Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI VIỆC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO. potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.59 KB, 17 trang )









CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
ĐỐI VỚI VIỆC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 1 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
ĐỐI VỚI VIỆC XỐ ĐĨI GIẢM NGHÈO
L. Alan Winters
Bất luận được định nghĩa như thế nào, đói nghèo khơng phải là kết quả trực tiếp của mậu
dịch quốc tế. Đúng hơn, đói nghèo phản ánh sức thu nhập thấp, khơng có tài sản, tiếp cận
khó khăn với các nguồn lực cộng đồng, sức khoẻ và giáo dục yếu kém, khơng có thế lực,
và dễ bị tổn thương. Điều quan trọng khơng phải là điều gì gây ra những đặc điểm này


miễn là chúng vẫn tồn tại, mà cũng chẳng phải là cái gì sẽ giải thốt được khỏi những đặc
điểm này nếu có thể giải thốt được. Chính sách ngoại thương có vai trò quan trọng chỉ
trong chừng mực mà (a) nó ảnh hưởng đến các yếu tố trực tiếp xác định sự đói nghèo và
(b) so với tồn thể những chính sách khả dĩ khác, nó mang lại một đòn bẩy chính sách
hiệu quả cho việc giảm nghèo (đánh vào đói nghèo nhiều hơn để chống đỡ cho những cơ
hội bị bỏ lỡ).
Tự do hố mậu dịch có thể có những hệ quả bất lợi đối với một số người – trong
đó có một số người nghèo – mà người ta nên né tránh hay cải thiện những hệ quả bất lợi
đó đến mức độ tối đa có thể có. Tuy nhiên, niềm tin cơ bản của tơi là tự do hố mậu dịch
giúp cho tăng trưởng, mà đến lượt nó, tăng trưởng lại trợ giúp cho việc xố đói giảm
nghèo. Tơi cũng tin rằng một cuộc cải cách rộng rãi sẽ chứa đựng đủ các thành tố tích cực
để cho nhìn chung chỉ có một ít người trở nên những người chịu thiệt ròng mà thơi. Do
đó, về mặt tổng qt, chính sách ngoại thương khơng nên được vận dụng chặt chẽ nhắm
vào các hệ quả đói nghèo trực tiếp của nó. Mà đúng hơn chính sách ngoại thương nên
được thiết lập trên một cơ sở vững chắc chung, với sự thừa nhận rằng có thể có sự điều
chỉnh khơng thể tránh khỏi vì những lý do chính trị và những lý do khác. Phương thức cơ
bản để xử lý đói nghèo là thơng qua các chính sách xố đói giảm nghèo chung.
Cải cách ngoại thương và xố đói giảm nghèo
Các học giả về thương mại quốc tế từ lâu đã hiểu rằng cho dù đối với những nước nhỏ, sự
can thiệp ngoại thương nói chung vẫn khơng hiệu quả và lãng phí, tình trạng khơng hiệu
quả của họ thường bị chi phối một cách định lượng bởi các ảnh hưởng tái phân phối.
Nghĩa là, những tổn thất ròng từ sự can thiệp nhìn chung sẽ tiêu biểu cho những ảnh
hưởng tích cực lớn đối với một số người và hộ gia đình, cùng với những ảnh hưởng tiêu
cực lớn đối với những người và hộ gia đình khác. Vì vậy, cho dù việc bãi bỏ các biện
pháp can thiệp về mặt tổng qt sẽ cải thiện phúc lợi, nhưng nó có thể tạo ra cả người
thắng lẫn kẻ thua.
1
Lấy ví dụ, tự do hố một lĩnh vực nhập khẩu thường phân phối lại thu
nhập thực từ các nhà sản xuất sang người tiêu dùng vì giá giảm, và phân phối lại thu nhập
giữa các yếu tố sản xuất khác nhau theo một cách thức sao cho một số người được lợi

trong khi những người khác chịu thiệt.
Vấn đề tích cực quan trọng là vấn đề thực nghiệm: liệu tự do hố mậu dịch nói
chung có tạo ra đói nghèo hay chăng, và trong những tình huống nào nó có thể tạo ra đói
nghèo trong những trường hợp cụ thể? Trong tư liệu của Winters (2000a), tơi đã phân loại
chi tiết nối kết các cú sốc ngoại thương với sự đói nghèo của cá nhân và hộ gia đình, và
đã rút ra 11 vấn đề then chốt giúp trả lời cho câu hỏi sau (xem hộp 5.1). Việc phát hiện ra
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 2 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
một trường hợp trong đó cải cách ngoại thương gây ra đói nghèo có thể khơng tạo nên
được sự phủ nhận một giả thiết thú vị về mặt tư duy, nhưng nó cũng đặt ra một vấn đề
chính sách thực tế: chúng ta có nên kết án một cuộc cải cách ngoại thương vì nó có nghĩa
là có một người nghèo phải chịu thiệt thòi hay có một người bị đẩy vào đói nghèo? Tơi tin
tưởng mãnh liệt rằng chúng ta sẽ khơng làm thế. Đúng hơn, sự nhìn nhận tình thế khó
khăn phát sinh từ một cuộc cải cách ngoại thương đáng mong đợi về mặt tổng qt sẽ
kích thích việc tìm kiếm các chính sách bổ trợ để hạn chế tới mức tối thiểu những hệ quả
tiêu cực và giảm sự thiệt hại mà nó gây ra. Bác bỏ bất kỳ một cuộc cải cách nào có ảnh
hưởng bất lợi đối với bất kỳ một người nghèo nào là một liều thuốc dẫn đến sự đình trệ
dài hạn và sự gia tăng tối hậu của đói nghèo. Thậm chí u cầu khơng có hộ gia đình nào
tạm thời rơi vào tình trạng đói nghèo cũng có thể cực kỳ hạn chế tại các nước nghèo.
Quan điểm thiết thực hơn cho rằng số hộ gia đình (hay số người) nghèo sẽ khơng tăng thì

thích hợp hơn, cho dù ngay cả khi đó, sự xem xét về độ sâu của đói nghèo cũng cần thiết.

Hộp 5.5 Những câu hỏi then chốt để xác định tác động đói nghèo của một cuộc cải
cách ngoại thương

Các ảnh hưởng của sự thay đổi mức giá biên giới có được chuyển sang cho phần còn lại
của nền kinh tế khơng? Chính sách ngoại thương và các cú sốc vận hành chủ yếu thơng
qua giá cả. Nếu sự thay đổi giá khơng được truyền đi – ví dụ, do chính phủ các nước vẫn
tiếp tục cố định giá trong nước của những hàng hố mà bề ngồi họ đã tự do hố trên thị
trường quốc tế – những ảnh hưởng trực tiếp nhất đối với đói nghèo, bất luận là tích cực
hay tiêu cực, vẫn trở nên vơ hiệu.
Liệu cải cách có thể mang lại cho những người tiêu dùng nghèo sự tiếp cận các
mặt hàng mới hay chăng? Có lẽ ảnh hưởng trực tiếp nhất của cải cách ngoại thương đối
với đói nghèo là thơng qua giá hàng hố và dịch vụ mà trong đó các hộ gia đình nghèo có
những vị thế ròng lớn. Cú sốc giá cả lớn nhất xảy ra khi giá ban đầu hay giá sau cùng có
hạn, còn các mức giá khác là vơ hạn (nghĩa là khi khơng có thị trường). Cú sốc mà xói
mòn hồn tồn một thị trường quan trọng – ví dụ, thị trường của một cây trồng thu hoa lợi
hay thị trường một dạng lao động nhất định – có thể có những ý nghĩa quan trọng đối với
đói nghèo. Tương tự, việc làm cho các cơ hội mới, hàng hố hay dịch vụ trở nên sẵn có
đối với người nghèo hơn giúp nâng cao phúc lợi đáng kể.
Liệu cải cách có thể ảnh hưởng một cách khác nhau đến những thành viên khác
nhau trong một hộ gia đình? Trong phạm vi một hộ gia đình, quyền đối với những hàng
hố và nguồn tài sản cụ thể sẵn có (ví dụ như lao động) thường được phân phối khơng
đồng đều. Có thể những tác động về mặt đói nghèo sẽ tập trung vào những thành viên
nhất định trong một hộ gia đình – thường là phụ nữ và trẻ em, những người có thể thiệt
thòi về mặt cá nhân thậm chí khi cả hộ gia đình được lợi về mặt tổng thể.
Liệu sự lan truyền có tập trung vào những lĩnh vực và hoạt động phù hợp với
người nghèo? Các khu vực trong một nền kinh tế ln có quan hệ với nhau, và nếu khả
năng thay thế cao, một cú sốc sẽ được truyền đi từ khu vực này sang khu vực khác. Thơng
thường sự lan truyền sẽ rộng đến nỗi nó gần như khơng có ảnh hưởng đến một địa

phương hay một khu vực cụ thể, nhưng đơi khi – ví dụ, khi ngoại thương dịch vụ có tính
chất rất địa phương – sự lan truyền sẽ hẹp nhưng lại sâu. Khi đó, điều cần thiết là phải hỏi
xem các ảnh hưởng trong đợt thứ hai (ảnh hưởng thứ cấp) có những tác động nghiêm
trọng về mặt đói nghèo hay chăng. Sự kích thích nơng nghiệp có thể mang lại những lợi
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 3 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
ích lớn ủng hộ người nghèo nhờ lợi thế kinh tế địa phương thơng qua sự lan truyền tốt
lành.
Những yếu tố sản xuất nào được thâm dụng trong những ngành chịu ảnh hưởng
nhiều nhất? Những thay đổi trong giá cả hàng hố sẽ ảnh hưởng đến tiền lương tuỳ theo
mức độ thâm dụng yếu tố sản xuất. Việc dự đốn các ảnh hưởng về giá hay mức độ thâm
dụng yếu tố sản xuất của các ngành chịu ảnh hưởng có thể rất phức tạp, như ta đã thấy với
các cuộc cải cách của châu Mỹ La tinh trong thập niên 80 và 90. Ngồi ra, nếu nguồn
cung ứng các yếu tố sản xuất có một độ co giãn nhất định nào đó, một phần của cú sốc
ngoại thương sẽ thể hiện qua sự thay đổi trong cơng việc làm chứ khơng thể hiện qua giá
các yếu tố sản xuất. Ở mức giới hạn, nếu cung yếu tố sản xuất hồn tồn co giãn, thì ta chỉ
thấy có những ảnh hưởng về mặt cơng việc làm mà thơi. Điều này phù hợp nhất với thị
trường lao động. Nếu mức lương thịnh hành được xác định bởi mức lương chỉ đủ để duy
trì cuộc sống (subsistence level), việc chuyển người lao động từ hoạt động này sang một
hoạt động khác khơng có ảnh hưởng khả kiến đối với đói nghèo. Tuy nhiên, nếu như mức

lương trong khu vực chịu ảnh hưởng bởi ngoại thương cao hơn (ví dụ như do khu vực này
phải tn thủ qui định về mức lương tối thiểu chẳng hạn), sự gia tăng hoạt động sẽ có xu
hướng làm giảm đói nghèo, và sự giảm sút hoạt động sẽ có xu hướng làm tăng đói nghèo.
Sự phân chia chính thức- phi chính thức có ý nghĩa quan trọng trong khía cạnh này. Xét
chung trong tồn bộ, điều quan trọng cần nhớ là sự khác nhau giữa phân phối chức năng
và phân phối cá nhân đối với thu nhập. Mức lương giảm đối với người lao động phổ
thơng (khơng có tay nghề) chỉ tạo ra đói nghèo trong chừng mực mà người nghèo phụ
thuộc một cách khơng cân xứng theo tỷ lệ vào mức lương đó.
Liệu cải cách có thực sự ảnh hưởng mạnh đến số thu ngân sách? Phản ứng tức
thời của chúng ta là cắt giảm thuế quan sẽ làm giảm thu ngân sách. Cho dù ở mức cực
đoan, điều này rõ ràng là đúng (thuế quan bằng khơng sẽ mang lại số thu thuế bằng
khơng), nhiều cuộc cải cách ngoại thương thực sự có tác động rất nhỏ hay thậm chí còn
có tác động tích cực đến số thu ngân sách, đặc biệt nếu cải cách chuyển đổi các hàng rào
phi thuế thành thuế quan, bãi bỏ các trường hợp miễn thuế, và hạ thấp thuế suất xuống
đến những mức độ mà làm giảm đáng kể nạn bn lậu. Ngay cả khi số thu giảm, cũng
khơng nhất thiết là chi ngân sách dành cho người nghèo sẽ giảm. Cuối cùng, đó là một
quyết định chính sách.
Liệu cải cách có dẫn đến sự chuyển đổi khơng liên tục trong các hoạt động? Nếu
thế, các hoạt động mới có rủi ro hơn so với những hoạt động cũ khơng? Nếu tự do hố
ngoại thương cho phép người ta kết hợp các hoạt động “quốc gia” với các hoạt động
“quốc tế”, rất có thể rủi ro sẽ giảm: các thị trường nước ngồi có thể ít biến động hơn thị
trường trong nước, và ngay cả nếu khơng phải thế, sự dàn trải rủi ro có thể làm giảm rủi
ro chung. Tuy nhiên, nếu cải cách ngoại thương dẫn đến những thay đổi triệt để khơng ít
thì nhiều trong các hoạt động kinh tế, có khả năng là rủi ro sẽ gia tăng, nếu hoạt động mới
rủi ro hơn hoạt động cũ.
Liệu cải cách có phụ thuộc vào hay ảnh hưởng đến khả năng người nghèo chấp
nhận rủi ro? Những người rất nghèo khơng thể chấp nhận rủi ro một cách dễ dàng. Vì hệ
quả của những cú sốc tiêu cực cho dù rất nhỏ cũng rất nghiêm trọng đối với người nghèo,
họ có thể khơng sẵn lòng chấp nhận những cơ hội mà làm tăng thu nhập bình qn của
họ, nếu như khả năng thua thiệt cũng gia tăng. Điều này có thể bỏ họ rơi lại đàng sau với

duy nhất những yếu tố tiêu cực của một hệ thống cải cách trọn gói. Tương tự, nếu một
cuộc cải cách làm cho người nghèo trở nên khó khăn khi tiếp tục các chiến lược đối phó
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 4 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
với rủi ro truyền thống của họ, nó có thể làm tăng tình trạng dễ bị tổn thương của họ trước
đói nghèo ngay cả khi nó làm tăng thu nhập trung bình.
Nếu cải cách có hệ thống và bao qt, liệu sự tăng trưởng được kích thích bởi cải
cách có gây ra bất bình đẳng hay khơng? Tăng trưởng kinh tế là chìa khố để xố đói
giảm nghèo bền vững. Chỉ khi nào nó hết sức bất bình đẳng thì nó mới làm tăng đói
nghèo mà thơi.
Liệu cải cách có ám chỉ những cú sốc lớn đối với một số địa phương cụ thể
khơng? Những cú sốc lớn có thể tạo ra những phản ứng khác nhau về mặt định tính so với
những cú sốc nhỏ hơn; lấy ví dụ, các thị trường có thể bị tắc nghẽn hay biến mất hồn
tồn. Như vậy, nếu một cuộc cải cách có nghĩa là sẽ có những cú sốc rất lớn đối với
những địa phương cụ thể, việc xoa dịu ảnh hưởng của nó thơng qua thực hiện dần dần
theo từng giai đoạn, hay tốt hơn là thơng qua các chính sách đền bù hay bổ trợ, có thể
được vận dụng. Tuy nhiên, có một sự đánh đổi, bởi vì thơng thường những cú sốc lớn hơn
sẽ phản ánh sự chênh lệch lớn hơn giữa thành quả hiện tại và thành quả tiềm năng, và do
đó cũng sẽ phản ánh những lợi ích dài hạn lớn lao hơn nhờ cải cách.
Liệu tình trạng thất nghiệp chuyển tiếp có tập trung vào người nghèo? Những

người khơng nghèo thường có tài sản giúp họ vượt qua thời kỳ điều chỉnh. Tình hình có
thể khơng may đối với họ, nhưng đó khơng phải là cái nghèo được định nghĩa một cách
chặt chẽ. Người nghèo thì khơng có tài sản, cho nên ngay cả những thời kỳ chuyển tiếp
tương đối ngắn ngủi cũng gây ra sự suy sụp sâu sắc trong đói nghèo. Nếu q trình
chuyển tiếp tác động đến người nghèo, có một lập luận mạnh mẽ ủng hộ việc sử dụng một
số lợi ích dài hạn từ cải cách để giúp họ vượt qua tình trạng căng thẳng của q trình điều
chỉnh.

Nguồn: Winters (2000a).

Mọi phán xét cuối cùng phải là định lượng, chứ khơng chỉ có tính chất định tính
mà thơi. Trong các tình huống thực tế, thật dễ dàng nhận ra những kẻ chịu thiệt thòi từ cải
cách ngoại thương hơn là những người được lợi tiềm năng. Kẻ thiệt thòi thì dễ nhận diện,
cụ thể, và có danh tính (xem Krueger 1990), trong khi người được lợi thì phân tán, và
dường như chỉ thuộc về tương lai và lý thuyết. Vì lý do này và những lý do khác nữa,
những kẻ thiệt thòi thường sẽ khả năng tốt để trình bày rõ ràng về quyền lợi của mình hơn
là những người được lợi, và vì thế khối lượng ý kiến khơng phải là một chỉ báo đầy đủ
cho sức mạnh tương đối của các ưu điểm và nhược điểm của một sự thay đổi chính sách.
Điều này đặc biệt đúng khi ta biết rằng người nghèo nói chung ít có khả năng quảng bá và
phòng vệ cho các quyền lợi của mình hơn so với các nhóm giàu có hơn.
Trong phần tiếp theo tơi sẽ tìm hiểu ba cách phản ứng trước khả năng cải cách
ngoại thương tạo ra đói nghèo: vận dụng chính bản thân chính sách ngoại thương, đền bù
cho những kẻ thiệt thòi hay người nghèo, và theo đuổi các chính sách bổ trợ để cố gắng
đảm bảo càng ít người chịu thiệt thòi càng tốt.
Liệu chúng ta có thể quản lý chính sách ngoại thương để giảm nghèo?
Một phản ứng tự nhiên trước khả năng tự do hố mậu dịch có thể làm trầm trọng thêm
tình trạng đói nghèo trong một số thành phần nhất định của xã hội là “quản lý” sự tự do
hố theo một cách thức sao cho loại trừ được hay chí ít cũng làm giảm được các vấn đề.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright


Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 5 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
Ở mức độ khái niệm, đây chỉ là một nhận thức phổ thơng: người ta có thể cho rằng giảm
nghèo là ưu tiên cao nhất; trong khi chính sách ngoại thương chỉ là một phương tiện để
đạt được mục đích. Việc làm có ý nghĩa là sắp xếp tất cả những cơng cụ mà chúng ta có
hướng tới việc đạt được mục đích chính của chúng ta, và thật là trái thói nếu ta làm bất kỳ
điều gì khác đi.
Nhưng trên mức độ thực hành, vấn đề là làm thế nào sử dụng chính sách ngoại
thương để đạt được các mục tiêu giảm nghèo. Thứ nhất, cũng có khả năng là chúng ta
thực sự cũng có những mục tiêu khác với mục tiêu xố đói giảm nghèo – ví dụ như về thu
nhập bình qn, an sinh, chính sách đối ngoại, hay tính bền vững của mơi trường – và
những mục tiêu này cũng cần phải được cân nhắc. Thứ hai, ngay cả khi để sang một bên
các mục tiêu khác, chúng ta cũng cần phải quyết định xem chúng ta muốn nhắm đến
những số đo đói nghèo nào: có những sự lựa chọn giữa các số đo dựa trên thu nhập hay
dựa trên tiêu dùng, ấy là chưa nói đến các khái niệm và bình diện khác đặc trưng cho các
quan điểm hiện đại về đói nghèo. Thứ ba, có thể có những thắc mắc về việc từ bỏ đói
nghèo ở một vùng này để đổi lấy đói nghèo ở một vùng khác như một sự thỏa hiệp, và thứ
tư, chắc chắn có sự đánh đổi giữa đói nghèo ngày nay và đói nghèo trong tương lai. Thứ
năm, có những đặc điểm gì khác trong các hệ thống chính sách trọn gói mà chúng ta đang
nhắm đến hay khơng? Có phải những cơng cụ chính sách khác bị cố định ở mức độ hiện
tại, cho nên chỉ có duy nhất một vấn đề là cải cách ngoại thương tác động trực tiếp như
thế nào đến thu nhập thực của người nghèo? Hay chúng ta có thể cho rằng các chính sách

khác sẽ được tối ưu hố sao cho việc nâng cao thu nhập trong một thành phần dân chúng
giàu có hơn bằng tổn thất là mức giá cao hơn đối với người nghèo vẫn có thể chấp nhận
được vì nó sẽ cho phép tái phân phối thu nhập thơng qua hệ thống thuế- lợi ích mà sẽ đền
bù nhiều hơn cho sự gia tăng khoảng cách thu nhập ban đầu? Những câu hỏi này cho thấy
rằng nếu cứ nói rằng”hãy quản lý chính sách ngoại thương” thì khơng ích lợi gì cho đến
khi người ta nêu rõ làm thế nào để quản lý được chính sách ngoại thương.
Đừng làm điều đó
Một cách phản ứng trước nỗi lo sợ rằng tự do hố mậu dịch sẽ gây ra đói nghèo là “đừng
làm điều đó”. Nhưng ngay cả nếu ảnh hưởng trực tiếp của một cuộc cải cách có thể là làm
cho tình trạng đói nghèo nói chung trở nên trầm trọng hơn, thì điều này nhìn chung cũng
chẳng phải là cách phản ứng thỏa mãn nhất. Cho dù về mặt thực nghiệm người ta khó mà
tách biệt những ảnh hưởng của tự do hố mậu dịch đối với tăng trưởng, quan điểm phổ
biến vẫn cho rằng nó có một vai trò đáng kể. Các nghiên cứu đối với nhiều quốc gia đã
được cơng bố mà ủng hộ cho quan điểm này trong những năm 90 (ví dụ, Dollar 1992;
Sach và Warner 1995; Edwards 1998 gần đây đã được Rodriguez và Rodrik (2001) xem
xét lại. Những người sau này lập luận rằng, với một ít điều chỉnh, các số đo của các
nghiên cứu này về độ mở cửa đã có những sai sót – cụ thể, hoặc bởi vì chúng là các biến
nội sinh (chí ít do tăng trưởng như một ngun nhân của tăng trưởng) hoặc bởi vì chúng
bao gồm nhiều yếu tố hơn, chứ khơng chỉ là chính sách ngoại thương mà thơi. Họ cũng
lập luận rằng, các giá trị ước lượng kinh tế lượng thật là yếu ớt. Nhưng Rodriguez và
Rodrik khơng lập luận rằng tự do hố mậu dịch là có hại cho tăng trưởng, mà họ cũng
chẳng xem xét các bằng chứng khác về một mối quan hệ có lợi, như sự thất bại hiển nhiên
của các nền kinh tế đóng và những phát hiện về một số trường hợp nghiên cứu (ví dụ, tìm
đọc Srinivasan và Bhagwati 1999). Như vậy, tuy Rodriguez và Rodrik chắc chắn kêu gọi
chừng mực phải chăng trong các khuyến cáo về chính sách và các nỗ lực nghiên cứu đổi
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO

Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 6 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
mới, nhưng họ vẫn khơng đảo ngược nhận định cho rằng sự mở cửa có thể thúc đẩy tăng
trưởng dài hạn.
Sự khó khăn trong việc thiết lập một mối liên kết thực nghiệm giữa mậu dịch tự
do và tăng trưởng phát sinh chí ít một phần từ hai khó khăn, cả hai khó khăn này sẽ cho
chúng ta biết thái độ chính sách của chúng ta. Thứ nhất là khó khăn trong việc đo lường
lập trường quan điểm mậu dịch một khi người ta đứng bên trong biên giới của các chủ
quyền tuyệt đối: thuế quan cần phải được tổng hợp lại, các biện pháp hạn chế định lượng
phải được đánh giá và sau đó tổng hợp lại, độ tín nhiệm, khả năng dễ bị tổn thương trước
sự vận động hành lang, và tính cưỡng chế thực thi phải được đo lường (tìm đọc Winters
2000b). Điều này cho thấy rằng cho dù rõ ràng người ta nên khuyến cáo việc mở cửa,
song người ta cũng cần phải cẩn thận về việc cơng bố các cơ chế cụ thể là có mở cửa hay
chăng. Đất nước nào mở cửa hơn vào năm 1997: Brazil hay Chi lê? Cả hai đều có thuế
quan theo qui chế tối huệ quốc (most favored nation – MFN) vào khoảng 11- 12 phần
trăm, nhưng ở Chi lê xem ra khơng có sự tuỳ tiện và khơng có sự nhạy cảm trước việc
vận động hành lang cơng nghiệp, trong khi ở Brazil, người ta quan sát thấy các áp lực
chính trị diễn ra gần như hàng ngày.
Khó khăn thứ hai là ở chỗ cho dù các chính sách tự do hố mậu dịch có thể có lợi
trong bất kỳ tình huống nào đi chăng nữa (bởi nó mở rộng hệ thống các cơ hội), nếu
muốn có một ảnh hưởng hầu như lâu dài đối với tăng trưởng, gần như chắc chắn rằng
phải có sự kết hợp với các chính sách khác nữa. Nhận định sau này được lặp đi lặp lại bởi
Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong các khuyến cáo về chính sách của họ.
2


Krueger (1990) đã lập luận rằng sự mở cửa có thể có tương quan với chính sách tốt hơn
trên một số bình diện, và chúng ta có thể tìm thấy những bằng chứng hỗ trợ cho nhận định
này trong tài liệu của Ades và Di Tella (1997, 1999) về tham nhũng, và trong tài liệu của
Romer (1993) về lạm phát. Như vậy, sự mở cửa mang đến lợi thế khơng chỉ của bản thân
nó mà còn là một phần của chòm sao chính sách được thiết kế nhằm đảm bảo tính hiệu
quả và cạnh tranh trên thị trường, và tính minh bạch rõ ràng cũng như tính có thể dự đốn
được trong việc hoạch định chính sách.
Phần thứ hai của các mối bận tâm về sự liên kết giữa mở cửa và đói nghèo là lo
lắng về sự nối kết từ tăng trưởng đến đói nghèo. Trước khi có thể làm tồi tệ hơn tình trạng
đói nghèo tuyệt đối, sự tăng trưởng nhất thiết phải thiên lệch mạnh về phía chống lại
người nghèo. (Anh hưởng đối với sự bất bình đẳng là một chuyện khác, nhưng theo quan
điểm của tơi, đây là một chuyện làm xao lãng vấn đề chính.) Có những ví dụ về một mối
quan hệ nghịch biến như vậy (ví dụ, tìm đọc White và Anderson 2000), nhưng chúng lại
được cân bằng bởi những trường hợp trong đó sự tăng trưởng thiên vị một cách khơng
cân xứng về phía người nghèo. Như vậy, các phát hiện của Dollar và Kraay (2001) rằng
xét bình qn, tăng trưởng là tốt cho người nghèo xem ra rất mạnh (cũng giống như trong
nghiên cứu trước đây của Gallup, Radeler, và Warner 1998), và kết luận của họ rằng tăng
trưởng được dẫn dắt bởi tự do hố mậu dịch thì khơng có gì khác biệt về khía cạnh này
xem ra cũng khá thuyết phục. Người ta có thể tìm thấy một thách thức cho quan điểm sau
này trong nghiên cứu trước đây của Lundberg và Squire (2000), nhưng khi khảo sát sâu
xa hơn, họ cũng kết luận rằng tự do hố mậu dịch làm lợi cho người nghèo, cho dù lợi ích
mà tự do hố mậu dịch mang lại cho người nghèo ít hơn so với lợi ích mang lại cho
những hộ gia đình khấm khá hơn.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo




Bernard Hoekman et al. 7 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
Để kết luận, tơi lập luận rằng cho dù vẫn còn một số vấn đề nghiên cứu căng thẳng
trong lĩnh vực này, nhưng một cơ chế mậu dịch tự do gần như chắc chắn sẽ hỗ trợ cho sự
xố đói giảm nghèo trong dài hạn, và như vậy, tự do hố nên có một chỗ đứng trong kho
tàng của một chính phủ có ý thức về đói nghèo. Điều này khơng có nghĩa là kêu gọi sự
bãi bỏ tức thời tất cả các biện pháp hạn chế ngoại thương, và chắc chắn nó cũng khơng
ngụ ý rằng việc mở cửa biên giới là tất cả những gì người ta cần làm, nhưng tơi tin rằng,
nó kêu gọi sự cam kết một cách nghiêm túc và đáng tin cậy vào sự mở cửa trong một
tương lai có thể nhìn thấy trước được.
Đừng làm điều đó một cách hồn tồn
Một phản ứng thứ hai là “đừng làm điều đó một cách hồn tồn: trong khi nói chung mọi
thứ đều thiên về tự do hố, nhưng vẫn có một số lĩnh vực hay sản phẩm là ngoại lệ.” Thật
ra, tất cả các quốc gia đều có sự ngoại lệ này (ví dụ như lĩnh vực nơng nghiệp ở châu Au
và may mặc ở Hoa Kỳ chẳng hạn), nhưng điều đó khơng nhất thiết sẽ làm cho họ trở
thành những nền kinh tế tốt. Xét chung thành quả kinh tế, rõ ràng có những trường hợp
trong đó sự can thiệp một cách tách biệt trong ngoại thương có thể mang đến phúc lợi
kinh tế tức thời – qua đó, các yếu tố ngoại tác, thất bại về thơng tin, hay các cú sốc ngẫu
nhiên có thể được khắc phục một cách hữu ích bằng một sự can thiệp được cân nhắc kỹ
của chính phủ. Nhưng ứng với sự khó khăn trong việc nhận diện các trường hợp này,
ngăn ngừa chúng đừng bị thu tóm bởi các nhóm có chung quyền lợi, và tránh phát ra một
tín hiệu có tính hệ thống rằng sự vận động hành lang để được can thiệp là có lợi, người ta
khơng rõ liệu sẽ có lợi khi theo đuổi những trường hợp này hay khơng. Do vậy, cho dù
người ta khơng cần xúc tiến mọi phương cách tiến tới mậu dịch tự do để gặt hái lợi ích
của tự do hố, nhưng lập luận chung nhằm lên kế hoạch cho một loạt các ngoại lệ thì
khơng được hùng hồn mạnh mẽ lắm. Người ta cần những bằng chứng hết sức thuyết phục
về tính hiệu quả của sự can thiệp như thế, và xét tổng thể, những bằng chứng như vậy rất

ít ỏi. Sức thu hút đơn giản trước kinh nghiệm của Đơng Á thì khơng đủ sức thuyết phục;
nó khơng vượt qua sự tranh biện rằng các biện pháp can thiệp ngoại thương của các nước
này là quan trọng hay có lợi (Lee 1996 đề xuất nhận định ngược lại đối với Hàn Quốc) và
người ta khơng chắc chắn rằng các quốc gia khác liệu có những thể chế hoạch định chính
sách để có thể mơ phỏng lập trường chính sách của Đơng Á một cách hữu hiệu hay
chăng.
Ngồi các cân nhắc về tính hiệu quả, chúng ta phải cơng nhận rằng tự do hố mậu
dịch là một hành động chính trị và rằng chính phủ phải tạo ra đủ sự nâng đỡ về mặt chính
trị để duy trì cải cách. Ngay cả những cuộc cải cách khắt khe nhất cũng cần phải hài hồ
với các lý do chính trị; ví dụ, hãy tìm đọc Edwards và Lederman (1998) về Chi lê, nơi mà
những mặt hàng nơng sản nhất định được ban cho sự bảo hộ đặc biệt dưới hình thức biên
độ giá cả. Tuy nhiên, việc thừa nhận nhu cầu cần có sự thỏa hiệp như thế khơng có nghĩa
là khuyến cáo sự thỏa hiệp, và điều quan trọng cần nhớ là người nghèo trên đấu trường
chính trị thực sự còn yếu kém hơn so với trên thị trường kinh tế. Hiếm khi nào việc bảo
vệ người nghèo và việc gặt hái sự hỗ trợ chính trị cho cải cách lại trùng hợp nhau. Người
ta thường tư vấn cho chính phủ các nước là nên làm mọi điều khả dĩ để tránh sử dụng các
cơng cụ chính sách ngoại thương cho các mục đích chính trị. Một trong những cơng cụ
mạnh nhất để tránh các áp lực chính trị là sự đồng đều – cơng khai đối xử với mọi hàng
hố một cách cơng bằng như nhau. Một động cơ như vậy rõ ràng đã được cơng bố rõ ràng
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 8 Biên dịch: Kim Chi

Hiệu đính: Quang Hùng
ở Chi lê khi đất nước này bước vào cuộc cải cách lớn vào giữa thập niên 70 (Edwards và
Lederman 1998).
Có thể có một lập luận mạnh mẽ hơn cho các trường hợp ngoại lệ đối với tự do
hố vì mục đích xố đói giảm nghèo trực tiếp: kết quả có thể đo lường được một cách
khách quan và có thể cho là tách biệt về mặt chính trị với sự can thiệp chung. Do vậy, nếu
có thể nhận diện một cách rõ ràng những sản phẩm cụ thể là hàng tiêu dùng hay hàng sản
xuất đối với người nghèo, người ta có thể biện minh cho việc trì hỗn tự do hố một cách
có ý nghĩa. Tuy nhiên, cũng có một số điều báo trước quan trọng cho một đề xuất như
vậy. Thứ nhất, việc tính tốn cần phải khắt khe trong việc xác định “những người nghèo”
mà quyền lợi của họ sẽ được bảo vệ. (Ravallion và van de Walle 1991 đã cho chúng ta
thấy ở Indonesia người nghèo và người rất nghèo có quyền lợi đối kháng nhau như thế
nào trong việc tự do hố gạo.) Thứ hai, các sản phẩm cần được nối kết chặt chẽ với người
nghèo để cho những lợi ích phân phối của việc bảo vệ họ khơng bị bù đắp bằng tổn thất
về tính hiệu quả ở những nơi khác trong nền kinh tế. Hàng hố mà chúng ta quan tâm cần
phải có tầm quan trọng lớn lao đối với người nghèo – gần như ln ln là một mặt hàng
lương thực về phía tiêu dùng, và thường là một mặt hàng nơng sản về phía sản xuất – và
khơng có ảnh hưởng đến các bộ phận khác của xã hội. Ví dụ, trên bình diện sau, trong
thập niên 70, người ta đã tường thuật rằng ngồi những ảnh hưởng bất kỳ đối với người
nghèo mà các khoản trợ cấp bánh mì của Ai Cập có thể có, các khoản trợ cấp này còn
đáng giá đối với các nhà chăn ni lợn dùng bánh mì mới làm thức ăn cho lợn.
Thứ ba, việc giám sát chặt chẽ là cần thiết để đảm bảo đạt được những ảnh hưởng
như mong đợi. Một mục tiêu quan trọng cần nhớ là người nghèo sẽ tiếp tục được tiếp cận
với các ảnh hưởng của chính sách và khơng bị đẩy ra ngồi bởi quyền lợi của giai cấp
trung lưu có thế lực và có tiếng nói hơn. Nói chung, người nghèo làm ăn sinh sống yếu
kém trong các cơ chế phân bổ tuỳ tiện, chính xác bởi vì họ bị cho là thứ yếu về mặt chính
trị và xã hội, cũng như về mặt kinh tế. Vì thế, các biện pháp hạn chế xuất khẩu nhằm giữ
mức giá lương thực địa phương thấp chẳng hạn, có thể sẽ khơng làm lợi cho người nghèo
nếu giá thấp có nghĩa là cần phải có sự phân phối định mức ngồi giá cả.
Thứ tư, một kế hoạch dài hạn là cần thiết để giúp giảm sự phụ thuộc của người

nghèo vào sự can thiệp chính sách. Bằng khơng, sự can thiệp chẳng qua chỉ là làm cho
chiếc đồng hồ ngừng chạy, chẳng mang lại triển vọng gì cho sự phát triển dài hạn.
Nhìn chung, “khơng làm điều đó một cách hồn tồn” là một kiến nghị chính sách
khơng thích hợp. Hoạt động chính trị, đặc biệt việc bảo vệ quyền lợi của người nghèo, sẽ
dễ dàng hơn nếu chính phủ có thể cơng khai bác bỏ sự nài xin đặc biệt dựa trên cơ sở là
mọi người đều được đối xử bình đẳng. Về thực tế, có thể có – có thể phải có – tình trạng
khơng giữ đúng mục tiêu nào đó trong một nỗ lực như vậy, nhưng xem ra đối với tơi, việc
bước vào tiến trình kỳ vọng hay kiến nghị việc khơng giữ đúng mục tiêu là chẳng đáng
mong đợi. Ngoại lệ duy nhất mà tơi thực hiện là sự miễn trừ tạm thời cho những hàng hố
hay dịch vụ mà có thể được nối kết một cách rõ ràng và chặt chẽ với người nghèo. Phải
có những bằng chứng chứng tỏ tính hiệu quả của những hàng hố hay dịch vụ được xem
xét miễn trừ.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 9 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
Đừng làm điều đó bây giờ
“Đừng làm điều đó bây giờ” là một phản ứng hữu ích hơn các phản ứng khác trong một
số trường hợp. Ví dụ, cải cách ngoại thương giữa thời kỳ suy thối xem ra có thể dẫn đến
tình trạng thất nghiệp chuyển tiếp lâu dài hơn nhiều so với cải cách trong thời kỳ kinh tế
hưng thịnh. Một lần nữa, ở nơi mà việc đầu tư là cần thiết để sản xuất hàng hố chất
lượng xuất khẩu, có thể việc dành thời gian để đầu tư là việc làm đáng mong đợi. Tuy

nhiên, có sự khác biệt lớn giữa việc cam kết thực hiện chính sách với những thời kỳ điều
chỉnh lâu dài và việc trì hỗn tự do hố vì “thời điểm chưa chín muồi”. Điểm then chốt là
niềm tin rằng cải cách sẽ thực sự xảy ra. Chi phí điều chỉnh có thể thấp hơn nếu việc điều
chỉnh có thể được trải rộng ra theo thời gian, nhưng cũng có thể gia tăng nếu việc điều
chỉnh bị kháng cự trong niềm hy vọng rằng mối đe doạ cải cách sẽ lùi ra xa. Một vài cuộc
cải cách ngoại thương đã được đẩy nhanh một khi đã được phát động; các ví dụ bao gồm
việc thực hiện tự do hố mậu dịch trong Cộng đồng Kinh tế Châu Au, việc thực hiện cắt
giảm thuế quan của vòng đàm phán Kenedy, và cắt giảm thuế quan trong hiệp định mậu
dịch tự do của Hiệp hội các Quốc gia Đơng Nam Á (ASEAN). Thơng thường sự tăng tốc
xảy ra theo mệnh lệnh của khu vực tư nhân, có lẽ bởi vì một khi người ta đã chấp nhận
rằng cải cách sẽ xảy ra, hoạt động kinh doanh mong muốn được điều chỉnh nhanh chóng.
Như vậy, thực hiện cơng cuộc tự do hố mậu dịch lớn lao một cách từ từ theo từng
giai đoạn có lẽ là cơng việc đáng mong đợi, giống như vòng đàm phán Uruguay đã cho
phép có những khoảng thời gian điều chỉnh lâu dài chẳng hạn. Tuy nhiên, việc thực hiện
dần dần theo từng giai đoạn khơng đơn thuần chỉ đòi hỏi trì hỗn sự điều chỉnh lớn nhất
lâu nhất; người ta nên chú ý tới các nhu cầu điều chỉnh khác nhau của các khu vực khác
nhau và nên chú ý tới sự tương tác qua lại giữa các bộ phận khác nhau trong cả hệ thống.
Lấy ví dụ, nếu các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra của một lĩnh vực nhất định được tự
do hố theo các tỷ lệ rất khác biệt nhau, lĩnh vực này có thể đứng trước những động cơ
khuyến khích tiêu cực hoặc tích cực một cách thái q đối với việc sản xuất trong q
trình chuyển tiếp.
3
Bất luận thời kỳ chuyển tiếp như thế nào, việc cam kết một cách đáng
tin cậy vào mục tiêu cuối cùng có ý nghĩa quan trọng, vì khơng có nó, những hoạt động
hiện tại hay những hoạt động tiềm năng trong tương lai xem ra sẽ khơng đáng mong đợi
nữa, và các nỗ lực sẽ bị chệch hướng vào hoạt động vận động hành lang.
Các chính sách đền bù cho các quốc gia đang phát triển
Nếu tự do hố mậu dịch gây ra đói nghèo cho những thành phần nào đó trong xã hội, vấn
đề kế tiếp là liệu xã hội có đền bù cho ảnh hưởng đói nghèo này một cách trực tiếp được
khơng. Bất luận sự thu hút về mặt lý thuyết của các khoản chuyển giao ngân sách gộp đối

với các nhà kinh tế học, chính phủ các nước nhìn chung khơng ưa chuộng hình thức
chuyển giao ngân sách gộp này do chi phí của nó, tính minh bạch rõ ràng của nó (và tính
minh bạch rõ ràng của việc lạm dụng nó), và do nó khơng có hình thức bên ngồi là chữa
trị được “những vấn đề” mà các cá nhân phải đối phó. Đúng hơn, sự trợ giúp của chính
phủ thường được thực hiện dưới hình thức như tái đào tạo, tái bố trí, và trợ cấp thu nhập
tạm thời. Thật ra, các phương pháp này có lẽ có sự đóng góp nhất định, cho dù chúng gặp
phải những khó khăn nghiêm trọng. Việc tái đào tạo chính thức trong bất kỳ tình huống
nào cũng chỉ là thành cơng pha lẫn thất bại, và điều tệ hơn, thật khó mà phân biệt được
giữa những trường hợp trong đó ngoại thương là ngun nhân của vấn đề và những
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 10 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
trường hợp mà ngoại thương khơng có lỗi gì. Trừ khi người ta sẵn lòng cam kết bảo trợ
cho mọi sự điều chỉnh, việc nhận diện các trường hợp được trợ giúp là một khó khăn lớn.
Tuy nhiên, việc đưa ra sự cam kết chung cho mọi trường hợp thì khơng được hấp dẫn bởi
lẽ nó đòi hỏi chi phí khổng lồ và bởi vì nếu làm thế thì sẽ chuyển dịch rủi ro tư nhân
thành rủi ro cơng cộng, mà mọi thành phần tham dự đều mang tâm lý ỷ lại. Vai trò của
nhà nước khơng phải là hấp thu tất cả những cú sốc tiêu cực gây khó khăn cho các cá
nhân, mà việc đó cũng chẳng khả thi. Tuy vậy, thật khó mà đưa ra một lập luận hợp đạo
lý giải thích lý do tại sao các cú sốc ngoại thương nhận được sự hỗ trợ điều chỉnh, còn các
sú sốc khác thì khơng.

4
Việc đền bù theo một phương thức sao cho khuyến khích thay vì làm chán nản
q trình điều chỉnh cũng dẫn đến một điểm phức tạp hơn nữa. Chính sách nơng nghiệp
châu Au thực chất được thiết kế để bảo vệ nhà nơng trước hệ quả của tình trạng sút giảm
lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, nó có tác động ban thưởng đối với các nhà nơng hiện thời,
chứ khơng phải trước đây. Sự đền bù có thể được tách ra khỏi sản lượng hiện tại nhưng
khơng tách ra khỏi hoạt động nơng nghiệp.
Trong những trường hợp mà tự do hố dẫn đến mất việc làm, chính phủ có thể
cương quyết thực hiện các khoản thanh tốn cho lao động dơi dư, và có thể hỗ trợ về tài
chính. Các khoản thanh tốn này có thể giúp một số người tránh khỏi đói nghèo, nếu họ
sử dụng số tiền một cách có lợi, nhưng người ta khơng đảm bảo họ sẽ làm được như thế.
(Tìm đọc Winters 2000a về “người nghèo mới” ở Zimbabwe.)
5
Ngồi ra, các khoản thanh
tốn lao động dơi dư thường ban thưởng dịch vụ q khứ, chứ khơng phải nhu cầu hiện
tại, và vì thế chúng khơng nhắm đúng vào mục tiêu xố đói giảm nghèo.
Các chính sách đền bù chung, bao gồm mạng lưới an sinh xã hội, được thiết kế để
trực tiếp xố bỏ tình trạng nghèo đói phát sinh từ một nguồn gốc bất kỳ. Chúng thay thế
vấn đề nhận diện cú sốc bằng nhiệm vụ nhận diện người nghèo. Một cách lý tưởng, các
nước vốn đã có sẵn những chương trình như thế rồi. Thật ra, phần lớn ảnh hưởng của các
chương trình này chỉ phát sinh từ sự hiện hữu của chúng chứ khơng phải từ việc sử dụng
chúng: chúng tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh thơng qua đảm bảo với người nghèo rằng
họ có một khoản trợ cấp tối thiểu (cho dù chỉ là một khoản vừa đủ có thể chấp nhận được)
khơng thể thấp hơn được nữa. Những chương trình như thế, nếu đã có sẵn tại những quốc
gia đang trong q trình điều chỉnh do cải cách ngoại thương, sẽ có ưu điểm hơn so với
những chương trình được thiết kế riêng cho cải cách ngoại thương về tính tự động, tức
thời, an tồn, và chúng cũng tránh được những vấn đề đi kèm với sự hỗ trợ điều chỉnh
ngoại thương mà trong đó có việc chọn mục tiêu được hưởng sự hỗ trợ. Nếu được xây
dựng một cách hợp lý, chúng khơng nhất thiết đòi hỏi phải chi tiêu ngân sách nhiều;
khơng có cơ hội xảy ra vấn đề tâm lý ỷ lại nếu ngưỡng trợ cấp được ấn định đủ thấp; và vì

việc xố nghèo ít nhiều được cơng nhận trên tồn cầu như một nghĩa vụ của nhà nước,
nên sẽ khơng có lập luận về tính hợp pháp của những hành động can thiệp như thế.
Việc chọn mục tiêu hưởng sự trợ giúp của chính phủ là một vấn đề lớn trong
mạng lưới an sinh, khơng chỉ về mặt kỹ thuật mà còn bởi vì các tầng lớp trung lưu thường
tiếp cận sự trợ giúp của chính phủ tốt hơn so với người nghèo. Tính bền vững lại là một
khó khăn khác nữa; một cú sốc ngoại thương lớn có thể gây ra áp lực tài chính nghiêm
trọng đối với một chương trình trợ giúp của chính phủ ngay khi nó cần thiết nhất.
Ravallion (1999) đưa ra một số ý tưởng hữu ích về việc thiết lập mạng lưới an sinh.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 11 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
Chương trình xây dựng dự án việc làm (Workfare) là một điểm khởi đầu tốt, miễn là tiền
lương đủ thấp, khơng có sự tuỳ tiện về mặt hành chính trong việc áp dụng, và nhiệm vụ
đặt ra được xem là vì quyền lợi của cộng đồng. Thật vậy, Ravallion đề nghị rằng các cộng
đồng địa phương nên chọn ra những dự án được thực hiện theo chương trình Workfare và
rằng người ta nên u cầu những cộng đồng khấm khá hơn đồng tài trợ cho các dự án
này. Tuy nhiên, chương trình Workfare phải được bổ sung bằng các chương trình cung
cấp lương thực cho những người như người già và người ốm yếu khơng có khả năng lao
động và cho trẻ em (ví dụ như thơng qua các chương trình Lương Thực Cho Giáo Dục).
Những chương trình bổ sung này có thể được tiến hành và kết thúc tuỳ theo nhu cầu,
nhưng chúng nên có một cơ sở hạ tầng lâu dài và có thể được phát động nhanh nhạy.

Theo định nghĩa, việc chi tiêu cho mạng lưới an sinh có tính chất ngược chu kỳ (khi thu
nhập cao thì ít phải chi tiêu, nhưng khi thu nhập thấp thì phải chi tiêu nhiều) và vì thế cần
phải có sự cam kết chắc chắn của chính phủ để đảm bảo rằng ngân sách khơng bị cạn kiệt
vào những lúc người ta cần đến nhất.
Ta có thể tìm thấy ví dụ về những mạng lưới an sinh hữu ích nhất tại Bangladesh.
Theo Hiệp hội Uỷ thác và Thống nhất Tiêu dùng,
Nhìn chung người ta thừa nhận rằng những chương trình an sinh xã hội như chương trình
Food for Education (FFE - Lương thực cho giáo dục), Vulnerable Group Development
(VGD – Phát triển nhóm những người dễ bị thiệt hại), Test-Relief (Giảm nhẹ thử thách)
và Food for Work (Lương thực cho lao động) giúp xố đói giảm nghèo một cách tích cực.
Lấy ví dụ, trong trận lụt chưa từng thấy vào năm 1998, khoảng 4,5 triệu thẻ VGD đã được
phân phối ở Bangladesh, mang đến sự trợ giúp thiết yếu ngay vào lúc cần thiết nhất.
Chương trình FFE đã giúp tăng mức phổ cập giáo dục của trẻ em nghèo thêm 21%.
(CUTS 1999: 110).
Ngược lại, mạng lưới an sinh ở Zambia và Zimbabwe hiện bị xem là hoạt động
q yếu kém và khơng được tài trợ đầy đủ để có thể mang đến sự trợ giúp nghiêm túc cho
những người chịu thiệt thòi bởi tự do hố mậu dịch.
Các mạng lưới an sinh khơng phải là lời giải đáp duy nhất cho mối đe dọa đói
nghèo gia tăng từ tự do hố mậu dịch, nhưng đó là phần quan trọng trong các phản ứng
của chúng ta. Nói chung, các mạng lưới an sinh xã hội có thể được nhắm đến tốt hơn so
với các chính sách khác, và chúng khơng bị biến dạng lắm bởi các áp lực thị trường. Nếu
các nước khơng có mạng lưới an sinh thì nên xem xét việc thiết lập các mạng lưới này
như một phần của việc tự do hố mậu dịch mà có thể tạo ra sự dói nghèo tạm thời. Tuy
nhiên, khơng nên xây dựng các mạng lưới an sinh theo từng cú sốc ngoại thương.
Các chính sách bổ trợ để thị trường vận hành tốt hơn
Một vấn đề quan trọng liên quan đến tác động của tự do hố mậu dịch về mặt đói nghèo,
đặc biệt vì những sự bất ngờ gắn liền với nó, là sự vận hành của các thị trường. Tự do hố
mậu dịch phải đi kèm với việc giám sát để xác định liệu các thị trường có bị thất bại hay
chăng. Các chính sách được soạn thảo nhằm đảm bảo thị trường tiếp tục vận hành hay
phát triển ở những nơi cần thiết sẽ mang lại lợi ích cho thu nhập quốc gia cũng như giúp

xố đói giảm nghèo. Một số tình huống quan trọng được thảo luận trong phần sau.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 12 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
Hỗ trợ cơ sở hạ tầng
Các cơ hội tiềm tàng cho những nhà sản xuất nghèo được hưởng lợi từ một cơ chế ngoại
thương thơng thống hơn sẽ bị mất đi do khơng có cơ sở hạ tầng cần thiết hay cơ sở hạ
tầng đã bị hư hại. Ở Zimbabwe và Zambia, cơ hội đối với các nhà nơng ở những vùng xa
xơi bị hạn chế bởi họ khơng thể tiếp cận được với các trung tâm thị trường lớn. Theo cùng
một cách thức như vậy, nhiều lợi ích từ việc bãi bỏ các qui định về bán lẻ và từ tình trạng
sẵn có các hàng hố mới hoặc rẻ hơn cũng bị hạn chế trong phạm vi các vùng đơ thị và
gần đơ thị.
Các thể chế thị trường
Xem ra người nghèo thường khơng thể có được số đơng kinh tế cần thiết để thiết lập
những thị trường mà một khi đã hình thành, sẽ có thể đứng vững được. Chính sách nhà
nước nên nhắm vào mục tiêu tạo ra thị trường như một thể chế, chứ đừng nhắm vào việc
trợ cấp liên tục cho hoạt động thị trường. Một khía cạnh tạo thuận lợi cho việc tham gia
của người nghèo vào thị trường có thể là tìm kiếm những phương tiện cho phép họ kết
hợp những yếu tố đầu vào và đầu ra rất nhỏ thành một số lượng lớn một cách hợp lý và
nhờ thế giảm được chi phí giao dịch đủ để làm cho việc giao dịch với các nhà sản xuất
nghèo trở nên đáng giá. Nghề làm vườn ở Zimbabwe cho ta một ví dụ minh họa cho một

chính sách thành cơng thuộc loại này (Winters 2000a). Cho dù nghề làm vườn tương đối
kém phát triển trong hầu hết các vùng nơng nghiệp qui mơ nhỏ của các nhà nơng nhỏ,
nhưng số lượng các hộ gia đình chung tái định cư ngày càng tăng hiện đang trở thành
những nhà sản xuất các loại hoa màu chính. Điều này chủ yếu là kết quả của các chương
trình “phát triển nhanh hơn” và việc khai thác nguồn lực bên ngồi thơng qua ký hợp
đồng thầu phụ của các trang trại thương mại có qui mơ lớn. Hội Đồng Phát Triển Nghề
Làm Vườn (HPC) ước lượng rằng khoảng 3.000 nhà nơng qui mơ nhỏ hiện đang tăng
trưởng để xuất khẩu hoa màu trên cơ sở hợp đồng, chiếm xấp xỉ 10 phần trăm hàng xuất
khẩu của Zimbabwe.
6
Vào tháng giêng năm 1999, Hội Đồng Phát Triển Nghề Làm Vườn
đã xây dựng Chương Trình Kết Nối Qui Mơ Nhỏ, được thiết kế nhằm cung cấp kiến thức
và kỹ năng cho các hộ gia đình chung tái định cư để sản xuất các loại hoa màu xuất khẩu
trái mùa có giá trị cao.
Thị trường tín dụng
Bộ mơn Kinh tế học phát triển đã đưa ra nhiều ví dụ về việc thiếu vắng thị trường tín
dụng sẽ làm cản trở sự phát triển như thế nào, và người ta có thể thấy được hiện tượng
tương tự trong các phản ứng trước sự tự do hố mậu dịch. Lấy ví dụ, việc đạt được qui
mơ giao hàng tối thiểu có thể đòi hỏi phải sử dụng năng lượng tăng cường hay tuyển dụng
thêm lao động thời vụ, nhưng việc này sẽ khơng thể thực hiện được nếu khơng có tín
dụng. Tương tự, việc thiết lập hoạt động kinh doanh phi chính thức trong những hoạt
động như xuất nhập khẩu có thể đòi hỏi nhiều vốn hơn so với mức mà người nghèo có thể
huy động được. Những trường hợp mà trong đó người nghèo khơng thể đáp ứng trước các
động cơ khuyến khích một cách mãnh liệt như những người ít nghèo hơn họ là một bản
sao của các kết quả nghiên cứu nhóm của López, Nash và Stanton (1995) về nơng nghiệp
Mexico.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động

Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 13 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
Tính lưu chuyển của người lao động
Bí mật của việc mở rộng lợi ích của nhu cầu lao động gia tăng là khả năng lưu chuyển lao
động. Nếu các thị trường được phân đoạn vì những lý do văn hố hay địa lý, việc phá vỡ
các hàng rào phân chia thị trường lao động này thơng qua thơng tin và tạo điều kiện thuận
lợi cho khả năng lưu chuyển lao động về mặt vật chất sẽ có ảnh hưởng làm cân bằng.
Thiết lập hoạt động kinh doanh
Nếu các qui định về việc thành lập doanh nghiệp mới thật là rườm rà, nếu khả năng thu
thập các yếu tố đầu vào (đặc biệt là các tiện ích cơng cộng) của các doanh nghiệp thật là
yếu kém, hay nếu các qui định về việc mở rộng hoạt động, việc chia tách và tuyển dụng
lao động thật là hạn chế, điều này có thể ngăn trở tinh thần của các nhà kinh doanh muốn
khởi sự hay mở rộng hoạt động. Một câu chuyện thành cơng về việc bãi bỏ các qui định
ràng buộc kinh doanh là sự tăng trưởng của hoạt động xay ngơ ở Zimbabwe. Tiếp theo
việc bãi bỏ qui định trong nước, 3.500 nhà máy xay ngơ mới ra đời, chủ yếu tại các vùng
nơng thơn, và tỷ trọng của các nhà máy xay ngơ trog tổng hoạt động xay ngơ tăng đến gần
80 phần trăm.
7
Các nhà máy này rất mạnh và đơn giản về mặt cơ khí (dựa trên việc lắc
hay quay búa trong một buồng xay) và người lao động phổ thơng cũng có thể vận hành
được. Các nhà máy này cung cấp sản phẩm ngơ chất lượng cho người tiêu dùng lân cận
trong các cộng đồng nghèo, tiết kiệm đáng kể chi phí vận chuyển. Năm 1995, người ta
ước lượng rằng các nhà máy xay đã tuyển dụng 7.512 cơng nhân thường xun (751
người tại các vùng thành thị); nếu tính cả cơng nhân thời vụ và các hoạt động nơng

nghiệp, khu vực này tuyển dụng khoảng 13.000 người lao động. Khoảng 18 phần trăm
người lao động trong các nhà máy xay ngơ ở đơ thị là phụ nữ, cũng như 8 phần trăm trong
tổng số người lao động tại các vùng nơng thơn.
8

Các điều kiện tiên quyết cho những sự việc xảy ra đồng thời?
Trong nhiều trường hợp, sự tranh cãi về chính sách thực tế xem ra xoay quanh vấn đề liệu
các chính sách bổ trợ thuộc loại như chúng ta vừa mơ tả có phải là những điều kiện tiên
quyết đối với việc tự do hố mậu dịch hay chăng. Người ta lập luận rằng: “Mọi người đều
chấp nhận rằng tự do hố mậu dịch là đáng mong đợi trong dài hạn, nhưng các chính sách
hỗ trợ khác nhau phải được thiết lập trước khi người ta nỗ lực thực hiện tự do hố mậu
dịch.” Ở đây, thậm chí còn nhiều hơn những vấn đề được thảo luận trên đây, chúng ta
khơng có một phân tích chính thức để quay trở lại. Chúng ta có tư liệu nói về tiến trình
cải cách trong phạm vi ngoại thương và giữa ngoại thương với tài khoản vốn, nhưng
chúng ta lại khơng có được sự khái qt hố về mặt thực nghiệm có sức thuyết phục về lộ
trình theo ý nghĩa mà chúng ta thảo luận ở đây. Ngồi ra, vấn đề chỉ có tính chất kinh tế
học một phần mà thơi; một phần của vấn đề mang tính chất chính trị và là những mối
quan ngại về việc liệu một cuộc cải cách bị trì hỗn có phải là một cuộc cải cách được
giành quyền ưu tiên hay chăng.
Trên đây tơi đã lập luận rằng có thể có một lập luận ủng hộ việc tiến hành cải cách
dần dần theo từng giai đoạn trong một thời gian dài miễn là đích đến cuối cùng thật rõ
ràng (và khơng bị tranh cãi) và rằng q trình chuyển tiếp phải được thiết kế tốt đẹp và
chung cuộc chẳng phải là trì hỗn mọi thay đổi hữu hiệu cho đến giờ phút sau cùng. Nếu
biết rằng một cuộc cải cách được nhận thức rõ ràng và được thực hiện tốt đẹp sẽ tạo ra
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc

xoá đói giảm nghèo



Bernard Hoekman et al. 14 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
một dòng lợi ích có tiềm năng kéo dài đến vơ tận, thì bất luận điều này diễn ra trong ba
năm hay chín năm đi chăng nữa cũng khơng có gì là quan trọng. Lập luận tương tự cũng
được áp dụng cho những sự trì hỗn cần thiết để đưa các chính sách bổ trợ vào bối cảnh
đất nước (hay thật ra là những cơ chế đền bù nếu đó là lộ trình được chọn). Như vậy, lấy
ví dụ, có thể có một lập luận cho rằng ta nên trì hỗn việc thực hiện một cơng cuộc tự do
hố trong khi chờ đợi luật lệ về việc thành lập doanh nghiệp hay hoạt động của thị trường
lao động được thiết lập và các kế hoạch bảo vệ các thể chế thị trường được bố trí đầy đủ.
Tuy nhiên, điều này khơng phải là một giấy phép để ta trì hỗn việc thiết kế, cơng
bố, và khố kín chính bản thân việc cải cách. Bất kỳ sự trì hỗn nào trong số này – ví dụ,
cơng bố rằng tự do hố là cần thiết nhưng lại nói rằng hình thức của tự do hố sẽ được
quyết định một khi các cuộc cải cách khác đã được thực hiện – có thể dẫn đến tình thế tồi
tệ nhất. Nó có thể tạo ra tình trạng khơng chắc chắn và những động cơ khuyến khích sự
vận động hành lang với chính phủ và quả thật, đối với nhiều nhà bình luận, trên thực tế nó
giống như sự miễn cưỡng tự do hố mậu dịch. Cụ thể, trong khi khơng có một kế hoạch
rõ ràng và có thể giám sát được cho từng mảng cơ sở hạ tầng cụ thể, một mong ước chung
rằng hãy chờ đợi cho đến khi đường sá hay bến cảng đã “sẵn sàng” chỉ là một phương
pháp trì hỗn khơng hạn định. Một kế hoạch đáng tin cậy để tự do hố các biên giới – dù
là một kế hoạch có những thời kỳ chuyển tiếp đáng kể – sẽ là một động cơ quan trọng
kích thích cải cách các lĩnh vực khác theo những cách thức mà thơng thường còn có thể
mang đến những lợi ích khác nữa.
Người ta cũng nhận thấy có những nhược điểm và ưu điểm của việc điều chỉnh
dần dần theo từng giai đoạn. Dân chúng chắc chắn phải chịu đựng sự mệt mỏi với cải
cách và thực sự thoải mái hơn với một kế hoạch cải cách có hạn định rõ ràng, ngay cả khi
mang nhiều tham vọng hơn so với một cuộc cải cách bị cuốn vào một tương lai vơ hạn.

Việc điều chỉnh dần dần theo từng giai đoạn ngụ ý phải mất một thời gian dài hơn nằm
ngồi trạng thái cân bằng, và trong hầu hết các thảo luận, người ta khơng chứng minh
được rằng tồn bộ những chi phí nho nhỏ trong một thời gian dài cộng lại sẽ nhỏ hơn so
với chi phí lớn trong một thời gian ngắn hơn.
9
Ngồi ra, việc chậm trễ làm trì hỗn lợi ích
của cuộc cải cách hồn tồn. Cuối cùng, có thể có lợi ích tổng hợp từ cải cách ngoại
thương ngay cả khi khơng có các chính sách bổ trợ. Cải cách ngoại thương làm tăng các
cơ hội trao đổi đáng mong đợi, và những cơ hội này sẽ hiện hữu ngay cả với cơ sở hạ tầng
nghèo nàn, và cho dù có thể có nhiều cơ hội hơn nếu cơ sở hạ tầng tốt hơn. Và điều này
áp dụng cho người nghèo cũng giống như như áp dụng cho những người khác. Có thể là
khi khơng có các chính sách bổ trợ, người nghèo sẽ gánh chịu thiệt thòi (ví dụ như do giá
cả tăng lên) trong khi với những chính sách như thế, họ sẽ được lợi vì sẽ nhận được lợi
ích thu nhập để bù đắp cho sự gia tăng giá cả. Nhưng khơng có một định lý tổng qt cho
ảnh hưởng này; người ta vẫn còn phải đưa ra lập luận xác nhận điều đó.
Kết luận
Cải cách ngoại thương gần như khơng thể tránh khỏi mang đến hai thay đổi giúp người ta
chiến đấu chống lại đói nghèo: nó tạo ra tính hiệu quả trong việc sử dụng và phân bổ
nguồn lực (đó là lợi ích tĩnh u q của các nhà kinh tế học), và nó đẩy mạnh sự tăng
trưởng dài hạn. Nó cũng gây ra chi phí điều chỉnh tạm thời mà làm giảm thu nhập ngay
tức thời, cho dù những chi phí này gần như ln ln được bù đắp rộng rãi bằng những
lợi ích dài hạn. Cuối cùng, cải cách ngoại thương có nhiều ảnh hưởng trực tiếp và gián
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo




Bernard Hoekman et al. 15 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
tiếp đối với đói nghèo, xảy ra theo một cách thức nào đó, tuỳ thuộc vào phương thức sản
xuất và tiêu dùng và vào bản chất của cải cách.
Nhận định tổng qt là cải cách có thể giúp xố đói giảm nghèo, nhưng những ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp vừa được đề cập có thể làm cho một số người sẽ chịu thiệt
thòi từ việc tự do hố mậu dịch – đặc biệt những cuộc cải cách tập trung hẹp về mặt khu
vực – và chắc chắn có thể có một số người nghèo sẽ phải gánh chịu thiệt thòi. Tuy nhiên,
những người khác sẽ được lợi, và trong những người được lợi đó hồn tồn có thể có cả
những người nghèo khác. Như vậy, nhất thiết phải có sự đánh đổi. Khơng có cách nào
khác hơn là phải phân tích từng trường hợp cụ thể nếu các nhà hoạch định chính sách
muốn dự đốn và loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực, cho dù việc dự đốn thật là khó
khăn. Người ta phải hiểu rõ khả năng các chính sách “dự đốn và loại trừ” có thể bị thu
tóm bởi những nhóm có thế lực. Ứng với quyền lợi mạnh của các nhóm này trong chính
sách ngoại thương và sự dễ dàng hiển nhiên trong việc thu tóm chính sách ngoại thương
(vì các chi phí trong nước thường bị che dấu và vấn đề có thể dễ dàng được trình bày theo
thế đứng của quốc gia so với nước ngồi), có những mối nguy hiểm nghiêm trọng trong
việc bố trí để trực tiếp vận dụng chính sách ngoại thương tránh khỏi các tác động tiêu cực
về mặt đói nghèo. Chỉ trong những trường hợp hiển nhiên nhất thì những mối nguy hiểm
này mới đáng xảy ra.
Khi đó, quan điểm chung của tơi là ủng hộ một chính sách ngoại thương tự do một
cách nghiêm ngặt (cho dù người ta cũng thừa nhận một tình trạng khơng giữ đúng mục
tiêu nhất định có thể xảy vì những lý do chính trị). Khi đó người ta có thể sử dụng các
chính sách đền bù chung để chữa trị tình trạng khó khăn gay go tức thời, đồng thời theo
đuổi các chính sách bổ trợ mở rộng những lợi ích dài hạn. Việc đánh giá những tác động
khả dĩ khi thiết kế các cuộc cải cách chính sách có tầm quan trọng lớn lao. Những câu
hỏi đặt ra trong Hộp 5.1 có thể giúp các nhà hoạch định chính sách trong việc thiết kế và
thực hiện cải cách.


Chú thích
Tơi xin cảm ơn Globcom, Uỷ Ban Quốc Hội Về Chính Sách Phát Triển Tồn Cầu của Thụy Điển đã hỗ trợ
tơi chuẩn bị tài liệu này. Tơi cũng xin cảm ơn Costas Michalopoulos đã nhận xét về bản thảo và Rosie
Bellinger đã trợ giúp về mặt hậu cần.
1
Tơi nói “về mặt tổng qt” bởi vì các xem xét về điều tốt hạng nhì hay những thất bại của thị trường có
thể làm đảo ngược kết quả.
2
Mostley (2000) lập luận rằng những nỗ lực của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới để chứng
minh đề xuất này đã khơng thành cơng cho lắm. (Tuy nhiên, cố gắng của ơng để chứng minh điều ngược lại
cũng bị sai sót tương tự.)
3
Về mặt kỹ thuật, tỷ lệ bảo hộ hiệu dụng (effective rate of protection – ERP) có thể trở nên rất biến dạng. Ở
Zambia, Oxfam và Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) đã nhận thấy có sự giảm sút tỷ lệ bảo hộ hiệu dụng
đối với ngơ, khi giá phân bón (mà được cho là chiếm đến 76 phần trăm chi phí sản xuất ngơ) tăng nhiều hơn
giá sản lượng. Điều này giải thích cho sự mất mát sản lượng ở đó.
4
Tìm đọc Decker và Corson (1995) về Chương trình Trợ giúp Điều chỉnh Ngoại thương của Hoa Kỳ, đã
tăng gấp đơi thời gian bảo hiểm thất nghiệp từ 26 lên 52 tuần đối với những người lao động được xác nhận
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 5 Chính sách ngoại thương đối với việc
xoá đói giảm nghèo




Bernard Hoekman et al. 16 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
là đã bị mất việc do tự do hố mậu dịch. Sau khi bị lạm dụng nghiêm trọng trong những năm đầu, khi nó chỉ
là một khoản tiền chuyển giao (hơn 70 phần trăm số người đệ đơn xin bảo hiểm đã trở lại làm việc với chủ
lao động mà từ đó họ đã khai báo là mất việc), chương trình này đã bổ sung thêm yếu tố đào tạo. Điều này
có tác động sàng lọc những người nộp đơn xin bảo hiểm mà khơng muốn hay khơng cần được đào tạo,
nhưng xem ra nó cũng chẳng giúp làm tăng sức thu nhập của người nhận bảo hiểm.
5
“Những người nghèo mới” là các viên chức trong khu vực nhà nước về hưu, khơng thành cơng trong việc
đầu tư các khoản thanh tốn lao động dơi dư của họ một cách hiệu quả đủ để duy trì cuộc sống của mình
trên mức đói nghèo.
6
Các nhà vườn qui mơ nhỏ trong chương trình “phát triển nhanh hơn” này có xu hướng cung ứng hàng cho
bốn nhà chế biến và đóng gói đồ hộp lớn ở Zimbabwe, là các nhà sản xuất qui mơ lớn tìm cách tăng sản
lượng và đa dạng hố rủi ro.
7
Nghiên Cứu Về Tình Trạng Các Nhà Máy Xay Ngơ Quốc Gia Zimbabwe năm 1995- 96 do Cơ Quan Phát
Triển Quốc Tế Hoa Kỳ tài trợ.
8
Tài liệu đã dẫn.
9
Điều này khơng phải là phủ nhận khả năng có thể xảy ra – ví dụ như nếu một cú sốc lớn gây ra hiện tượng
trễ trên thị trường lao động – nhưng nó cần phải được chứng minh.

×