Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu Điêu khắc thời Trần (1225 – 1400) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.34 KB, 17 trang )



Điêu khắc thời Trần
(1225 – 1400)







Nhà Trần thay thế nhà Lý suy tàn trong sự phát triển đi lên
của phong kiến Việt Nam. Ba lần chống quân Ngyên – Mông
thắng lợi, bảo tồn giang sơn đã tạo nên một hào khí oai hùng
cho dân tộc và thấm đẫm trong văn học nghệ thuật; mặt khác
chiến tranh nhiều lần tàn phá đất nước, hoạt động nghệ thuật
bị hạn chế, cuối cùng chế độ điền trang thái ấp cũng tan vỡ
trong cuộc cải cách của Hồ Quý Ly vào cuối thế kỷ 14. Dù
chùa chiền không được đồ sộ nhưng đạo Phật vẫn thịnh hành.
Điêu khắc Phật giáo hiện chưa tìm được pho tượng nào
nhưng còn lại rất nhiều bệ tượng đá hoa sen hình hộp trên đặt
tượng Tam Thế (Quá khứ – Hiện tại – Vị lai) ở các chùa
Thầy, chùa Bối Khê, chùa Dương Liễu. Chạm khắc gỗ trang
trí kiến trúc thấy ở chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái
Lạc (Hưng Yên) với các đề tài “Rồng chầu lá đề”, “Tiên nữ
dâng hoa”, “Tiên nữ tấu nhạc”, “Tiên nữ dâng hương”.
Phong cách hài hoà Lý đã biến đổi, phong cách Trần mạnh
mẽ, khái quát và quan tâm đến tính biến động của cấu trúc
tổng thể hơn là hình mô tả. Trong các lăng mộ đời Trần, điêu
khắc đá chủ yếu là tượng người, tượng thú chầu và làm thần
canh giữ cho thế giới vĩnh viễn của ông vua có vẻ đẹp trầm


mặc và sinh động. Tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ, tượng trâu
và chó ở lăng Trần Hiển Tông, tượng quan hầu ở lăng Trần
Anh Tông là lối điêu khắc lăng mộ đầu tiên ở Việt Nam, mà
cách tạo hình luôn gắn với sự xác định trong không gian quần
thể kiến trúc lộ thiên.

Tượng Hổ ở lăng Trần Thủ Độ ( Thái Bình ). Trần Thủ Độ là
Thái Sư triều Trần , ông là người uy dũng , quyết đoán ,
người góp phần dựng lên vương triều Trần , người có vai trò
quan trọng trong chiến thắng chống quân xâm lược Mông cổ
(1258). Khu lăng mộ của ông được xây dựng vào năm 1264
tại Thái Bình , ở lăng có tạc một con hổ .Tượng hổ có kích
thước dài gần như thật (dài 1,43m)thân hình thon ,bộ ức nở
nang ,bắp vế căng tròn . Tượng đã lột tả tính cách dũng mãnh
của vị chúa sơn lâm ngay cả trong tư thế rất thư thái ,nằm
xoải chân , chân thu về phía trước , đầu ngẩng cao . Tượng
hổ tạo khối đơn giản , dứt khoát , có chọn lọc và được sắp
xếp một cách chặt chẽ , vững chãi . Sự chau chuốt , nuột nà
của hình khối và đường nét với những đường chải mượt của
tóc hổ , những đường vằn đều đặn trên ức tạo nên những hoa
văn trang trí tôn thêm vẻ đẹp của hổ . Thông qua hình tượng
con hổ , các nghệ sĩ điêu khắc thời xưa đã nắm bắt và lột tả
được tính cách , vẻ đường bệ ,lẫm liệt của thái sư Trần Thủ
Độ .Bây giờ đến Vũ Thư Thái Bình . Ta vẫn gặp một con hổ
đá nằm im lìm giữa hoa hoang cỏ dại trong di tích hoang tàn
lăng Trần Thủ Độ . Đây là một tác phẩm nghệ thuật đẹp
trong nền nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam.




Tượng quan hầu trong lăng vua Trần Hiến Tông ở xã An
Sinh huyện Đông Triều , tỉnh Quảng Ninh .Vua Trần Hiến
Tông mất năm 1341 , tuy đã 13 năm làm vua , nhưng lúc ấy
mới 23 tuổi . Có lẽ vì thế , trong sự thương tiếc của triều đình
, đây là lăng mộ vua Trần duy nhất có các tượng “người đá ,
ngựa đá ,hổ đá , dê đá ,trâu đá “như các tác giả sách Đại Nam
Nhất Thống Chí ở cuối thế kỷ XIX còn thấy > Sau nhiều biến
thiên lịch sử , cho đến thập niên 70 của thế kỷ XX , khu lăng
đã bụ hủy hoại , song vẫn còn hai tượng quan hầu , chó đá và
trâu đá .

Rất tiếc cả hai tượng quan hầu đều bị gẫy mất đầu nhưng
may tìm được một đầu tượng chắp lên rất khớp ., và như thế
có thể nhận ra một tượng quan hầu khá nguyên . tượng cao
130 cm, đứng trên đế chữ nhật cạnh trước 39 cm cạnh bên 30
cm còn nổi trên đất 10cm . Tượng và bệ liền một khối đá
dựng thẳng đứng , tất cả khuôn lại trong một trụ gọn gàng
như kiểu tượng mồ tây nguyên , không có những chi tiết nhô
ngang dễ gãy . Tượng được diễn tả một viên quan hầu cận
đứng nghiêm , hai tay ép sát sườn rồi đưa ngang về trước
bụng để nâng một vật như chiếc hộp trước ngực , nhưng bàn
tay bị che khuất . Đầu tượng đội mũ bó sát thành băng ngang
phía trên trán .Thân mặc áo dài quét đất , gấu áo hơi loe ra ,
phía trước để lộ hai bàn chân đi giầy , ống tay áo rộng thành
khối vuông trước bụng , áo không có trang trí mà chỉ có nếp
chảy xuôi , bốn cạnh thân nổi rõ . Như vậy toàn thân tượng
cũng như các thành phần chính được quy về các khối hình
học có góc cạnh rõ ràng , điều đó làm tăng tính khúc triết ,
khỏe khoắn , dứt khoát . Đầu tượng hơi dài , mặt thon thả
,mắt , nũi , miệng đều rát thực và ở trạng thái đăm chiêu ,

bình thản .Trong không gian lăng mộ , giữa lũng hoang cạnh
sườn núi , tượng quan hầu trang nghiêm và tĩnh lặng đến
tuyệt đối , phảng phất một nỗi ưu tư .





Tượng thú và quan hầu lăng Trần Hiến Tông

Trong chùa Dâu ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu , hay nữ
thần Pháp Vân , uy nghi trầm mặc , màu đồng hun , cao gần
2m được bày ở gian giữa . Tượng có gương mặt đẹp với nốt
ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn
Độ , tới quê hương Tây Trúc , còn hai pho tương rất đẹp là
tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ chầu hai bên , với khuôn mặt
sống động , đứng trong tư thế của một điệu múa cổ xưa , đặc
biệt tượng Ngọc Nữ vấn khăn , rẽ tóc mang đậm tâm hồn
người Việt . Ngoài ra trong chùa chính còn rất nhiều các pho
tượng cổ : Tượng Tổ Sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi , tượng Mạc
Đĩnh Chi ,các pho Kim Cương , Hộ Pháp . Tượng Phật , Bồ
Tát , Thánh Tăng , Đức Ông được bày phía sau cũng là
những tác phẩm điêu khắc giá trị .

[
IMG] />5.jpg[/IMG]



Hình cánh sen dẹo hay cánh sen ngửa lại được trang trí trên

các hàng gạch mang tính chất như bệ đỡ.

Hình rồng trang trí ở tháp Bình Sơn là rồng có sừng và cuộn
tròn mình , đầu rúc vào giữa , chân đạp ra ngoài , sống lưng
có vây như răng cưa , một chân trước đưa lên nắm tóc trong
tư thế ngộ nghĩnh , dường như đã có sự dân gian hóa .



Đôi rồng đá thành Tây Đô Thanh Hóa




Chùa Thông ở sườn núi đá( Thanh Hóa) ,cách thành nhà Hồ
không xa mấy , theo thư tịch được xây năm 1270 . Ngày nay
đã bị phá hủy hoàn toàn ,song trên nền cũ còn tượng một con
sư tử bằng đá ,dài 125cm nằm trên bệ liền khối chạm những
lớp sóng nước chồng chất thường gặp ở giai đoạn cuối thời
Lý đầu thời Trần , đầu hơi nghển và hơi quay về phía bên trái
, bụng áp sát bệ , toàn thân thành một khối đóng kín .Mặc dù
đầu sư tử bị sứt mất cằm trên và mũi song toàn thể vẫn sống
động với bờm tóc phủ qua gáy xuống lưng ,chiếc đuôi vắt lên
mông , chân trước bên phải đặt lên quả cầu , những ngấn cổ
song hành phập phồng .Và điều nổi bật nhất là toàn thân
được phủ những bông hoa nhỏ nhiều cánh quen thuộc thường
gặp trên nhiều tượng thời Lý .Mảng khối ở con sư tử mập
căng , đường nét chải chuốt , các hoa văn tỉa tót như chạm
bạc , chuẩn xác và tinh tế.




Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý , với các
đường cong tròn nối nhau ,các khúc trước lớn ,các khúc sau
nhỏ dần và kết thúc như đươi rắn .Vẩy lưng vẫn thể hiện từng
chiếc , nhưng không tựa đầu vào nhau như rồng thời lý .Có
khi vảy lưng có dạng hình răng cưa lớn , nhọn ,đôi khi từng
chiếc vảy được chia thành hai tầng .Chân rồng thường ngắn
hơn , những túm lông ở khủy chân không bay ra theo một
chiều nhất định như rồng thời Lý mà lại bay lên phía trước
hay phía sau tùy thuộc vào khoảng trống trên bức phù điêu và
có sự xuất hiện chi tiết cặp sừng và đôi tay .



Đầu rồng không có nhiều phức tạp như rồng thời Lý .Rồng
vẫn có vòi hình lá ,vươn lên trên nhưng không nhiều uốn
khúc . Chiếc răng nanh phía trước khá lớn , vắt qua sóng vòi
.Miệng rồng há to nhưng nhiều khi không đớp quả cầu .



Rồng thời Trần lượn khá thoải mái với động tác dứt khoát ,
mạnh mẽ .Thân rồng thường mập chắc , tư thế vươn về phía
trước .Cách thể hiện rồng không chịu những qui định khắt
khe như thời Lý .

Rồng thời Trần .




Ta có thể so sánh đầu rồng thời Lý và thời Trần rất giống
nhau , tuy vẫn có thể phân biệt được.

×