Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thuận tình ly hôn thực tiễn giải quyết tại tòa án nhân dân quận ngô quyền, thành phố hải phòng (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.67 MB, 83 trang )

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các từ viết tất

MỞ ĐÀU.............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SÓ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VÈ THUẬN

TÌNH LY HƠN..................................................................................... 8

1.1.

Khái qt chung về thuận tình ly hơn............................................... 8

1.1.1.

Khái niệm ly hơn..................................................................................... 8

1.1.2.

Khái niệm và đặc điểm của việc thuận tình ly hơn.............................. 12

1.2.

Khái niệm, nội dung pháp luật về giải quyết thuận tình ly
hơn tại Tịa án..................................................................................... 16


1.2.1.

Khái niệm pháp luật về giải quyết thuận tình ly hơn...........................16

1.2.2.

Nội dung pháp luật về giải quyết thuận tình ly hơn tại tịa án.......... 18

1.3.

Các yếu tố đẳm bảo hiệu quá thực tiễn áp dụng pháp luật về
thuận tình ly hơn............................................................................... 35

Kết luận chương 1.......................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: THựC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KHI GIẢI
QUYẾT THUẬN TÌNH LY HƠN TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN

QUẬN NGƠ QUYỀN THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG..................... 42
2.1.

về căn cứ thuận tình ly hôn............................................................. 42

2.2.

về thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hơn...... 46

2.3.

về thụ lý đon u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn...................... 50


2.4.

Hịa giải việc u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn....................... 52

2.5.

về thủ tục xem xét nguyện vọng của dúa trẻ từ đủ 7 tuổi trở lên..... 56


2.6. Nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập...................................... 59
Kết luận chuo’ng 2........................................................................................... 61
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP

LUẬT VỀ THUẬN TÌNH LY HƠN TẠI TỊA ÁN....................... 62
3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quă áp

dụng pháp luật về thuận tình ly hơn............................................... 62
3.1.1.

Khắc phục hạn chế, thiếu sót của pháp luật......................................... 62

3.1.2.

Hồn thiện các thiết chế giải quyết thuận tình ly hơn mà trọng
tâm là thiết chế tòa án............................................................................ 63

3.1.3.


Đáp ứng các yêu cầu của xu thế hội nhập............................................ 64

3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về thuận tình ly hơn............................................... 65

3.2.1.

Giải pháp hồn thiện pháp luật về thuận tình ly hơn......................... 65

3.2.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thuận tình ly hơn

69

Kết luận chưong 3.......................................................................................... 74

KỂT LUẬN...................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 76


DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT

BLDS: Bộ luật Dân sự

XHCN: Xã hội chủ nghĩa



MỎ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của việc nghiên cún
Kết thúc cuộc hơn nhân khơng cịn hạnh phúc là sự lựa chọn cuối cùng
của nhiều cặp vợ chồng. Rõ ràng khi hơn nhân khơng tìm được tiếng nói
chung thì chắc chắn ai cũng mong muốn thủ tục ly hôn được giải quyết nhanh

gọn và êm đẹp nhất. Pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam thực

hiện và bão hộ ngun tắc tự do hơn nhân, trong đó có quyền tự do ly hôn của
vợ chồng, với quan điểm, Nhà nước bằng pháp luật không thể bắt buộc cá

nhân phải kết hơn thì cũng khơng thể bằng pháp luật bắt buộc vợ chồng phải
duy trì quan hệ hơn nhân khi giữa vợ chồng đã có những mâu thuẫn sâu sắc

và khơng cịn mong muốn chung sống với nhau. Ly hôn được coi là tất yếu,
khách quan khi hôn nhân đã “chết” [2]. Ngày nay, ly hơn đã được nhìn nhận

đúng với bản chất tích cực và tiến bộ của nó. Dưới góc độ pháp lý, ly hơn

được ghi nhận là một chế định độc lập của Luật Hôn nhân và gia đình, nó là
cơ sở cho tịa án và các bên đương sự giải quyết vấn đề ly hôn một cách thấu
tình đạt lý, góp phàn giải phóng con người ra khỏi sự ràng buộc khơng cần

thiết khi tình cảm vợ chồng khơng cịn nữa.
Thực tiễn ở Việt Nam trong những năm gần đây, cùng với sự phát triền
của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ của thời đại công nghệ thông tin và

cùng với sự du nhập của nhiều nền văn hóa, tư tưởng, lối sống phương tây đã
làm thay đối rất nhiều quan điểm, lối sống và lý tưởng ở mỗi người đặc biệt là

trong quan hệ gia đình biểu hiện rõ nhất là số vụ ly hơn ngày càng gia tăng và
thuận tình ly hơn là một trong nhũng căn cứ ly hôn phổ biến ở Việt Nam hiện

nay. Tại Tòa án nhân dân quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng trong những
năm qua cũng đã áp dụng Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 đế giải quyết
nhiều vụ việc thuận tình ly hơn. Nhìn chung, các vụ việc được giải quyết theo

quy định của pháp luật đạt hiệu quả cao với phương châm “đạt lý, thấu tình”

1


đảm bảo quyên lợi của các đương sự nhât là quyên lợi của người vợ và các
con chưa thành niên. Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều vụ việc thuận tình ly hôn chưa

được giải quyết một cách dứt điểm dẫn đến việc khiếu kiện kéo dài qua nhiều
cấp xét xử. Và nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên một phần là do tính chất

đa dạng, phức tạp của các quan hệ tài sản vợ chồng, mặt khác cũng cho thấy

những bất cập, khiếm khuyết, còn chung chung, chưa cụ thể, chưa đi sát vào
thực tiễn cuộc sống của các quy định pháp luật về hơn nhân và gia đình. Các

quy định pháp luật này đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc gây khó khăn
thậm chí lúng túng trong q trình áp dụng pháp luật của các đương sự cũng

như của tịa án khi giải quyết các vụ án thuận tình ly hơn. Thực trạng trên cho
thấy, có một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về chế định thuận tình ly hôn
nhằm nhận dạng những khuyết thiếu của pháp luật dưới góc độ thực tiễn áp


dụng là hết sức cần thiết. Đây chính là lý do tác giả lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “Thuận tình ly hơn: Thực tiễn giải quyết tại Tịa án nhân dân quận

Ngơ Quyền thành phố Hải Phịng”.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến chủ đề "Thuận tĩnh ly hơn: Thực tiền giải quyết tại Tịa
án nhân dân quận Ngơ Quyền thành pho Hải Phịng” là vấn đề thu hút được

sự quan tâm cùa nhiều nhà khoa học, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu có

liên quan đến chủ đề này như:
Tác giả Đinh Thị Minh Mần (2014), "Giải quyết tranh chấp về chia tài

sản chung của vợ chồng khi ly hôn ”, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học

quốc gia Hà Nội. Ớ cơng trình khoa học này, tác giả đã nêu và phân tích cơ sở
lý luận và pháp luật của việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng

khi ly hôn như: Khái niệm, nội hàm tài sản chung của vợ chồng, căn cứ pháp

luật của việc giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng, các yếu tố bảo đảm

hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng

2


khi ly hơn, đơng thời tác giả phân tích thực trạng áp dụng pháp luật vê quyêt

tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn... Tuy nhiên, ở cơng

trình này tác giả chỉ tập chung nghiên cứu vấn đề về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn.

Tác giả Nguyễn Thị Thơm (2015), “Căn cứ ly hơn theo Luật hơn nhân
và gia đình năm 2014 ”, luận văn thạc sỹ Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội.

Ớ cơng trình này tác giả đã nghiên cứu các căn cứ ly hơn trong đó có căn cứ
thuận tình ly hơn, đánh giá các căn cứ này trong quá trình áp dụng vào giải

quyết các vụ việc ly hơn trên thực tế, từ đó tác giả có một số đề xuất hoàn
thiện pháp luật...

Tác giả Nguyễn Thị Thùy Linh (2015), “Thủ tục giải quyết việc thuận
tình ly hơn và thực tiễn giải quyết tại các tịa án ở tỉnh Thái Bình ”, luận văn

thạc sỹ Trường Đại học Luật Hà Nội. Tại cơng trình này, tác giả đã nghiên

cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hơn,
nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết
việc thuận tình ly hơn, đánh giá thực tiễn thi hành thủ tục giải quyết và kiến

nghị hoàn thiện.

Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hơn trong Luật Hơn nhân
và gia đình năm 2014” của tác giả Lê Đức Hiền năm 2018 đăng trên trang

web: Trong bài viết, tác
giả đã phân tích những bất cập trong việc áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết
các vụ việc ly hôn như: Bất cập trong việc đánh giá tình trạng trầm trọng của


hơn nhân trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của vợ hoặc chồng; Bất cập
đối với vợ chồng đã ly thân trên thực tế ... Từ đó, tác giả kiến nghị hồn thiện

pháp luật vê căn cứ ly hơn.
y

r

Bài viết: “Ngun tăc chia tài sản chung của vợ chông khi ly hôn ” năm

3


2019 của tác giả Nguyên Xuân Bình và Lê Vân Anh đăng trên trang web:

/>
vo-chong-khi-ly-hon. Trong bài viết này các tác giả tập trung phân tích quy
định cúa pháp luật hiện hành về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn, đồng thời chỉ ra những vướng mắc trong thực tiền áp dụng.
Bài viết “Căn cứ ly hôn trong pháp luật Việt Nam ” năm 2020 của tác

giả Nguyễn Văn Cừ đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11 (411),
tháng 6/2020. Tác giả cho rằng: Ly hơn khơng chỉ liên quan đến lợi ích của cá

nhân vợ, chồng mà còn ẩn chứa, ảnh hưởng tới lợi ích cùa gia đinh và xã hội.
Bới vậy, sự cần thiết bằng pháp luật, Nhà nước kiểm soát quyền tự do ly hôn

của vợ chồng thông qua quy định về căn cứ ly hơn.

Ngồi ra, cịn có giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam của

Trường Đại học Luật Hà Nội; Sách Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2004 của tác giả Nguyễn Ngọc Điện; Sách một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 của tác giả

Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường ... Các cơng trình này đều đề cập đến các

kiến thức pháp lý cơ bản và khái quát về chế định ly hơn trong đó có nội dung

về thuận tình ly hơn.

Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu nói trên của các tác giả về cơ
bản đã tiếp cận chế định ly hơn nói chung và thuận tình ly hơn nói riêng từ
nhiều góc độ khác nhau. Một số cơng trình nghiên cứu cũng đã có dẫn chiếu,

liên hệ thực tiễn áp dụng một số quy định pháp luật. Tuy nhiên, sự liên hệ,
phân tích đó chỉ có tính chất minh họa cho một số trường họp cụ thể mà chưa
có sự soi chiếu một cách tổng thể, tồn diện tất cả các khía cạnh của thuận

tình ly hơn vào thực tiễn và cũng chưa có cơng trình nào nghiên cứu thực tiễn
giải quyết về thuận tinh ly hơn tại Tịa án nhân dân quận Ngơ Quyền thành

phố Hải Phịng. Hơn nữa, nhiều cơng trình trong số này là sản phẩm nghiên

4


cứu dựa trên Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, mặc dù vân chứa đựng

nhiều tư liệu tham khảo có giá trị nhưng đã khơng cịn bắt kịp với sự thay đổi
và cải tiến trong quy định của pháp luật.


3. Mục
tiêu và nhiệm
vụ• nghiên cứu


- Mục tiêu nghiên cứu là: Làm sáng tò những vấn đề lý luận pháp luật

về thuận tình ly hơn, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật khi giải quyết thuận

tình ly hơn tại Tịa án nhân dân quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng, từ đó
đề xuất định hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật về thuận tình ly hơn ở
Việt Nam hiện nay.

- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
+ Phân tích khái niệm, đặc điểm của việc thuận tình ly hôn; Khái niệm,
nội dung pháp luật điều chỉnh về thuận tình ly hơn và giải quyết thuận tình ly
hơn tại tòa án.

+ Chỉ ra các yếu tố bảo đảm hiệu quả áp dụng pháp luật về thuận tình

ly hơn.
+ Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật khi giải quyết thuận tình ly hơn

tại Tịa án nhân dân quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng.
+ Đe xuất định hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật về thuận tình
ly hôn ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tưọng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:


+ Các cơng trình khoa học đã được các tác già, cá nhân và các tổ chức
công bố trong các nghiên cứu có liên quan.

+ Hệ thống các quan điềm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

+ Các quy định của pháp luật Việt Nam và thế giới về thuận tình ly hơn.
+ Các vụ việc thực tế có liên quan đến việc giải quyết thuận tình ly hôn.

- Phạm vi nghiên cứu: Đe tài tập trung nghiên cứu các quy định của

5


pháp luật vê thuận tình ly hơn tại các văn bản quy phạm pháp luật điêu chỉnh

trực tiếp như Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự 2015, Bộ
luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và các văn bàn pháp luật khác có liên quan.

Tất nhiên, đề phục vụ cho việc so sánh, đối chiếu cơ sở pháp lý và thực tiễn
áp dụng pháp luật về thuận tình ly hơn, đề tài sẽ tìm hiếu các quy định của

pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật trước đây của Việt Nam có liên

quan để đánh giá lịch sử, để so sánh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác-Lênin, phương pháp biện chứng duy vật về mối quan hệ giữa các

hiện tượng, sự vật, giữa con người với xã hội, đồng thời dựa trên quan điểm

của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng xã hội tự do, dân chủ, cơng bằng và
bảo đảm quyền con người. Bên cạnh đó, luận văn đã sử dụng chủ yếu các

phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản khác sau đây:
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này dùng để phân tích, giải

thích và hệ thống hóa các quy định cụ thể của các hệ thống pháp luật được
nghiên cứu. Mục đích của việc sử dụng phương pháp này là cung cấp một cái
nhìn tồn diện, đầy đủ về các quy định liên quan đến việc thuận tình ly hơn.

Qua đó, có cơ sở để đánh giá thực tiễn cũng như đề xuất các định hướng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuận tình ly hơn ớ Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được dùng đế xác định
những điếm giống nhau và khác nhau của các quy định trong các hệ thống

pháp luật được nghiên cứu liên quan đến việc thuận tình ly hơn giữa pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế và giữa các quy định pháp luật Việt Nam với

nhau. Qua đó, thấy được sự tương đồng, khác biệt làm luận cứ xác thực cho
việc đưa ra các giải pháp khắc phục những bất cập của pháp luật hiện nay.

- Phương pháp nghiên cứu phân tích tình huống thực tiễn: Một số các

6


tình hng, vụ việc thực tiên liên quan đên thuận tình ly hơn sẽ được lựa chọn
để phân tích. Việc phân tích các tình huống nhằm tìm hiểu và đánh giá việc áp

dụng các quy định liên quan trên thực tiễn, tìm ra những điểm chưa đầy đủ,

những điểm cịn bất họp lý trong các quy định của pháp luật. Đồng thời, việc
sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống thực tiễn sẽ bố trợ cho những lý

lẽ, luận giải và kiên nghị mà nghiên cứu đưa ra.
- Phưong pháp tông hợp: Phương pháp này được sử dụng qua việc thu
thập các tài liệu, tổng họp các ý kiến khác nhau để giải quyết các vấn đề về
y

r

r

trúc pháp luật vê thuận tình ly hơn ở Việt Nam hiện nay.

6. Y nghĩa khoa học và thực tiên của đê tài
Kêt quả nghiên cứu của đê tài góp phân bơ sung vào kiên thức lý luận

về chế định ly hơn nói chung và thuận tình ly hơn nói riêng ở Việt Nam hiện
nay. về mặt thực tiễn, đề tài là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và

giảng dạy trong khoa học luật Dân sự, luật Hôn nhân và gia đình cũng như

các cơ quan áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp liên quan đến chế

7. Kêt câu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được chia thành 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận pháp luật về thuận tình ly hơn.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật khi giải quyết thuận tình ly hơn

tại Tịa án nhân dân quận Ngơ Qun thành phơ Hải Phịng.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao

hiệu quả áp dụng pháp luật vê thuận tình ly hơn ở Việt Nam hiện nay.

7


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
VÈ THUẬN TÌNH LY HƠN

1.1. Khái qt chung về thuận tình ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Khi xã hội ngày càng phát triển thì kéo theo đó là những hệ lụy với
những mối quan hệ vơ cùng phức tạp, điều đó cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến

cuộc sống của mỗi gia đình, do khơng hài hịa được cuộc sống vợ chồng,
nhiều cặp vợ chồng đã chọn giải pháp ly hôn để giải quyết mâu thuẫn [29].

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn

của nam nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ
chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn theo đúng

bản chất của nó - đó là hơn nhân "đã chết", sự tồn tại của nó chỉ là bề

ngồi và lừa dối [1, tr.l 19]. Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý

- Bộ Tư pháp, ly hôn được hiểu là: “Chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tịa án

nhân dân cơng nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả
hai vợ chồng” [20, tr. 460], Khái niệm này được sử dụng nhiều trong các
nghiên cứu, giải thích cho các đương sự liên quan trong thực tiễn giải quyết
vụ việc ly hôn và ly hơn được phán ánh rõ nét, đó là việc “chấm dứt quan hệ

vợ chồng”, nghĩa là giữa hai bên vợ chồng khơng cịn tồn tại quan hệ hơn

nhân, mọi quyền và nghĩa vụ của hai bên sẽ được pháp luật giải quyết thỏa
đáng, đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Quan điểm khác cho rằng: “Thực ra tự do ly hơn tuyệt khơng có nghĩa

là làm “tan rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nỏ cúng cố những

mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và

vững chắc trong một xã hội văn minh” [19, tr. 355], Theo quan điểm của chủ

8


nghĩa Mác - Lênin, ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai câp sâu săc.
Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mồi chế độ xã hội khác nhau,

giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật (hay tục lệ) quy
định chế độ hơn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nước. Tức là Nhà nước bằng
pháp luật quy định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời

xác lập trong những điều kiện căn cứ nhất định mới được phép xóa bở (chấm

dứt) quan hệ hơn nhân.
Pháp luật về ly hôn của mồi nước trên thế giới là khác nhau. Pháp luật

của Nhà nước xã hội chủ nghĩa cơng nhận quyền tự do ly hơn chính đáng của

vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền

tự do ly hôn. Pháp luật của nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản quy định có
thể cấm ly hơn, khơng quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ
chồng được sống tách biệt nhau bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly

hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuồi của vợ chồng; và
thường quy định xét xử ly hôn dựa trên co sở lồi của vợ, chồng hay của cả hai

vợ chồng [14, tr. 11], Một số nước Châu Âu mới từ bở quan niệm cấm ly hôn
cách đây không lâu: Ở Ý từ năm 1975, ở Tây Ban Nha từ năm 1982. Ở các nước

này theo đạo Thiên Chúa, với quan niệm sự gắn bó giữa vợ chồng là do Thiên
Chúa thiết lập. Bởi đó, “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, lồi người khơng được
phân ly” [40], vì phá đổ sự kết họp này chính là phá đổ cơng trình của Thiên
Chúa, là bơi bác hình ảnh của Thiên Chúa đã có trong cuộc sống hôn nhân.
Xã hội phong kiến ở Việt Nam trải dài hàng ngàn năm. Trong các quan

hệ xã hội, đặc biệt đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình, tư tưởng nho

giáo thống trị với những lễ giáo được thể chế trở thành pháp luật. Theo đó,

bên cạnh những phong tục, tập quán, những quy định của pháp luật mang tính

truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà ngày nay vần được gìn giữ và phát huy

(sự yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau giữa những người thân thuộc

9


trong gia đình; tình nghĩa thủy chung của vợ chơng; nghĩa vụ kính trọng,

phụng dưỡng của con, cháu đối với cha mẹ, ơng bà...); thì những tập tục,
những quy định thể hiện sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa vợ và

chồng, giữa các con trong gia đình ... cũng được duy trì như bản chất của xã
hội phong kiến “trọng nam, khinh nữ”. Pháp luật bảo đảm thực hiện quyền

yêu cầu ly hôn và căn cứ ly hôn thường chỉ thuộc về người chồng. Bộ luật
Hồng Đức (Quốc triều hình luật thời Nhà Lê) và Bộ luật Gia Long (thời nhà

Nguyễn) là hai đạo luật của xã hội phong kiến ở Việt Nam (được khảo cứu

còn nguyên vẹn cho đến ngày nay), khi quy định về căn cứ ly hôn đã dựa trên

cơ sở lỗi của vợ, chồng; đặc biệt là “tội”, “lồi” của người vợ. Theo quy định
về “thất xuất” của Bộ luật Hồng Đức, người chồng buộc phải bỏ (ly hôn) vợ
khi người vợ bị vơ từ (khơng có con), đa ngơn (lắm lời), ghen tng, gian

dâm với kẻ khác (ngoại tình, khơng chung thủy), có hành vi trộm cắp, bất

kính với cha, mẹ chồng, bị ác tật [22, tr. 147]; trường hợp vợ cả, vợ lẽ phạm


vào điều nghĩa tuyệt (thất xuất) mà người chồng giấu diếm, khơng bỏ (ly hơn)
thì bị xử tội biếm, tùy theo việc nặng nhẹ mà xử [21, tr. 147]. Đối với lồi của

người chồng, Bộ luật Hồng Đức quy định: Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 05

tháng không đi lại (vợ được trình quán sở tại và xã quan làm chứng) thì mất
vợ. Neu vợ đã có con, thì cho hạn một năm. Vì việc quan phải đi xa thi không
theo luật này. “Neu đã bở vợ mà lại ngăn cấm người khác lấy vợ cũ thì phái

tội biếm” [21, tr. 146], Quy định về nội dung căn cứ ly hôn của Bộ luật Hồng
Đức phản ánh xã hội và quan điểm lập pháp của nhà nước phong kiến ở Việt
Nam thời kỳ này: Phân biệt đối xử giữa vợ và chồng sâu sắc; thường chỉ có

người chồng mới thực hiện được quyền ly hơn vợ, cịn người vợ thường
khơng thực hiện được quyền ly hơn của mình. Nội dung của căn cứ ly hôn thể
hiện sự bất binh đẳng giữa vợ và chồng.
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật Hơn nhân và gia

10


đình nói riêng, việc đưa ra khái niệm đây đủ vê ly hơn có ý nghĩa quan trọng,
phản ánh quan điểm chung nhất của nhà nước ta về ly hôn, tạo cơ sở lý luận

cho việc xác định bản chất pháp lý của ly hôn, xác định nội dung, phạm vi
điều chỉnh của các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình về ly hơn và các

vấn đề phát sinh khác. Điều 8 Khoản 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

năm 2000 quy định: “Ly hơn là chấm dứt quan hệ hơn nhân do Tịa án cơng


nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ
chồng”. Điều 3 Khoản 14 Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quy

định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tịa án”.

Nhìn chung, khái niệm ly hơn của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014
có sự thay đổi cơ bản so với khái niệm ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2000. Tuy nhiên, về bản chất, hai điều luật đó đều phản ánh được ly
hơn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng, quan hệ hôn nhân, đế giúp các bên

trong quan hệ hôn nhân được giải thốt khỏi tình trạng hơn nhân đố vỡ. Khái

niệm ly hơn trong luật hơn nhân và gia đình năm 2014 mang tính chất chặt chẽ
hơn khi đề cập tới nội dung: “Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa
án”. Thơng qua đó để phản ánh tính quyền lực cùa nhà nước, cũng như phản

ánh bản chất của ly hơn nói riêng là mang tính chất giai cấp [14, tr. 13]. Tòa án
là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, có vai trị quan trọng trong việc

đóng góp phần tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật. Phán quyết ly
hơn của Tịa án thể hiện dưới hình thức: Bản án, quyết định. Neu hai bên vợ
chồng thuận tình ly hơn, giải quyết với nhau được tất cà các nội dung sau khi

ly hôn thì Tịa án cơng nhận ly hơn và ra quyết định dưới hình thức quyết định
cơng nhận thuận tình ly hơn. Neu vợ chồng mâu thuẫn, tranh chấp thì Tịa án xét

xử và ra phán quyết ly hôn dưới dạng bản án. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu

đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hồn tồn có lợi cho vợ,

11


chơng, con cái và các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt

tích cực của việc ly hơn, thì ly hơn có nhiều điểm tiêu cực: Gây chia rẽ quan hệ

gia đình, gây ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống và tương lai của các thành viên,
đặc biệt là các con, bên cạnh đó cịn ảnh hưởng tới xã hội [14, tr. 14],

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm ly hơn như sau: Ly
hơn chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án.

1.1.2. Khái niệm
và đặc
điểm của việc
thuận
tình ly
hơn




•/
1.1.2. ỉ. Khải niệm thuận tình ly hơn


Việc giải quyết ly hôn cần dựa trên các điều kiện nhất định phải được

tiến hành ở tòa án nhân dân. Pháp luật quy định việc thuận tình ly hơn là cơng
nhận và đảm bảo quyền tự do ly hơn chính đáng cùa hai bên vợ chồng. Ngược

lại với thuận tình ly hôn, ly hôn đon phương là trường hợp mà vợ hoặc chồng

u cầu ly hơn và hịa giải tại Tịa khơng thành, thì Tịa sẽ giải quyết cho ly
hơn căn cứ vào việc: Vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình; vi phạm
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho đời sống chung không thể kéo dài

và mục đích của hơn nhân khơng đạt được [30].
Theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình 2014 thì trong trường
hợp hai vợ chồng cùng có yêu cầu thuận tình ly hơn, sự tự nguyện của hai vợ
chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cử quyết định việc chấm dứt

hôn nhân. Tự nguyện ly hôn là cả hai vợ chồng đều tự do trình bày nguyện
vọng, ý chí, khơng cưỡng ép, khơng bị lừa dối trong việc thuận tình ly hơn.

Việc thề hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn phải xuất phát từ trách nhiệm đối
với gia đình, phù họp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội

và nhu cầu cùa bản thân chủ thề trong việc quyết định ly hôn; đồng thời cà hai
bên đều nhận thức được hậu quả của việc ly hôn [14, tr. 33].

Cộng hịa Pháp là quốc gia có nền độc lập phát triển và có ảnh hưởng

12



lớn tới các nước trong khu vực và thê giới. Bộ luật Napoleon 1804 là sản

phẩm pháp điển hóa, là khuôn mẫu để các nước khác xây dựng luật pháp về
dân sự, trong đó có quy định về hơn nhân và gia đình. Theo quan điểm hiện

hành, hơn nhân là sự gắn kết đời sống của hai bên nam nữ dựa trên cơ sở tự
nguyện, bình đắng, chân chính. Trường hợp các bên có lồi nghĩa là đã tự mình
phá vỡ quan hệ tình cảm, hơn nhân giũa các bên. Tuy nhiên, trường hợp hai

bên thuận tình ly hơn, khơng xem xét tới yếu tố lồi. Điều 230 Bộ luật

Napoleon quy định: “Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì phải nói rõ lý do”,
quy định này có phàn tiến bộ vì đã đảm bảo quyền tự do ý chí cũng như
quyền bình đẳng của các bên trong quan hệ hôn nhân. Trong trường hợp này,

các căn cứ ly hôn được xác định nếu việc ly hôn do một trong hai bên làm cho
đời sống hôn nhân không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận ly hơn thì Thẩm

phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần xem xét tới yếu tố lồi. Quy định này
phù hợp với bản chất của hôn nhân theo quy định của pháp luật Pháp là một
hợp đồng dân sự [14, tr. 31],
Trong việc thuận tình ly hơn, sự tự nguyện ly hơn của vợ chồng có ý

nghĩa quan trọng để tịa án cơng nhận hay khơng cơng nhận sự thuận tình ly
hơn của họ. Tịa án chỉ cơng nhận thuận tình ly hôn khi cà hai vợ chồng cùng
thực sự mong muốn được chấm dứt hôn nhân do cuộc sống chung không thể

kéo dài vì tình cảm giữa họ khơng cịn, mâu thuẫn giữa vợ, chồng trở nên

trầm trọng, mục đích cúa hơn nhân khơng đạt được và tịa án đã tiến hành hịa


giải nhưng khơng thành. Đối với các trường hợp vợ chồng xin thuận tình ly
hơn nhưng qua điều tra cho thấy một trong hai vợ chồng hoặc cả hai vợ chồng

vì nơng nổi, tự ái, sĩ diện, bị cưỡng ép, bị lừa dối nên đã làm đơn thuận tình ly
hơn hoặc cả hai tạo ra việc thuận tình ly hơn giả thì tịa án cần bác đơn thuận

tình ly hơn của họ để tiếp tục hịa giải đồn tụ gia đình [34].
Thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng

13


dẫn đến ly hơn hay thuận tình ly hơn cũng là do tình cảm của vợ chồng bị rạn

nứt, một trong hai bên đã khơng làm trịn nghĩa vụ của mình với gia đình hay
vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình nên đã
quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ được ly hơn. Nhưng khi có sự

giải thích, phân tích đúng, sai trong quan hệ cùa họ của người làm cơng tác
hịa giải đề khun họ nên bỏ qua những lầm lỗi, tha thứ cho nhau để quay lại
chung sống với nhau thì họ đã hiếu ra và quay lại đồn tụ chung sống với

nhau và Tịa án cũng không phải giải quyết về các vấn đề kéo theo như con và
tài sản. Neu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đon thuận tình ly hơn thì tịa án
lập biên bản hoà giải thành. Trong trường hợp vợ chồng cùng u cầu xin ly

hơn thì tịa án vẫn tiến hành hồ giải. Việc cho ly hơn trong trường hợp thuận
tình này đối với tịa án là khơng phải dễ, bởi vì khó có thể định lượng khi chỉ
dựa trên yếu tố thỏa thuận tự nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu không xem


xét đến các yếu tố tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đến đâu, mức độ ảnh hưởng
đến cuộc sống hôn nhân đến cấp độ nào và gắn với việc thỏa thuận của họ đến
đâu về việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con sau khi ly hơn [35].
Như vậy, thuận tình ly hơn là trường họp hai bên hồn tồn tự nguyện

ly hơn đồng thời thỏa thuận được tồn bộ các vấn đề về tình cảm, về quyền

nuôi con, cấp dưỡng nuôi con, về việc chia tài sản chung khi ly hơn...

1.1.2.2. Đặc
điểm của việc
thuận
tình ly hơn




Thứ nhất, các đương sự trong việc dân sự u cầu cơng nhận thuận
tình ly hơn khơng có tranh chấp với nhau về quyền và lợi ích hợp pháp.

Đây là một trong những đặc điếm cơ bản của việc dân sự đế giúp phân biệt
giữa việc dân sự và vụ án dân sự. Trong vụ án dân sự, các đương sự có
tranh chấp với nhau về quyền và lợi ích cịn việc dân sự thì khơng. Sở dĩ

việc dân sự khơng có tranh chấp giữa các đương sự là do các đương sự đã

tự thỏa thuận được với nhau về các tình tiết trong sự việc, những quyền và

14



lợi ích giữa các đương sự và họ cùng yêu câu Tịa án cơng nhận sự thỏa

thuận đó. u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn là loại việc khơng có tranh

chấp, đương sự chỉ u cầu Tịa án xác định một sự kiện pháp lý làm phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của họ [36]. Vì vậy,

trong thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hơn pháp luật khơng quy định
Tịa án phải mở phiên tòa mà mở phiên họp để giải quyết yêu cầu cơng

nhận thuận tình ly hơn. Mặt khác, pháp luật cũng không quy định thủ tục
tranh luận tại phiên họp. Sau khi nghe các bên đương sự trình bày và đại
diện Viện kiểm sát phát biểu, thẩm phán xem xét ra quyết định giải quyết

việc dân sự [24].

Thứ hai, trong thuận tình ly hơn, vợ chồng cùng thể hiện ý chí là mong
muốn được ly hơn, sự thể hiện ý chí phải thống nhất giữa hai bên vợ chồng.
- Vợ chồng cùng thế hiện ý chí là mong muốn ly hơn. Đổi với trường
hợp thuận tình ly hơn thì yếu tố “ý chí là yếu tố quan trọng nhất” [9, tr. 8],
Hai bên vợ chồng cùng thể hiện ý chí muốn ly hôn vào cùng một thời điểm và

được thề hiện bằng đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn, đây là quyền
gắn liền với nhân thân của vợ chồng và là đặc trung để phân biệt với trường
họp ly hôn theo yêu cầu một bên.

- Sự thể hiện ý chí phải thống nhất với ý chí của hai bên vợ chồng. Đó
phải là sự tự do lý trí, khơng bên nào bị cưỡng ép, lừa dối. Khoản 9 Điều 3

Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy định cưỡng ép ly hôn là việc đe

dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác

để buộc người khác hải ly hôn trái với ý muốn của họ. Vợ chồng chỉ được coi
là tự nguyện ly hôn nếu mỗi bên vợ, chồng đều không bị tác động bởi bên kia
hay bất kì bên nào khác khiến họ phải ly hơn trái với nguyện vọng của mình,

khơng phải ly hơn giả tạo.

15


Thứ ba, việc dân sự yêu câu công nhận thuận tình ly hơn khơng có
ngun đơn và bị đơn như trong vụ án ly hơn vì khơng có tranh chấp mà chỉ có

người u cầu Tịa án cơng nhận thuận tình ly hơn [26]. Từ u cầu cùa
đương sự, Tịa án sẽ công nhận hoặc không công nhận yêu cầu cơng nhận
thuận tình ly hơn và từ đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cùa các đương sự.

Thứ tư, việc quy định về thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hơn đã

đơn giản hóa thủ tục giải quyết vụ việc, rút ngắn được thời gian giải quyết
vụ việc, giám áp lực về cơng việc cho các Tịa án. u cầu cơng nhận
thuận tình ly hơn là việc giữa các đương sự khơng có tranh chấp nên thủ

tục giải quyết cần đơn giản hơn thủ tục giải quyết vụ án dân sự xin ly hơn.
Việc Tịa án giải quyết u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn theo thủ tục

giải quyết việc dân sự sẽ rút ngắn thời gian giải quyết, giảm áp lực cơng

việc cho Tịa án khi phải giải quyết một số lượng vụ việc lớn, các Thẩm

phán cũng có nhiều thời gian đế nghiên cứu những vụ việc có tính chất
phức tạp hơn, từ đó nâng cao được hiệu quả giải quyết các vụ việc.

Thứ năm, về nguyên tắc áp dụng pháp luật trong thủ tục giải quyết việc
thuận tình ly hơn. về cơ bản, các nguyên tắc cùa tố tụng dân sự được quy định

trong Bộ luật Tố tụng Dân sự được áp dụng đế giải quyết việc cơng nhận thuận
tình ly hơn. Tuy nhiên, khơng phải tất cả các ngun tắc đó đều được áp dụng
đe giải quyết việc cơng nhận thuận tình ly hơn như vụ án dân sự mà do tính
chất đặc thù của việc dân sự nên có một số nguyên tắc không được áp dụng

như nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử hay nguyên tắc tòa án xét
xứ tập thể cũng không được áp dụng khi giải quyết việc dân sự [9, tr. 14].

1.2. Khái niệm, nội dung pháp luật về giải quyết thuận tình lỵ hơn
tại Tòa án

1.2.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết thuận tình ly hơn
Nếu như việc xác lập quan hệ hơn nhân hợp pháp được thực hiện bởi

16


một thủ tục hành chính tại ủy ban nhân dân câp có thâm qun theo quy định
của Luật Hơn nhân và gia đình thì việc chấm dứt quan hệ hơn nhân giữa vợ và

chồng lại là một thủ tục tư pháp được thực hiện tại tòa án nhân dân theo quy


định của pháp luật tố tụng dân sự.

Yêu cầu công nhận thuận tình ly hơn được quy định tại khoản 2 Điều
29 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 với tư cách là một trong số những loại

việc hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án. Theo quy

định này, u cầu thuận tình ly hôn là một loại việc dân sự nên việc giải quyết
yêu cầu này cũng được thực hiện theo thủ tục giải quyết việc dân sự. Tuy

nhiên, việc yêu cầu thuận tình ly hơn có điểm khác biệt so với việc dân sự

khác là các đương sự yêu cầu Tòa án xác định những sự kiện pháp lý mà quan
hệ hôn nhân giữa họ phụ thuộc vào nó và thơng qua đó quyết định chấm dứt
quan hệ hơn nhân giữa họ [18, tr. 11]. Vì vậy, bên cạnh việc giải quyết theo
quy định chung về giải quyết việc dân sự cũng cần có những quy định riêng

về thủ tục giải quyết loại việc này.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thi sẽ có hai

trường hợp Tịa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự:
Trường hợp một, ban đầu vợ hoặc chồng khởi kiện vụ án ly hơn, trong
q trình giải quyết vụ án Tịa án tiến hành hịa giải đồn tụ hoặc để các
đương sự tự thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp; nếu các đương sự khơng

đồn tụ và tự thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án theo
hướng thuận tình ly hơn. Theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng Dân sự

năm 2015 thì Tịa án ra quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự


về việc ly hôn thuận tình (quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn và sự thỏa
thuận của các đương sự).

Trường hợp hai, vợ và chồng cùng nộp đơn yêu cầu hoặc ký vào đon có

nội dung u cầu Tịa án cơng nhận thuận tình ly hơn, thỏa thuận ni con,

17


chia tài sản chung thì thụ lý theo trình tự việc dân sự, trong trình tự giải quyêt
việc dân sự Tịa án hịa giải cho các đương sự đồn tụ nhưng không thành và

các đương sự vẫn giữ quan điểm theo yêu cầu; Theo quy định tại Điều 397 Bộ

luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì Tịa án ra quyết định cơng nhận thuận tình
ly hơn và sự thỏa thuận của các đương sự.
về thủ tục tố tụng, quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn ở trường
hợp một là kết quả của thủ tục giải quyết vụ án dân sự của Tịa án; cịn quyết

định cơng nhận thuận tình ly hơn ở trường hợp hai lại là kết quả của thù tục
giải quyết việc dân sự của Tòa án.
Như vậy, pháp luật về giải quyết thuận tình ly hơn là tập hợp những

quy định pháp luật mà tịa án áp dụng để công nhận hoặc không công nhận
yêu cầu thuận tình ly hơn cùa đương sự.

1.2.2. Nội dung pháp luật về giải quyết thuận tình ly hơn tại tịa án
1.2.2.1. về căn cứ thuận tình ly hơn
Dù là ly hôn theo yêu cầu của một bên hay thuận tình ly hơn thì khi nộp


đơn, đương sự đều phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu

ly hơn của mình là có căn cứ và hợp pháp. Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014 khơng quy định căn cứ ly hôn thành một điều luật riêng như Luật hơn

nhân và gia đình năm 2000 và từ khi có Luật mới đến nay, chưa có văn bản
chính thức nào quy định và hướng dẫn về việc áp dụng các căn cứ để cho ly

hôn. Căn cứ vào các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 và Bộ

luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về giải quyết ly hơn, đối với trường hợp thuận
tình ly hôn, căn cứ ly hôn được xác định gồm các yếu tố sau:
- Hai bên thực sự tự nguyện ly hơn: Đó là khi hai vợ chồng tự quyết
định việc ly hôn, không bị ràng buộc hay bị tác động bởi bất cứ điều gì, cùng
thống nhất ý chí ly hôn, thể hiện qua việc hai vợ chồng cùng u cầu thuận

tình ly hơn tại Tịa án. Trường hợp đương sự cùng yêu cầu Tòa án giải quyết

18


u câu cơng nhận thuận tình ly hơn mà trong q trình giải qut Tịa án xác

định được u cầu ly hôn của đương sự thuộc trường hợp quy định tại khoản
9 Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 là “Cưỡng ép kết hôn, ly hôn

là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cài hoặc

hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn hoặc ly hôn trái với ý muốn


của họ” và khoản 15 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Ly hơn giả
tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách,

pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà khơng nhằm mục
đích chấm dứt hơn nhân” thì Tịa án khơng giải quyết cho ly hơn. Trong việc

thuận tình ly hơn, chỉ vợ chồng có quyền u cầu ly hơn. Vì thế, nếu ly hơn
khơng xuất phát từ ý chí của cả vợ và chồng thì Tịa án khơng áp dụng thù tục

u cầu công nhận thuận tinh ly hôn để giải quyết. Trong q trình giải quyết
u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn mà Tịa án xác định được một bên vợ,
chồng mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác ảnh hưởng đến ý chí và

nhận thức của vợ, chồng mặc dù chưa có quyết định của Tịa án về việc tuyên
bố người đó mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự

hay có khó khăn nhận thức trong làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật

thì Tịa án khơng cơng nhận cho đương sự được thuận tình ly hơn. Do đó
trong việc u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, ý chí của vợ chồng rất quan

trọng. Theo đó hai bên căm thấy khơng cịn tình u thương nhau nữa, khơng
tìm thấy sự thấu hiều lẫn nhau, khơng cịn muốn cố gắng vun vén cho hạnh

phúc chung cũng như khơng tìm được tiếng nói chung trong đời sống vợ
chồng nữa dẫn đến quyết định ly hôn. Hôn nhân dựa trên cơ sở nam nữ tự

nguyện tìm hiểu đến với nhau, yêu và cưới nhau và được pháp luật ghi nhận.
Khi mà cuộc hơn nhân đó khơng cịn cơ sở đế tồn tại, cả hai vợ chồng đều

chung ý chí muốn chấm dứt hơn nhân để giải thốt cho nhau thì khơng có lý
do gì Tịa án khơng cơng nhận.

19


- Hai bên đã thỏa thuận được với nhau vê việc chia hoặc không chia tài
sản chung, việc trông nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con: Việc vợ chồng

đồng ý chí, tự nguyện ly hơn là chưa đủ căn cứ để Tịa án áp dụng thủ tục u
cầu cơng nhận thuận tình ly hơn để giải quyết nếu giữa họ khơng có sự thỏa

thuận về việc chia hoặc khơng chia tài sản chung, việc trơng nom, ni dưỡng,

chăm sóc, giáo dục con. Ly hôn đồng nghĩa với việc vợ chồng khơng cịn sống
chung với nhau, khơng trực tiếp cùng nhau chăm sóc con cái được như trong

thời kỳ hơn nhân. Do đó, vợ, chồng ly hơn trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi
của con. Vì vậy, pháp luật có quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với

con sau ly hôn. Chỉ khi vợ, chồng thống nhất thỏa thuận được về việc ni con
chung Tịa án mới cơng nhận cho vợ chồng thuận tình ly hơn, trường hợp

khơng thỏa thuận được, Tịa án giải quyết ly hơn theo thủ tục vụ án và xem xét,

giải quyết vấn đề con chung tại phiên tòa. Cùng với việc thỏa thuận về ni con
thì thỏa thuận về chia tài sản chung là điều kiện để Tịa án cơng nhận thuận tình

ly hơn cho vợ chồng. “Sau khi nam, nữ ly hơn thì chế độ tài sản chung hợp nhất


của vợ chồng cũng chấm dứt. Nhũng tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập thuộc
sở hữu riêng của mỗi bên, tài sản chung khơng cịn thuộc sở hữu chung hợp

nhất của vợ chồng nữa mà chuyến sang hình thức sở hữu khác” [4, tr. 27]. Từ

đó, ly hơn cũng làm thay đổi quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản nếu
vợ, chồng có yêu cầu giải quyết về tài sản khi ly hôn. Tất nhiên điều kiện này

không đặt ra đối với những trường hợp vợ chồng không có con chung, khơng
có tài sản chung và khơng có nghĩa vụ về tài sản.

Sự thỏa thuận phải đâm bảo quyền và lợi ích chính đáng của con: Trẻ em
là mầm non của đất nước, việc bảo vệ trẻ em luôn là điều được xã hội quan

tâm, pháp luật đã ghi nhận về quyền trẻ em và bảo đảm cho quyền đó được

thực hiện. Khi vợ chồng ly hơn, trong nhiều trường họp, chịu nhiều tổn thương

mất mát nhất cả về vật chất và tinh thần chính là người con. Việc trông nom,

20


ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hơn là qun và nghĩa vụ của

cha mẹ. Chính vì vậy, sự thỏa thuận về việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con của vợ chồng khi ly hơn khơng chỉ đảm bảo quyền và lợi ích của

vợ, chồng mà cịn cần đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của con. Tuy


nhiên, quyền và nghĩa vụ này chỉ được đặt ra đối với con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và

khơng có tài sản để tự ni mình theo quy định của pháp luật.
1.2.2.2. về quyền u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn

Theo Điều 51 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định về
quyền u cầu giải quyết ly hơn thì:

1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tịa án giải
quyết ly hơn. 2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền u cầu

Tịa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm

thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của minh, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do

chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính

mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. 3. Chồng khơng có quyền u

cầu ly hơn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang
nuôi con dưới 12 tháng tuổi [11, Điều 51].

Theo quy định trên thì vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có thể u
cầu Tịa án giải quyết cho ly hôn. Tuy nhiên, không phải khi vợ chồng yêu

càu Tịa án giải quyết ly hơn là Tịa án giải quyết cho ly hôn ngay. Khi
nhận được yêu cầu xin ly hơn, Tịa án phải dựa vào thực chất của quan hệ


vợ chồng, trên cơ sở đó mới đánh giá một cách khách quan đế giải quyết
ly hôn, không dựa vào ý chí chủ quan của cán bộ Tịa án hay của các

đương sự để giải quyết. Tòa án xem xét, quyết định cho ly hôn khi đáp
ứng được căn cứ ly hôn do pháp luật quy định. Những căn cứ ly hôn này

21


phải phù hợp với thực tế mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng. Căn cứ ly
hôn được quy định như sau:
Khi vợ hoặc chồng u cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng

thành thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ,
chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng

quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích
của hơn nhân khơng đạt được [11, Điều 56].

Khi xem xét u cầu ly hơn, Tịa án xem xét việc vợ, chồng có hành

vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hơn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung

khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì Tịa án
quyết định cho ly hơn.
Hiện nay, pháp luật khơng có hướng dẫn thế nào là hơn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hôn
nhân không đạt được, nên khi giải quyết đơn xin ly hơn, Thẩm phán phải tự


phán đốn, đưa ra quyết định tình trạng quan hệ hơn nhân đã đủ căn cứ cho

ly hơn chưa. Việc khơng có quy định hướng dẫn này làm tăng tính độc lập
cho mỗi Thẩm phán. Tuy nhiên, có thể tham khảo quy định tại mục 8 Nghị
quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 để xác định căn cứ cho ly hơn:

- Tình trạng của vợ chồng trầm trọng được hiểu là khi:

+ Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau
như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người
chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ

quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giài nhiều lần.

22


×