồi lại tiến triển nặng vì thiếu
thuốc và cuối cùng viên cảnh sát đã chết.

Florey cố gắng sản xuất thêm penicillin để chữa cho ba bệnh
nhân nữa, nhưng thuốc vẫn không đủ dùng. Ông đã đề nghị
các hãng dược phẩm ở Anh đưa vào sản xuất với quy mô lớn,
nhưng không hãng nào dám nhận vì phí tổn quá cao, phải có
khoảng 2.000 lít nước ép meo để điều trị chỉ một ca nhiễm
khuẩn nghiêm trọng.

Tháng 6/1941, Florey sang Mỹ. Ở đó, ông đã xoay xở vận
động được một phòng thí nghiệm nghiên cứu nông nghiệp ở
bang Illinois sản xuất nước ép meo. Nhưng họ không bao giờ
có được penicillin từ những cố gắng này vì tháng 12 năm đó,
nước Mỹ cũng bị cuốn vào guồng máy chiến tranh. Phải đến
năm 1942, các nhà khoa học Oxford mới thu thập đủ
penicillin cho một thử nghiệm y học thứ hai: 15 bệnh nhân bị
nhiễm khuẩn nghiêm trọng được điều trị bằng penicillin; 14
người đã bình phục hoàn toàn. Cũng năm đó, Fleming đã
dùng chất penicillin mà Florey gửi cho để chữa khỏi một
bệnh nhân tại bệnh viện Saint Mary.

Năm 1945, Fleming được giải Nobel về y học cùng với
Florey và Chain. Ông trở thành Giám đốc Khoa tiêm chủng ở
Bệnh viện St. Mary. Ở tuổi 68, sau 4 năm góa vợ, Fleming tái
hôn với bà Amalia Voureka, một nữ bác sĩ người Hy Lạp và

là học trò của ông. Alexander Fleming qua đời năm 1955 do
một cơn đau tim, thọ 74 tuổi.

×