CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP
VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 1 Bin dịch: Hoàng Nhị
CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP
VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Mari Pangestu
Phát triển công nghiệp là một bộ phận không thể thiếu của chiến lược tăng trưởng kinh tế.
Hầu hết các nước đều theo đuổi một loại chính sách công nghiệp nào đó, mặc dù mục tiêu
và cách tiếp cận của họ có thể khác hẳn nhau, và có thể thay đổi theo thời gian. Với môi
trường trong nước và toàn cầu đang thay đổi hiện nay, các nước đang phát triển cần đánh
giá lại các lựa chọn đang mở ra cho họ để có thể thực hiện một chính sách công nghiệp
hóa hiệu quả và phù hợp với WTO.
Mục tiêu và phạm vi của chính sách công nghiệp
Sách vở kinh tế và các bài học từ việc thi hành chính sách công nghiệp nhấn mạnh rằng
một chính sách hoặc chiến lược công nghiệp hiệu quả cần phải có những mục tiêu, lý do,
và phạm vi được xác định rõ ràng. Ngân hàng Thế giới đã đưa ra một định nghĩa có thể
chấp nhận được của chính sách công nghiệp là “các nỗ lực của chính phủ nhằm thay đổi
cơ cấu công nghiệp để thúc đẩy tăng trưởng dựa trên năng suất” (World Bank 1992)
1
.
Định nghĩa này là hữu ích vì nó tập trung vào mục tiêu tăng trưởng năng suất yếu tố trong
toàn bộ nền kinh tế chứ không phải chỉ đơn giản thay đổi cơ cấu sản phẩm đầu ra của các
ngành sản xuất hay chăm lo đến một vài khu vực nhất định. Chính sách công nghiệp
không chỉ giới hạn ở khu vực công nghiệp chế tạo, mà còn bao gồm cả hai khu vực làm
tăng giá trị cho hàng công nghiệp chế tạo là các ngành chế biến nông khoáng sản và dịch
vụ.
Trong thực tế, chính sách công nghiệp thường có nhiều mục tiêu, bao gồm công ăn việc
làm trong ngắn hạn, gia tăng sản lượng, phân phối các hoạt động kinh tế công bằng hơn
giữa các vùng, và nâng cao năng lực công nghệ. Thường còn có cả các mục tiêu phi kinh
tế, như niềm tự hào và uy tín của dân tộc, nhu cầu thúc đẩy các ngành công nghiệp nội địa
được coi là “chiến lược”. Những mục tiêu đó còn lộn xộn rối rắm đến mức nhiều nước
đang phát triển lo lắng về quyền sở hữu của người nước ngoài và và tác động có thể có
của nó đến năng lực trong nước.
2
Điều quan trọng là phải theo đuổi một chính sách công
nghiệp có các mục tiêu giới hạn và được xác định rõ ràng, bởi vì có thể không có đủ các
công cụ chính sách để đáp ứng quá nhiều mục tiêu khác nhau. Hơn nữa, các mục tiêu
khác nhau có thể không phù hợp với nhau.
Biện minh cho chính sách công nghiệp
Lập luận kinh tế ủng hộ cho sự can thiệp của chính phủ nhằm nâng cao năng suất lao
động trong dài hạn được xây dựng dựa trên nhu cầu điều chỉnh các thất bại thị trường
(được cho là đang tồn tại) xuất phát từ các ngoại tác, sự thiếu vắng của các thị trường,
hoặc các thất bại khác, trong khi có tính đến các tác động phụ có thể có đến các ngành
khác trong nền kinh tế. Lập luận kinh tế truyền thống ủng hộ việc chính phủ trợ giúp cho
một số ngành nào đó là để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ.
3
Bảo hộ chống hàng
nhập khẩu dưới dạng thuế quan, hoặc trợ cấp theo sản lượng của doanh nghiệp (hai công
cụ có tác động tương đương đối với sản lượng của một ngành cụ thể nào đó) được biện
minh trên cơ sở ngoại tác động (dynamic externality), ví dụ như học hỏi qua công việc
(learning by doing) hoặc đào tạo tại chỗ (on-the-job training) là những điều giúp làm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 2 Bin dịch: Hoàng Nhị
giảm chi phí. Theo lập luận này, chỉ nên trợ giúp những quá trình học hỏi diễn ra bên
ngoài doanh nghiệp, bởi vì doanh nghiệp không thể chiếm được đặc quyền hoặc lợi nhuận
từ việc đào tạo này nên sẽ không đầu tư cho nó.
Có những điều kiện quan trọng giới hạn lập luận về ngành công nghiệp non trẻ. Thứ nhất,
mức độ giảm chi phí trong tương lai cần phải đủ để bù đắp chi phí cao hơn trong giai
đoạn được hỗ trợ. Thứ hai, không nên hỗ trợ bao trùm cho toàn bộ các doanh nghiệp
trong một ngành; sự tồn tại của ngoại tác và việc hỗ trợ cần phải được gắn với kết quả
hoạt động của người nhận hỗ trợ (ví dụ, hiệu quả phải cao hơn hoặc chi phí phải giảm đi),
và khoản hỗ trợ phải giảm dần theo thời gian. Thứ ba, công cụ thích hợp để tạo ra ngoại
tác tích cực từ việc mở rộng công nghiệp nội địa có thể không phải là thuế quan hay trợ
cấp theo sản lượng. Một chính sách thích hợp hơn là: trợ cấp theo quá trình, theo việc
làm, hoặc sản phẩm mà có thể giúp tạo ra kiến thức hay học hỏi.
Tính thích hợp của các công cụ chính sách tuân theo một chủ đề chung hơn trong lý
thuyết về sự can thiệp của chính phủ (xem Bhagwati 1971; Corden 1974). Mỗi ngoại tác
hoặc thất bại thị trường đòi hỏi phải có loại trợ cấp thuế dựa trên biến số đã tạo ra ngoại
tác hoặc thất bại thị trường đó, và tỉ lệ trợ cấp thuế phải là tỉ lệ giúp tạo được hiệu quả tối
ưu. Bất kỳ một trợ cấp thuế nào khác với trợ cấp thuế tối ưu sẽ tạo ra điều mà Corden
(1974) gọi là những tác động phụ, những tác động sẽ áp đặt chi phí không mong muốn ở
một nơi khác trong nền kinh tế.
Cũng cần lưu ý đến tác động của sự can thiệp vào một ngành đến toàn bộ nền kinh tế.
Một cách để làm điều này là chú ý đến tỉ lệ bảo hộ hiệu dụng, một đại lượng tính đến tác
động của thuế quan lên cả đầu vào và đầu ra. Ví dụ, thuế quan đánh vào một đầu vào sẽ
làm giảm tỉ lệ bảo hộ hiệu dụng đối với người sử dụng ở khâu sau (xem Hộp 17.1).
Một lập luận khác ủng hộ sự can thiệp của chính phủ – cái gọi là lập luận tốt thứ nhì đối
với thuế quan hoặc trợ cấp cho một số hàng hóa – liên quan đến sự hiện hữu của các biến
dạng “không thể loại bỏ” dưới dạng thuế quan hoặc các hình thức bảo hộ chống hàng
nhập khẩu khác.
4
Trong thực tiễn, sự can thiệp để sửa chữa các biến dạng này lại tạo ra
một số vấn đề. Thứ nhất, không rõ tại sao chính sách nên làm nhất (tốt nhất) để loại bỏ
các biến dạng lại không thể được thực hiện. Thứ hai, để xác định chính sách tốt thứ nhì
một cách chính xác thì cần phải có hiểu biết hoàn hảo về mọi khía cạnh của nền kinh tế
sao cho có thể biết được tác động ròng của sự can thiệp. Đòi hỏi này là không thực tế.
Nếu cứ thực hiện các chính sách can thiệp tốt thứ ba trong khi chưa biết giá trị thực của
một số thông số về hành vi thì có thể dẫn đến các biến dạng nặng hơn và làm giảm phúc
lợi.
Các lý do khác biện minh cho chính sách công nghiệp được dựa trên lập luận về phát triển
công nghệ. Theo lập luận này, chính sách phù hợp là can thiệp dựa trên công nghệ chứ
không phải dựa trên sản lượng như các loại trợ cấp, hoặc hỗ trợ phát triển công nghệ và
các chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) - một trong những phương
tiện quan trọng để chuyển giao công nghệ. (Xem Chương 19 của Bora và Chương 34 của
Saggi trong cuốn sách này.)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 3 Bin dịch: Hoàng Nhị
HP 17.1 T L BO H DANH NGHA VÀ HIU DNG
Tỉ lệ bảo hộ danh nghĩa (NRP) có thể được định nghĩa như:
*
*
P
PP
NRP
−
=
với P là giá trong nước của hàng hóa đã bao gồm thuế nhập khẩu, P* là giá khi có tự do
ngoại thương. Vì trong thực tế không thể thấy được P*, hầu hết các nghiên cứu thực
nghiệm đều lấy giá thế giới để thay cho P*.
Tỉ lệ bảo hộ hiệu dụng (EPR) có thể được định nghĩa như tỉ lệ tăng thêm của gía trị gia
tăng trên một đơn vị hàng hóa của một sản phẩm được sản xuất trong nước so với giá trị
gia tăng khi có tự do ngoại thương (không có bảo hộ). Độ lớn của ERP không chỉ phụ
thuộc vào thuế quan danh nghĩa đánh lên sản phẩm cuối cùng mà ta đang xem xét, mà
còn phụ thuộc vào thuế quan đánh lên các đầu vào được sử dụng và tầm quan trọng của
các đầu vào đó trong giá trị của sản phẩm cuối cùng. Một công thức đơn giản để tính ERP
là:
*
*
V
VV
ERP
−
=
với V là giá trị gia tăng trong nước trên mỗi đơn vị của hàng hóa cuối cùng (đã bao gồm
thuế nhập khẩu đánh lên loại hàng đó và lên các đầu vào của nó), và V* là giá trị gia tăng
khi có tự do ngoại thương. Giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm được xác định bằng
cách lấy tổng giá trị của đầu ra trừ đi chi phí của các đầu vào được sử dụng trong quá
trình sản xuất: V=t
f
P
f
-t
i
P
i
X, với t
f
và t
k
bằng 1 cộng với thuế quan tương ứng trên sản phẩm
cuối cùng và trên các đầu vào; P
f
và P
i
là các mức giá, và X là lượng đầu vào sử dụng để
sản xuất một đơn vị của hàng hóa cuối cùng. Giá trị gia tăng tại giá tự do thương mại cũng
được xác định tương tự như vậy, nhưng lúc này không có thuế (trị giá của t là 1).
Ví dụ, giả sử một tấn thép có giá là US$1,000 trên thị trường thế giới. Để sản xuất nó, một
nhà máy cần phải mua 1 tấn quặng sắt tại giá thế giới là US$600. Để đơn giản, giả sử
không cần thêm gì khác trong quá trình sản xuất thép. Trong trường hợp đó, trị giá gia
tăng của một tấn thép tại nhà máy sẽ là US$400. Nếu thuế suất 20% được đánh lên thép
nhập khẩu, và không có thuế đánh lên quặng sắt, thì tỉ lệ bảo hộ hiệu dụng sẽ là:
,5,1
400
6001200
=
−
hay 50%.
Trong ví dụ này, ERP cao hơn gấp đôi tỉ lệ 20% NRP đánh lên thép nhập kh
ẩ
u. N
ế
u không
có thuế đánh lên thép nhập khẩu nhưng một khoản thuế danh nghĩa 33% được đánh lên
quặng sắt nhập khẩu, ERP sẽ là:
5,0
400
)200600(1000
=
+
−
, hay –50%.
Ví dụ này cho thấy rằng NRP= 0 không nhất thiết có nghĩa là thương mại không bị biến
dạng. Một ví dụ khác, giả sử hạt ca cao chiếm 95% chi phí sản xuất của bơ ca cao. Đánh
thuế 5% danh nghĩa lên bơ ca cao đồng nghĩa với việc bảo hộ 100% cho ngành sản xuất
bơ ca cao.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 4 Bin dịch: Hoàng Nhị
Các công cụ của chính sách công nghiệp
Trong thực tế, nhân danh chính sách công nghiệp, các quốc gia đã sử dụng nhiều công cụ
khác nhau. Chúng có thể được phân loại thành các can thiệp bên ngoài, can thiệp vào thị
trường sản phẩm, và vào thị trường yếu tố sản xuất.
Các can thiệp vào thị trường bên ngoài bao gồm việc bảo vệ các ngành sản xuất trong
nước khỏi sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu bằng cách sử dụng các công cụ như thuế
nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, các chương trình nội địa hóa, cũng như các
biện pháp khuyến khích xuất khẩu để hỗ trợ các ngành sản xuất đuổi kịp và thâm nhập
vào các thị trường mới. Các công cụ khuyến khích xuất khẩu phổ biến là trợ cấp xuất
khẩu, các khu khuyến khích xuất khẩu, và tín dụng ưu đãi (đôi khi gắn với các mục tiêu
xuất khẩu).
Các can thiệp vào thị trường sản phẩm để khuyến khích cạnh tranh trong thị trường nội
địa bao gồm chính sách cạnh tranh (nhằm bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các doanh
nghiệp nội địa và nước ngoài), và các luật lệ về gia nhập thị trường nội địa.
Các can thiệp vào thị trường yếu tố sản xuất bao gồm các chính sách như đặt ra yêu cầu
về kết quả hoạt động và các hạn chế đối với FDI nhằm tác động đến hoạt động của các
công ty do người nước ngoài làm chủ sao cho nước sở tại có thể thu được lợi ích ròng từ
FDI (UNCTAD 1999a). Các hình thức can thiệp vào thị trường yếu tố trong thị trường
vốn và khu vực tài chính là nhằm sửa chữa các khuyết tật của thị trường tài chính, khuyến
khích các ngành công nghiệp non trẻ, và bảo vệ hoặc loại bỏ dần các ngành đang suy
giảm. Những biện pháp này bao gồm việc thành lập các định chế tài chính phát triển, trợ
cấp vốn trực tiếp cho một số doanh nghiệp công nghiệp chọn lọc, trợ cấp vốn và hỗ trợ
vốn cho các ngành đang suy giảm hoặc đã trưởng thành, ưu tiên tiếp cận nguồn tín dụng
(thường với lãi suất có trợ cấp) bằng cách yêu cầu các định chế tài chính cho một số
ngành hoặc một số loại công ty được vay. Việc can thiệp vào thị trường lao động có thể
có các mục tiêu về hiệu quả và công bằng. Mục tiêu thứ nhất liên quan đến việc phát triển
nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo. Mục tiêu thứ hai bao gồm các yêu cầu về
tiền lương tối thiểu và các hệ thống lưới an toàn xã hội.
Hộp 17.2 cho thấy ví dụ về các loại công cụ chính sách công nghiệp mà Hàn Quốc và
Nhật bản đã sử dụng trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa của họ.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 5 Bin dịch: Hoàng Nhị
Sự tiến hóa của chính sách công nghiệp
Cách tiếp cận đối với phát triển công nghiệp và các loại công cụ được sử dụng đã tiến hóa
theo thời gian do các thay đổi trong hệ thống quan niệm về phát triển cũng như trong môi
trường bên ngoài. Để có tính cụ thể, phần này sẽ tập trung vào các ví dụ từ Đông Á,
nhưng hầu hết những điều được đề cập đến đều có thể áp dụng được cho tất cả các nước
đang phát triển.
HỘP 17.2. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VÀ XUẤT
KHẨU ĐƯỢC SỬ DỤNG TẠI HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN
Khuyn khích xut khu và hn ch nhp khu
• Hạn chế nhập khẩu, cả tổng quát và cụ thể
• Ưu tiên trong việc xúc tiến xuất khẩu cho một số ngành cụ thể, và một s
ố
doanh
nghiệp cụ thể trong một số trường hợp,
• Đề ra mục tiêu xuất khẩu cho các doanh nghiệp cụ thể như điều kiện để được trợ
cấp (Hàn Quốc)
• Trợ cấp lãi suất và tín dụng, cung cấp ngoại hối cho các doanh nghiệp được ưu đãi
đã đáp ứng được các mục tiêu xuất khẩu
• Xúc tiến xuất khẩu nói chung qua JETRO (Nhật bản) và KOTRA (Hàn Quốc)
• Cung cấp cơ sở hạ tầng, kể cả vốn nhân lực, để hỗ trợ xuất khẩu
• Miễn giảm thuế cho các đầu vào nhập khẩu và cho các khoản chi cho nghiên cứu và
phát triển
• Cho phép các tập đoàn được ưu đãi được nhập khẩu vốn và công nghệ nước ngoài,
cũng như huy động nguồn vốn rẻ hơn trên thị trường quốc tế
Can thip vào th trng sn phm và th trng yu t
• Nới lỏng chính sách cạnh tranh, sử dụng rộng rãi hình thức cartel.
• Chính phủ tạo ra và khuyến khích các tập đoàn lớn (Hàn Quốc)
• Cắt giảm thuế cho các tập đoàn lớn để tăng đầu tư
• Khuyến khích mối quan hệ gần gũi, lâu dài giữa ngành tài chính và công nghiệp (là
điều quan trọng quyết định cho việc thi hành chính sách công nghiệp)
• Đàn áp lao động để bảo đảm sự an bình về lao động trong giai đoạn thay đổi cơ c
ấ
u
(Hàn Quốc)
• Thành lập các ngành công nghiệp quốc doanh để nâng cao mức phát triển công
nghiệp (Hàn Quốc)
• Có sự hướng dẫn rộng khắp của các cơ quan nhà nước.
Nguồn: Phỏng theo Singh (1996)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 6 Bin dịch: Hoàng Nhị
BẢNG 17.1 SỰ TIẾN HÓA CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP Ở ĐÔNG Á (THẬP
KỶ 1950 – 1990)
Nền kinh
tế
1950s 1960s 1970s 1980s 1990s
Trung
Quốc
1965-76
Quốc
phòng/Công
nghiệp (công
nghiệp hóa
thiên về CN
nặng)
1977-78
Nhập khẩu
nhà máy
1980s
Tự do hóa vùng
duyên hải (các
ngành công
nghiệp nhẹ)
1990s
Cơ sở hạ tầng
Công nghệ cao
Hồng Kông
(Trung
Quốc)
1950-
EO (tự do kinh doanh, hỗ trợ về giáo dục, cơ
sở hạ tầng, và thể chế)
1979-
Tăng cường hỗ
trợ về thể chế cho
công nghiệp
1990s
Nâng cấp sự hỗ
trợ cho công
nghệ
Indonesia
1967-73
On định
Bắt đầu IS
1974-85
IS mạnh
1986-
Tự do hóa
EO
Nhật bản 1950-58
IS
1959-
EO
1967-
Tự do hóa
Giữa 1980s
Giảm bớt luật lệ
Quốc tế hóa
Hàn Quốc
1961-72
EO
1973-79
EO
IS (công
nghiệp nặng)
1980
Tự do hóa
(thương mại, đầu
tư, tài chính)
1990s
Giảm bớt luật lệ
từ giữa 1980s
(hướng về phát
minh đổi mới)
Malaysia
1950-70
IS vừa phải
Thêm EO
1971-85
Tiếp tục IS
EO
1986-
Tự do hóa
Philippines
1950-
IS
Tiếp tục IS
1980s
Tự do hóa
(bất ổn chính trị)
1990s
Tiếp tục tự do
hóa (tăng
cường ổn định
chính trị)
Singapore
1950s
IS (khi vẫn
còn là một
bộ phận của
Malysia)
1960s – 1980s
EO
1990s
Độc lập chiến
lược (công nghệ
và dịch vụ cao)
Khu vực hóa
Đài Loan
(Trung
Quốc)
1953-57
IS
1958-80
EO
1986-
Tự do hóa
Thái Lan
1961-71
IS
1971-86
IS (hàng hóa phục vụ sản xuất,
bắt đầu từ 1981)
1986-
EO
Các ngành thâm
dụng công nghệ
EO một phần
Ghi chú: IS: Thay thế nhập khẩu, EO: Hướng về xuất khẩu
Nguồn: Masuyama, Vanderbrink, và Chia (1997): bảng 1.1
.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 7 Bin dịch: Hoàng Nhị
Chính sách công nghiệp ở Đông Á đã tiến hóa dần trong ba thập kỷ qua (Bảng 17.1) khi
chính sách thay thế nhập khẩu nhường chỗ cho chính sách hướng về xuất khẩu, và sau đó
là chính sách phát triển cơ sở hạ tầng dựa trên tri thức. Sự chuyển dịch trong cách tiếp cận
và các công cụ chính sách đã chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong như quy mô thị
trường, nhu cầu phải điều chỉnh để thích nghi với các cú sốc bất lợi, sự kém hiệu quả của
các chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, và nhu cầu phải thu hút FDI để có
được công nghệ và tiếp cận thị trường. Chính sách còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố
bên ngoài như cạnh tranh ngày càng gia tăng, công nghệ thay đổi, áp lực từ các đối tác
thương mại lớn buộc phải trở thành các bên tham gia ký kết các luật lệ của GATT, các
luật lệ đa phương được đàm phán trong khuôn khổ WTO, và cuộc khủng hoảng tài chính
nổ ra năm 1997.
Các thay đổi nhanh chóng trong công nghệ giao thông, liên lạc, sản xuất, tiếp thị, phân
phối, cũng như các quá trình quản lý, đã đẩy nhanh tốc độ toàn cầu hóa và làm giảm lợi
thế so sánh truyền thống trong sản xuất hàng loạt. Việc sản xuất các bộ phận và chi tiết,
cũng như chính hàng hóa cuối cùng, ngày càng được thuê ngoài hoặc được rải ra nhiều
địa điểm khác nhau trên cơ sở cân nhắc về chi phí và thị trường. Việc phi tập trung hóa
sản xuất và các quá trình sản xuất diễn ra trong thập kỷ 1990 ở Đông Á là một ví dụ mạnh
mẽ về sự hội nhập của khu vực này qua các mối liên kết thương mại và đầu tư. Sự phát
triển của công nghệ sẽ tiếp tục là một nguồn áp lực quan trọng buộc các ngành công
nghiệp phải tiếp tục tái cơ cấu. Sự suy giảm trong tăng trưởng xuất khẩu xảy ra trước khi
có khủng hoảng, một phần là do các nhân tố về cơ cấu như khả năng cạnh tranh sút giảm
và mức tăng trưởng năng suất thấp, còn chỉ ra nhu cầu phải tái cấu trúc khu vực công
nghiệp. Thách thức chính đối với nhiều quốc gia đang phát triển ở Đông Á là làm sao duy
trì được lợi thế so sánh truyền thống (dựa trên lao động rẻ tiền tay nghề thấp và nguồn tài
nguyên) trong khi phải xây dựng các nguồn lợi thế so sánh mới và “trưởng thành dần”
trong các ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, thể hiện công nghệ và nguồn vốn con
người cao hơn.
Có nhiều giải pháp về chính sách thích hợp để giải quyết các vấn đề về cơ cấu mà các
quốc gia Đông Á đang gặp phải, và nhiều chính sách đã được các chính phủ áp dụng. Một
là duy trì sự cạnh tranh trong thị trường nội địa. Hàng nhập khẩu có thể tác động đến năng
suất qua công nghệ được thể hiện trong nó, và có thể là một cách hiệu quả để đồng hóa
các kỹ thuật và kiến thức mới (xem Chương 34 của Saggi trong cuốn sách này). Các nhân
tố khác có thể thúc đẩy xuất khẩu là: khuyến khích FDI và tham gia vào mạng lưới sản
xuất quốc tế; chính sách vĩ mô phù hợp; cơ cấu hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ hiệu quả;
các chính sách cải thiện vốn con người và năng lực công nghệ, ví dụ như hoạt động
nghiên cứu và phát triển, giáo dục, cũng như tạo ra các cụm công nghiệp. Nhìn chung, các
quốc gia Đông Á đã chuyển trọng tâm sang các chính sách bổ trợ như vậy, và giờ đây
đang nỗ lực cung cấp một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các ngành có khả
năng cạnh tranh, nâng cao tính linh hoạt của nền kinh tế nhằm đáp ứng với các thay đổi.
Bảng 17.2 tóm tắt các chính sách mà các nền kinh tế Đông Á đã theo đuổi ngay trước
cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Việc giải quyết khủng hoảng càng làm tăng thêm
nhu cầu phải có một cách tiếp cận toàn diện hơn đối với cuộc cải cách chính sách mà ở
một phạm vi nào đó là do gói cải cách của IMF bắt buộc. Các quốc gia không được các
chương trình của IMF hỗ trợ cũng đang buộc phải theo đuổi các cải cách tương tự.
5
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 8 Bin dịch: Hoàng Nhị
Các quy định đa phương về việc sử dụng các công cụ của chính sách công
nghiệp
Một câu hỏi quan trọng là về mức độ mà các quy định của WTO hạn chế các biện pháp
chính sách mà các thành viên có thể sử dụng để bảo hộ cho các nhà cung cấp địa phương,
khuyến khích xuất khẩu và chuyển giao công nghệ. Phần này tóm tắt ngắn gọn các quy
định chính của WTO về các công cụ của chính sách công nghiệp. Nhiều quy định trong số
đó được thảo luận kỹ hơn trong các chương khác của cuốn sách này.
Thuế quan, chống phá giá, và tự vệ
Trong hai thập kỷ qua, hầu hết các nước đang phát triển đã cam kết các chương trình cắt
giảm thuế quan. Họ cũng cam kết ràng buộc nhiều khoản thuế quan, mặc dù thường là ở
mức thuế suất tương đối cao, cho phép gia tăng mức thuế thực sự được áp dụng ở phạm vi
khá rộng (xem Chương 54 của Francois và Martin trong cuốn sách này). Mặc dù mức bảo
hộ trung bình bằng thuế quan đã giảm, vẫn còn nhiều thuế suất cao trong những ngành
“nhạy cảm” ở cả các nước công nghiệp cũng như các nước đang phát triển, và sự phân tán
của bảo hộ vẫn còn đáng kể ở nhiều nước.
6
Bảo hộ chống hàng nhập khẩu còn có thể được áp dụng qua các biện pháp chống phá giá
hoặc tự vệ, thường được các nước công nghiệp sử dụng để bảo vệ các ngành đang suy
giảm. Hiệp định về chống phá giá của WTO áp đặt kỷ luật lên việc sử dụng chống phá giá
và bao gồm một số điều khoản nhằm giảm mức độ mà chống phá giá có thể được sử dụng
để chống lại các nước đang phát triển đang cố gắng tăng cường xuất khẩu.
7
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 9 Bin dịch: Hoàng Nhị
Loại biện pháp An Độ Malaysia Bangladesh Philippines Thái
Lan
Hàn Quốc Singapore Indonesia Hồng
Kông
Nhật
1. Các biện pháp tác động đến sản xuất
Chính sách Phát triển công nghiệp
Chung Có Có Không Có Có Có Có Không Có Có
Ưu tiên cho ngành cụ thể Có Có Có Có Có Không Có Có Không -
Ngành chiến lược/nội địa Có Có Có Có Không Không Có Có Không -
Ngành xuất khẩu - - Có Có Có Không Có Không - -
Các biên pháp hỗ trợ
Bảo hộ nhập khẩu Giảm Có - Có Có Không Không Có Không Không
Kiểm soát giá cả Giảm Có - Không - Không Không Có Không -
Quy định về đầu tư Giảm - - Giảm - Không Không Giảm Không -
Trợ cấp hoặc hỗ trợ tín dụng Có Có Có - Có Có Có Có Có Có
Đào tạo nhân lực - Có Có Có - Có Có - Có Có
Khuyến khích đầu tư
Giảm bớt luật lệ Có Có - - Một
phần
Có - Có - -
Giảm thuế
Giai đoạn miễn thuế/Miễn thuế Có Có Có Có Có Có Có - - -
Giảm thuế suất Có Có Có Có Có Có Có - - Có
Khấu hao nhanh - Có Không Không Không Có Có - - Có
Trợ cấp sản xuất
Trợ cấp cho đầu vào Có Có Có Không Có Có Không Có - Có
Trợ giúp cho nghiên cứu và phát triển Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Dàn xếp về giá và thị trường Có Có Có Có Có Có Không Có
Trợ giúp cho các vùng Có Có Có Có Có Có Có Không - Có
Trợ giúp điều chỉnh Có Có Không Không Có Có Có Không Có Có
(Còn tiếp)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, và WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 10 Bin dịch: Hoàng Nhị
Bảng 17.2 (tiếp)
Biện pháp An Độ Malaysia Bangladesh Philippines Thái
Lan
Hàn Quốc Singapore Indonesia Hồng
Kông
Nhật
2. Các biện pháp ảnh hưởng đến xuất
khẩu
Khuyến khích xuất khẩu
Hoàn thuế/miễn thuế cho đầu vào nhập
khẩu
Có Có Có Có Có Có Có Có Có Không
Tài trợ xuất khẩu Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Bảo hiểm và bảo lãnh xuất khẩu Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Quản lý chất lượng xuất khẩu Có Không Không Có Có Không Không Có Có Không
Khu chế xuất Có Có Có Có Có Có Có Có Không Không
Yêu cầu về thành tích xuất khẩu Có Không Có Không Có Không Không Không Không Không
Trợ cấp tiền mặt cho xuất khẩu Không Không Có Có Có Không Không Không Không Không
Các cartel xuất khẩu Không Không Không Không Không Không Không Không Không Có
Các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Các biện pháp khác ảnh hưởng đến xuất
khẩu
Yêu cầu đăng ký Có Có Có Có Không Không Không Không Không Không
Giấy phép xuất khẩu Có Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Cấm xuất khẩu Có Có Có Tối thiểu Không Có Có Có Có Có
Thuế/phí xuất khẩu Có Có Có Không Có Không Không Có Có Có
Giá xuất khẩu tối thiểu Có Không Có Không Với 2 Không Không Không Không Không
Hạn ngạch xuất khẩu Có Không MFA MFA, khác MFA,
khác
Không Không Có Không Có
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện MFA MFA, khác MFA MFA, khác MFA,
khác
Không Có Có MFA Có
- Không có thông tin
Ghi chú: MFA: Hiệp định Đa sợi
Nguồn: Singh (1996): phụ lục II
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Nin khĩa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, v WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 11 Biên dòch: Hoaøng Nhò
Khuyến khích xuất khẩu và trợ cấp xuất khẩu
Hiệp định về trợ cấp và biện pháp đối kháng (SCM) cấm các nước có thu nhập đầu
người trên US$1000 trợ cấp xuất khẩu, và đặt ra các quy định về việc sử dụng biện
pháp đối kháng để bù đắp các thiệt hại mà trợ cấp cho sản xuất của nước ngoài gây ra
cho các ngành sản xuất trong nước
8
. Hiệp định SCM đề cập đến các đóng góp về tài
chính do chính phủ thực hiện hoặc chỉ đạo nhằm cung cấp lợi ích cho một doanh
nghiệp, một ngành, hoặc một khu vực cụ thể
9
. Hiệp định cấm các loại trợ cấp căn cứ
vào thành tích xuất khẩu, cũng như các trợ cấp khuyến khích sử dụng các đầu vào
được sản xuất trong nước hơn là đầu vào nhập khẩu. Để có thể có hành động chống lại
trợ cấp, cần phải xác định là khoản trợ cấp đó đang tồn tại và có tác động xấu đến
thương mại của một thành viên khác. Điều này được thực hiện bằng cách chứng minh
là có thiệt hại cho một thành viên khác dưới dạng làm tổn thương, thiệt hại nặng, hoặc
làm suy yếu và vô hiệu hóa các lợi ích.
10
Hiệp định SCM và các điều khoản của nó
liên quan đến các nước đang phát triển sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong Chương
18 của English và De Wulf trong cuốn sách này.
Hiệp định SCM có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách công nghiệp. Ví dụ như
trong trường hợp của Hàn Quốc, một nước khét tiếng vì sử dụng các khoản trợ cấp có
mục tiêu. Trước 1995, Hàn Quốc có 26 loại trợ cấp khác nhau, tổng cộng lên đến 2,5
ngàn tỉ won mỗi năm (WTO 1996b). Khác với Luật trợ cấp (Subsidies Code) là thỏa
thuận tự nguyện được đàm phán trong Vòng đàm phán Tôkyô, tất cả các nước thành
viên đều bị ràng buộc bởi hiệp định của WTO, và hiệp định SCM có hiệu lực đến cả
các chính quyền cấp dưới. Tuy vậy, cần lưu ý rằng kỷ luật về trợ cấp chủ yếu là giới
hạn các khoản trợ cấp cho xuất khẩu; chứ hiệu lực kiềm chế đối với các khoản trợ cấp
sản xuất là yếu. Đối với các nước đang phát triển, hiệp định SCM là một con dao hai
lưỡi: nó có nhiều kẽ hở cho phép họ tiếp tục sử dụng trợ cấp để xúc tiến các mục tiêu
công nghiệp, nhưng điều này cũng đúng đối với các nước công nghiệp. Như vậy, các
nước đang phát triển không có triển vọng sử dụng trợ cấp để giành được lợi thế cạnh
tranh so với các nước công nghiệp.
Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
Theo Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS), một số
biện pháp liên quan đến hoạt động đầu tư có tác động đến thương mại cần phải được
thông báo và bãi bỏ trước tháng 1.2001 (tháng 1.2003 với các nước đang phát triển).
Các yêu cầu cần bãi bỏ bao gồm yêu cầu về tỉ lệ nội địa và cân bằng thương mại, cả
hai đều đã và đang là những công cụ quan trọng trong chính sách công nghiệp. Một số
nước đang phát triển vẫn chưa thông báo và chưa bãi bỏ các biện pháp này, và nhiều
nước đang tìm cách gia hạn thời gian chuyển đổi. Nhiều nước đang phát triển cũng
phản đối mạnh mẽ việc mở rộng danh mục các biện pháp bị cấm trong TRIMS tại các
cuộc đàm phán trong tương lai. (Xem phần thảo luận toàn diện hơn trong Chương 19
của Bora.)
Hiệp định về các quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (TRIPS)
Có lẽ, hơn bất kỳ hiệp định nào khác của WTO, việc thực thi hiệp định TRIPS đòi hỏi
nhiều thay đổi trong luật pháp quốc gia và tăng cường sức mạnh của các cơ quan thực
thi. Việc tăng cường bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) có nhiều ý nghĩa đối với
chính sách công nghiệp. Các doanh nghiệp trong nước sẽ vừa có nhu cầu vừa có động
lực phải đổi mới và cạnh tranh năng động hơn; việc tháo máy để bắt chước và làm
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Nin khĩa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, v WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 12 Biên dòch: Hoaøng Nhò
nhái trở nên ít khả thi hơn. Các doanh nghiệp nước ngoài có thể sẽ thấy việc tiếp cận
thị trường thông qua hiện diện thương mại trở nên hấp dẫn hơn khi IPR được bảo vệ
tốt hơn. Vì các nước đang phát triển nói chung không có lợi thế so sánh trong sáng tạo
đổi mới, thu hút FDI như một phương tiện để chuyển giao và phổ biến công nghệ là
rất quan trọng đối với họ. Như vậy, TRIPS dẫn đến nhu cầu phải cải tiến các chính
sách FDI. Một điều khoản quan trọng cho các nước đang phát triển từ quan điểm của
chính sách công nghiệp là Điều 66.2 của TRIPS đòi hỏi các nước công nghiệp phải hỗ
trợ việc chuyển giao công nghệ cho các nước kém phát triển. Cho đến nay, chưa rõ
điều khoản này được thực hiện đến mức nào (UNCTAD 1999a).
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) cho phép cam kết (ràng buộc) theo
từng lĩnh vực trong bốn phương thức cung cấp dịch vụ
: cung cấp qua biên giới, tiêu
thụ ở nước ngoài, hiện diện thương mại
, và sự di chuyển của thể nhân. Qua việc đưa
hiện diện thương mại vào như một phương thức cung cấp, các quy định về đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ giờ đây đã trở thành một bộ phận của hệ thống
thương mại đa phương. Vì vậy các thành viên có thể sử dụng các cam kết tự do hóa
đầu tư nước ngoài như một công cụ của chính sách công nghiệp. Điều này đã xảy ra ở
một mức độ nào đó qua các cam kết trong lĩnh vực du lịch, nhưng chưa xảy ra trong
các lĩnh vực khác.
Từ quan điểm của chính sách công nghiệp, tự do hóa trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng là
cực kỳ quan trọng cho các nước đang phát triển. Vì kỷ luật đối với trợ cấp và các yêu
cầu về kết quả hoạt động đang buộc các nước đang phát triển phải nghĩ đến các cách
thức trung lập hơn để phát triển khả năng xuất khẩu (Laird 1997), việc cải thiện cơ sở
hạ tầng – đặc biệt là trong viễn thông, tài chính, và giao thông vận tải – là một cơ chế
quan trọng để tăng cường khả năng cạnh tranh.
Bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ
Điều XVIII, Phần A và C của GATT, cho phép các thành viên đang trong “giai đoạn
đầu của phát triển” được sử dụng các rào cản thương mại để bảo hộ cho công nghiệp
trong nước. Phần B của Điều XVIII cho phép các nước đang phát triển được linh hoạt
áp dụng các biện pháp thương mại để bảo vệ cán cân thanh toán. Trước Vòng đàm
phán Uruguay, Phần C nói về các ngành công nghiệp non trẻ ít khi được dùng đến,
một phần là vì việc sử dụng điều khoản này đòi hỏi phải bồi thường, một phần là vì
các nước đang phát triển chưa có nhiều cam kết ràng buộc về thuế quan. Thay vào đó,
nhiều nước đã sử dụng Phần B, vì phần này không đòi hỏi phải bồi thường và cho
phép tự do hơn trong việc can thiệp có chọn lọc. WTO đưa ra kỷ luật chặt chẽ hơn về
cán cân thanh toán, giới hạn phạm vi và thời hạn của ngoại lệ này (Singh 1996:166).
Khi danh mục ràng buộc về thuế quan mở rộng, các nước đang phát triển có thể sẽ
phải dựa nhiều hơn vào Điều XVIII, cùng với các chương trình tự vệ và trợ cấp trong
nước để bảo hộ cho các ngành sản xuất nội địa.
Đối xử đặc biệt và khác biệt
WTO có nhiều điều khoản quy định về đối xử “đặc biệt và khác biệt” (S&D) ưu tiên
cho các nước đang phát triển, và có cơ hội cho đối xử S&D trong việc áp dụng chính
sách công nghiệp theo từng hiệp định đã nêu. Ngoài các giai đoạn chuyển đổi cho
phép chậm áp dụng, một số hiệp định (ví dụ như hiệp định về SCM, tự vệ, và chống
phá giá) còn có các ngoại lệ và kỷ luật ít nghiêm ngặt hơn cho các nước đang phát
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Nin khĩa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, v WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 13 Biên dòch: Hoaøng Nhò
triển. Tuy vậy, có mối quan ngại ngày càng tăng từ phía các nước đang phát triển là
các điều khoản đó chưa đủ để xúc tiến các quyền lợi của họ, và đang không được thực
thi (UNCTAD 1999a).
Ý nghĩa của các quy định của WTO đối với chính sách công nghiệp
Để có thể hiểu rõ tác động đối với các công cụ chính sách công nghiệp theo các hiệp
định hiện có, cũng như trong tương lai, cần nêu bật một số đặc tính chung của các
hiệp định đề ra kỷ luật đối với việc các chính phủ dùng chính sách để khuyến khích
một số ngành sản xuất cụ thể.
Đầu tiên, các hiệp định dùng cách tiếp cận theo thương mại, chứ không phải theo cán
cân thanh toán, để đề ra kỷ luật về chính sách. Vì nguyên tắc nền tảng của hệ thống
WTO là không phân biệt đối xử, bất kỳ một chính sách nào không phải được áp dụng
tại biên giới mà có tác động đến thương mại hàng hóa và dịch vụ (nghĩa là dẫn đến
phân biệt đối xử) đều phải tuân theo kỷ luật, hoặc phải được miễn trừ.
Thứ hai, các luật lệ là trung tính đối với quyền sở hữu. Trừ GATS và TRIPS, trong đó
tiêu chuẩn đối xử quốc gia được áp dụng cho các khoản đầu tư được đề cập, kỷ luật
đối với các chính sách như trợ cấp và bảo hộ bằng tỉ lệ nội địa hóa không phân biệt
giữa các công ty nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Điều quan trọng là “tác
động thương mại” của công cụ. Điều này có nghĩa là các quốc gia muốn áp dụng một
chính sách cụ thể nào đó đối với các doanh nghiệp do người nước ngoài làm chủ sẽ
cần phải tìm một điều khoản trong một hiệp định nào đó cho phép sử dụng chính sách
đó; sau đó, họ có thể áp dụng nó cho doanh nghiệp nước ngoài, miễn là không có “tác
động thương mại”.
Thứ ba, các chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp (được thiết kế nhằm
khuyến khích đầu tư hoặc tăng trưởng xuất khẩu) bị giới hạn ở các công cụ chung chứ
không phải là các công cụ đặc thù. Điều này có tác dụng san bằng sân chơi cho
thương mại quốc tế bằng cách không cho phép các quốc gia được phát triển một số
ngành công nghiệp riêng biệt qua các công cụ chính sách đặc thù.
Cuối cùng, cách tiếp cận đối với đối xử S&D trong WTO nói chung bị giới hạn ở các
thỏa thuận về chuyển đổi, được bổ sung bằng các điều khoản tối thiểu (de minimis)
(xem Chương 49 của Oyejide trong cuốn sách này).
Kết luận
Các thay đổi trong hệ thống khái niệm về phát triển, công nghệ, và các quy định đa
phương có nghĩa là các chính sách công nghiệp của các nước đang phát triển trong thế
kỷ 21 nếu muốn có hiệu quả và phù hợp với WTO thì phải toàn diện chứ không chỉ
nhắm đến một số ngành cụ thể. Việc công nhận tầm quan trọng của các chính sách bổ
trợ để bảo đảm khả năng cạnh tranh đã chuyển trọng tâm của chính sách theo hướng
nâng cao hiệu quả của cơ sở hạ tầng, cải thiện việc tạo nguồn vốn nhân lực, và tạo
môi trường khuyến khích đầu tư và sáng tạo đổi mới. Hơn nữa, vì sự phát triển của
các ngành sản xuất và chế biến tài nguyên phụ thuộc nhiều vào sự hiện hữu của ngành
dịch vụ có hiệu quả, các cải cách và tự do hóa về chính sách cần phải bao gồm cả khu
vực dịch vụ.
Các luật lệ đa phương đang phát triển phù hợp với sự chuyển dịch theo hướng sử
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Nin khĩa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, v WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 14 Biên dòch: Hoaøng Nhò
dụng các chính sách chung để khuyến khích phát triển công nghiệp. Vì trợ cấp xuất
khẩu không còn được phép sử dụng để khuyến khích xuất khẩu, cần thay đổi chính
sách theo hướng giảm bớt các hạn chế về tài chính và thủ tục đối với xuất khẩu (Laird
1997), tạo thuận lợi cho thương mại, và thi hành các chính sách không đặc thù cho
ngành nào (chính sách chung) để làm cho cả quốc gia trở nên cạnh tranh hơn. Tác
động của các quy định của WTO không phải là loại bỏ vai trò của chính phủ, mà là
chuyển dịch trọng tâm của nó về phía cung. Giờ đây, các chính sách liên quan đến hạ
tầng cơ sở, tạo vốn nhân lực, đổi mới sáng tạo, và phổ biến công nghệ là có tầm quan
trọng quyết định đối với khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu. Các chính sách này cần
phải được bổ sung bằng một hệ thống tỉ giá hối đoái ổn định không trừng phạt hay ưu
đãi cho xuất khẩu, và một chính sách cạnh tranh khuyến khích sự cạnh tranh giữa các
nhà sản xuất trong thị trường nội địa, bao gồm cả các công ty nước ngoài. Đó là
những chính sách hỗ trợ cho phát triển nói chung, không giới hạn và không ưu đãi cho
một số ngành hay một số nhà sản xuất cụ thể nào.
Để đáp lại nỗi lo sợ về hành vi chống cạnh tranh của các công ty nước ngoài, cần phải
đề ra đạo luật hiệu quả trong nước về cạnh tranh để bảo đảm cạnh tranh công bằng,
chứ không phải là áp đặt các yêu cầu hay các giới hạn về kết quả hoạt động. Nhiều
quốc gia đã bắt đầu ban hành hoặc đang chuẩn bị ban hành luật cạnh tranh. Tuy vậy,
vấn đề mấu chốt ở đây là phải có các cơ chế và thể chế phù hợp có khả năng thực thi
luật đó một cách khách quan, và có thể thực hiện các điều tra nghiên cứu cần thiết. Do
các hạn chế về năng lực, sẽ cần nhiều thời gian để thực hiện quá trình này trong nhiều
nước đang phát triển. Vì vậy rất cần phải tập trung vào việc tự do hóa thương mại
dịch vụ, cải cách luật lệ trong nước, FDI, và các thị trường yếu tố khác, đồng thời bảo
đảm rằng các chính sách trong các lĩnh vực đó tuân thủ theo đúng các luật lệ và kỷ
luật của WTO. Một trong các ưu điểm của luật lệ của WTO trong bối cảnh này là tính
trung lập của chúng đối với các nhà sản xuất trong và ngoài nước, giúp bảo đảm cho
họ được cạnh tranh một cách bình đẳng.
Vẫn còn nhiều khả năng sử dụng các công cụ của chính sách công nghiệp như thuế
quan (trong phạm vi mức thuế đã cam kết); trợ cấp cho phát triển vùng, R&D, môi
trường; cũng như các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như các chương trình cho
vay và bảo hiểm tại mức lãi suất được trợ cấp, các quy định giảm thuế và phí, và các
khu chế xuất. Các nước đang phát triển có ý định sử dụng các chính sách như thế
(hoặc tìm cách gia hạn giai đoạn chuyển đổi để có thể sử dụng các biện pháp khác
không phù hợp với WTO) cần phải đánh giá xem các chính sách ưu tiên cho một số
nhà sản xuất cụ thể là có lợi cho quốc gia đến mức nào. Đồng thời, giai đạn chuyển
đổi phù hợp để chuyển sang lập trường chính sách chung hơn cần phải dựa trên sự
đánh giá thực tế, phản ánh đúng chiến lược phát triển đất nước và nhu cầu xây dựng
thể chế, năng lực, và khả năng. Cuối cùng, việc theo đuổi các chính sách công nghiệp
cần phải tuân theo các tiêu chí được xác định ở đầu chương này: các mục tiêu phải
được xác định rõ ràng, công cụ chính sách phải được khẳng định là phù hợp nhất để
đạt được các mục tiêu đó; và việc thực thi phải minh bạch và đáp ứng được các tiêu
chí rõ ràng, tốt nhất là phải có các yêu cầu rõ ràng về kết quả và điều kiện rút lui.
Chú thích
Chương này dựa trên Bora, Lloyd và Pangestu (2000)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Nin khĩa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Pht trịển, thương mại, v WTO
Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước
đang phát triển
Bernard Hoekman et al. 15 Biên dòch: Hoaøng Nhò
1
Martin và Mitra (2001) chỉ ra rằng tỉ lệ tăng trưởng năng suất trong nông nghiệp là cao hơn cả về
trung bình và cho các nhóm nước ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
2
Để biết phần thảo luận về tầm quan trọng của sở hữu nước ngoài trong bối cảnh phát triển., xem
UNCTAD (1999c).
3
Xem Kemp (1964) để biết về bài trình bày cẩn thận đầu tiên của lập luận ngành công nghiệp non trẻ;
cũng xem Baldwin (1969).
4
Xem Lipsey và Lancaster (1956) về bài trình bày lý thuyết đầu tiên, xem Lloyd (1974) và Hatta
(1977) về bản chất của tập hợp các trợ cấp thuế tốt thứ nhì. Thảo luận về các công cụ tốt thứ nhì khác
như tỉ lệ nội địa có thể được tìm thấy trong Rodrik (1987); Greenaway (1992); Chao và Yu (1993);
Richardson (1993); Morrissey và Rai (1995); và Moran (1998). Để xem thảo luận về các loại trợ cấp
xuất khẩu, xem Harris và Schmitt (1999).
5
Trong trường hợp các quốc gia bị ảnh hưởng của khủng hoảng nằm trong chương trình của IMF –
Inđônêxia, Hàn Quốc và Thái Lan – các cải cách được cam kết là toàn diện cả về phương diện tự do
hóa tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ, cũng như về FDI và chính sách cạnh tranh. Việc thực thi
vẫn còn là vấn đề, nhưng các bước đã thực hiện là khá ấn tượng.
6
Cần phân biệt giữa các ngành “hoàng hôn” và “non trẻ”. Loại thứ nhất là những ngành đang suy
giảm; loại thứ hai là các ngành đang mở rộng và, vì có các thất bại thị trường, nên cần được bảo hộ
khỏi sự cạnh tranh.
7
Xem chương 22 của Finger. Ông nhận xét rằng những công cụ này đang được các nước đang phát
triển sử dụng ngày càng nhiều; cũng xem Laird (1997)
8
Hiệp định này chỉ áp dụng cho các sản phẩm không phải là nông sản; Hiệp định về Nông nghiệp của
WTO bao gồm các kỷ luật riêng, và toàn diện hơn, đối với các loại trợ cấp cho nông nghiệp.
9
Hiệp định này có một danh mục các loại biện pháp được coi là đóng góp tài chính: các khoản cho
không, cho vay, góp cổ phần, bảo lãnh khoản vay, các ưu đãi về tài chính, cung cấp hàng hóa và dịch
vụ. Vì chính phủ được định nghĩa là bất kỳ cơ quan công quyền nào trong lãnh thổ của một thành viên,
định nghĩa này bao gồm cả các chính quyền cấp dưới trong nước, các cơ quan công quyền, và các công
ty quốc doanh. Định nghĩa về quyền lợi chưa được giải quyết đầy đủ trong những vụ khiếu kiện có liên
quan đến các khoản đóng góp tài chính gián tiếp.
10
Tổn thương được định nghĩa là thiệt hại cho một ngành sản xuất trong nước do hàng nhập khẩu được
trợ cấp gây ra trên lãnh thổ của thành viên khiếu kiện. Thiên lệch nghiêm trọng là các tác động xấu trên
thị trường của thành viên trợ cấp hoặc trên thị trường thứ ba. Vô hiệu hóa lợi ích có thể xảy ra khi việc
tiếp cận thị trường được cải thiện do một khoản cam kết cắt giảm thuế, nhưng lại bị giảm đi do trợ cấp.