Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Thuốc và ăn uống khi cholesterol cao doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.2 KB, 8 trang )



Thuốc và ăn uống khi
cholesterol cao

Với người bị cholesterol máu cao, điều trị bằng thuốc
không phải lúc nào cũng tốt; chưa nói đến các thuốc này
thường đắt, không phải ai cũng đủ khả năng mua lâu dài.
Các chuyên gia tim mạch đã đưa ra giải pháp hợp lý và
hiệu quả, đó là kết hợp điều trị
bằng thuốc và thức ăn.
Bình thường cholesterol là chất cần
thiết và có lợi, vì nó là thành phần
cấu tạo chủ yếu của màng, sợi thần kinh, hormone (như
hormone sinh dục nam, nữ), vitamin (như vitamin D), giúp
gan sản xuất ra acid mật, có lợi cho tiêu hóa.
Người ta chia cholesterol thành hai loại:
- Loại có lợi: Là loại phức hợp giữa cholesterol với
lipoprotein phân tử lượng cao, có chức năng mang
cholesterol tích trong mạch máu ra ngoài.

- Loại có hại: Là loại phức hợp giữa cholesterol với
lipoprotein phân tử lượng thấp, có chức năng làm cho chất
béo bám vào thành mạch gây xơ mỡ động mạch.
Bình thường lượng cholesterol toàn phần nhỏ hơn 200mg%.
Khi lớn hơn 240mg% là cao. Tuy nhiên chỉ khi nào loại
cholesterol có hại quá cao (lớn hơn 180mg%) và loại
cholesterol có lợi quá thấp (dưới 35mg%) thì lúc đó mới có
sự rối loạn cân bằng cholesterol. Thầy thuốc căn cứ vào sự
rối loạn cân bằng này và tiền sử bệnh tật của người bệnh mới
quyết định có dùng thuốc hay không. Ðừng vì hiểu không


thấu đáo, quá lo lắng, tự ý mua thuốc dùng.
Điều trị bằng thuốc
Thuốc làm hạ cholesterol thường có 4 nhóm chính, nhưng
thường dùng nhất là nhóm fibrat và statin.
- Nhóm fibrat: biệt dược thông dụng là lypanthyl (viên
100mg, 300mg), làm giảm loại cholesterol có hại, tăng
cholesterol có lợi, lập lại cân bằng bình thường về hai loại
này. Nhờ thế làm giảm hẳn lượng cholesterol trong máu (nếu
dùng lâu dài) và từ đó làm giảm nguy cơ xơ mỡ động mạch.
Tuy nhiên thuốc loại này thường làm tổn thương cơ (thường
xảy ra hơn đối với người bị đau cơ lan tỏa), ảnh hưởng xấu
đến thận và gan (làm tăng chỉ số transaminnaza). Vì thế
không được dùng cho người suy gan thận, với người bình
thường khi dùng cũng phải định kỳ kiểm tra chức năng gan
(đo chỉ số transaminaza).
- Nhóm statin: Biệt dược thông dụng là lescol (viên 20mg).
So với nhóm trên, thì nhóm này làm giảm cholesterol có hại
và tăng cholesterol có lợi với mức mạnh hơn, do đó ngăn
ngừa tốt hơn nguy cơ xơ mỡ động mạch và một số bệnh tim
khác.
Một ưu điểm khác là thuốc được hấp thu nhanh và hoàn toàn
(khoảng 98%). Thuốc có những tác dụng độc như nhóm trên
nên cũng có khuyến cáo tương tự. Ngoài ra chưa có các
thông tin đầy đủ cho trẻ dưới 18 tuổi nên không nên dùng
cho đối tượng này.
- Nhóm niacin: biệt dược thông dụng niacin (viên nén 5, 50,
100, 150 và 500mg, ống tiêm 1ml chứa 0,17% niacin). Thuốc
làm giãn nở các động mạch nhỏ, mao mạch, giảm cholesterol
máu. Thường dùng phối hợp với nhóm statin.
Cần thận trọng khi dùng cho phụ nữ có thai, cho con bú,

không dùng cho trẻ em, hết sức thận trọng khi dùng cho
người sỏi mật, người có bệnh mạch vành. Theo dõi cẩn thận
người bệnh có tiền sử vàng da, có bệnh gan hay loét tiêu hóa
nếu phải dùng thuốc. Cấm dùng với người rối loạn chức năng
gan, loét tiêu hóa, chảy máu động mạch.
- Nhóm resin: biệt dược thông dụng là cholestyramin hoặc
cholestipal. Thuốc làm giảm loại lipoprotein phân tử lượng
thấp (tức gián tiếp làm giảm cholesterol có hại) và từ đó làm
giảm lượng cholesterol toàn phần xuống 25-30%, làm giảm
sự tích tụ lipít ngoài thành mạch.
Tuy nhiên bản chất của thuốc là nhựa trao đổi ion, không bị
hấp thu qua đường tiêu hóa, sau 3-6 tuần không dùng thuốc,
lượng lipoprotein phân tử lượng thấp và cholesterol toàn
phần lại tăng lên. Thuốc có thể gây táo bón và tiêu chảy, nôn,
nhưng sẽ tự mất đi khi ngừng dùng.
Hiện nay, người ta còn dùng một loại thuốc mới có tên là
lipotropic, thực chất là một hỗn hợp gồm các chất hướng mở,
vận chuyển mỡ. Hỗn hợp này làm tăng việc sản xuất ra
lecithin do đó giúp hòa tan cholesterol, giảm lượng
cholesterol thành mạch, ngăn ngừa nguy cơ xơ mỡ động
mạch
Những thuốc nói trên thường đắt, khó dùng. Thầy thuốc chỉ
cho khi có sự rối loạn mất cân bằng cholesterol thực sự và
khi tiền sử người bệnh không có bệnh tim mạch, tiểu đường.
Phòng chữa bệnh bằng ăn uống
Trong các trường hợp còn lại, thầy thuốc thường khuyên điều
trị bằng cách không dùng thuốc mà thực hiện chế độ ăn thích
hợp, cụ thể là:
- Phần năng lượng do chất béo cung cấp hàng ngày chỉ được
chiếm dưới 30% (khoảng 700Kcalo) so với tổng năng lượng

cần dùng hàng ngày (khoảng 2.200 Kcalo). Cơ cấu chất béo
phải thay đổi. Giảm các chất béo bão hòa (thịt mỡ, bơ, pho-
mát, margarin ). Nên ăn các loại chất béo chưa bão hòa (dầu
đậu nành, dầu hướng dương, dầu vừng ) vì chúng làm giảm
cholesterol toàn phần và giảm cholesterol có hại.
- Không ăn nhiều các thức ăn có cholesterol cao. Nhu cầu
hàng ngày là 300mg cholesterol. Một lòng đỏ trứng có trung
bình 215mg cholesterol. Thực phẩm hàng ngày không chỉ có
trứng mà còn có các loại chứa cholesterol khác (như thịt, sữa,
gan, bơ, lòng súc vật ). Mỗi tuần chỉ nên ăn ba quả trứng là
vừa. Trong 100g tôm có 195mg cholesterol nhưng ít ai ăn tới
100g tôm một ngày nên người ta không đề cập đến việc kiêng
tôm. Thịt có màu đỏ (bò, trâu, lợn ) có nhiều cholesterol và
acid béo hão hòa và sự hiện diện cả 2 chất này là không lợi
cho bệnh tim mạch.
- Ăn nhiều rau quả (vì chúng làm hạ lượng cholesterol) như
các loại táo, bưởi, cam, quýt, bắp cải, cải củ, cải bẹ, cải xanh,
cà rốt, cà chua, cà tím, đu đủ, tỏi, hành ta, hành tây, gừng ớt.
Mỗi ngày nên ăn 200 gam rau lá 100 gam củ, quả non, 200
gam quả chín.
- Ăn cá nhiều hơn ăn thịt, nên chọn loại cá béo, loại chất béo
omega-3 có trong mỡ cá béo sẽ làm giảm lipit máu, giảm
cholesterol máu.
Như vậy, người bị cholesterol cao không nên kiêng khem
quá; nếu biết cách ăn, vẫn có thể béo khỏe. Ngoài chế độ
dinh dưỡng nói trên, người bệnh còn cần vận động thường
xuyên kiên trì (như dọn dẹp, lên xuống cầu thang, tập thể
dục, chăm sóc cây cảnh ) để giảm mập.


×