Sự thâm nhập của từ địa phương miền Nam
vào tiếng Việt toàn dân giai đoạn 1945–1975
(Qua tư liệu văn học đối chiếu với từ điển)
• Nguyễn Tài Thái – Phạm Văn Hảo
1. Vấn đề
Trong sự phát triển của hệ thống từ vựng một ngôn ngữ, vốn từ phương ngữ đóng
một vai trò khá quan trọng trong việc bổ sung từ mới và khái niệm mới. Đây
dường như là một quy luật tất yếu được quy định bởi rất nhiều nhân tố. Bài viết
này sẽ tìm hiểu sự thâm nhập của từ địa phương miền Nam vào tiếng Việt toàn dân
giai đoạn 1945–1975 qua một số tác phẩm văn học có đối chiếu với tư liệu từ điển
để phần nào thấy được sự phát triển cũng như vai trò của tiếng miền Nam trong
vốn từ tiếng Việt.
Chúng ta đều biết, xã hội Việt Nam giai đoạn 1945–1975 có rất nhiều biến động,
đầu tiên đó là sự kiện thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tháng 9 năm
1945, tiếp theo là cuộc kháng chiến diễn ra trên khắp miền Nam chống Pháp trong
9 năm, rồi đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và cuối cùng là sự kiện giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975. Chính điều kiện xã hội có nhiều
biến động như vậy đã ảnh hưởng không chỉ đối với đời sống xã hội mà còn ảnh
hưởng rất nhiều đến ngôn ngữ. Có thể thấy, cả giai đoạn này nền văn học chiến đấu
Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ và từ địa phương miền Nam cũng được dùng
trong các tác phẩm văn học khá nhiều. Đây chính là cơ sở để từ địa phương miền
Nam tham gia vào hệ thống của từ phổ thông, bổ sung những từ mới và khái niệm
mới, mặt khác, mở rộng phạm vi khả năng hoạt động và làm phong phú thêm vốn
từ tiếng Việt.
Sự thâm nhập của từ địa phương miền Nam vào tiếng Việt toàn dân được hiểu là
sự đi vào hệ thống, chiếm lĩnh một vị trí nhất định nào đó trong hệ thống, tức là bổ
sung và làm giàu thêm cho vốn từ vựng tiếng Việt. Quá trình này diễn ra liên tục
và tương đối phức tạp bởi lẽ không phải tất cả từ địa phương miền Nam đều có khả
năng thâm nhập vào vốn từ toàn dân mà chúng thường có sự phân chia thành các
lớp lang khác nhau. Và với mỗi lớp từ như vậy chúng lại có vai trò và vị trí khác
nhau.
2. Phương pháp và kết quả nghiên cứu
2.1. Tư liệu chúng tôi sử dụng là các tác phẩm văn học đã được xuất bản trong giai
đoạn 1945–1975 viết về đề tài miền Nam do một số tác giả miền Nam viết. Mỗi từ
thống kê một lần, không tính đến số lần chúng được lặp lại (đối với cả các tác giả
và tác phẩm khác nhau). Rất có thể các từ địa phương được thống kê ở đây cũng sẽ
gặp trong một số tác phẩm của các tác giả ở các vùng khác nhau. Để có cách nhìn
khách quan, chúng tôi đã đối chiếu những từ thu thập được với "Từ điển đối chiếu
từ địa phương" (Nxb Giáo Dục, 1999) do Nguyễn Như Ý chủ biên để xem từ địa
phương đó có phải là từ miền Nam hay không (vì đây là quyển từ điển duy nhất
chú rõ vùng). Khi chọn tư liệu, chúng tôi tập trung chủ yếu khảo sát mảng văn xuôi
(truyện ngắn và truyện vừa) với hi vọng có thể khảo sát được ở nhiều đề tài của các
tác giả khác nhau.
2.2. Qua khảo sát 25 truyện ngắn, 1 truyện vừa (xem phần trích dẫn tư liệu) với
tổng số là 2302 trang, chúng tôi thu thập được 403 từ địa phương miền Nam. Tuy
nhiên, nếu số trang tư liệu thống kê càng nhiều thì tỉ lệ từ địa phương thu thập
được so với số trang sẽ giảm xuống vì có nhiều từ địa phương được lặp lại. Trong
số 403 từ địa phương được thu thập, có 56 từ chỉ các hoạt động của chiến tranh
mới được dùng trong giai đoạn này. Ví dụ: chống càn, ruồng bố, càn, bưng biền,
49 từ không có từ tương đương trong tiếng phổ thông, chỉ các đồ vật và sản vật ở
miền Nam. Ví dụ: trâm bầu, bình bát, xuồng ba lá, tam bản, khăn rằn, phảng, chùm
ruột, lục bình, 87 từ là biến thể ngữ âm. Ví dụ: chánh trị, bữa hổm, gởi, tánh
mạng, sanh, tợ, suôi gia, nói trổng, ngưng, thâu, ngoải, nhểu, 221 từ là các biến
thể từ vựng khác. Ví dụ: dưa leo, hớt tóc, đổ thừa, ớt hiểm, nước miếng, sình, rầy,
trái cây, chết xỉu, bông trang, nói dóc, ở trần, tiệm, Hầu hết những từ địa phương
này đều được thu thập trong "Từ điển đối chiếu tiếng địa phương" và có tần số xuất
hiện tương đối nhiều (thường không dưới 3 lần). Chúng không chỉ xuất hiện trong
lời đối thoại của các nhân vật mà còn xuất hiện nhiều trong lời dẫn truyện của tác
giả và rất tự nhiên, khiến người đọc không có cảm giác bị tắc nghẽn khi gặp những
cách nói mang tính địa phương.
3. Sự thâm nhập của từ địa phương miền Nam vào hệ thống từ phổ thông giai
đoạn 1945–1975
Sự thâm nhập của từ địa phương vào ngôn ngữ chung bao giờ cũng là một quá
trình tương đối dài và phức tạp. Có khi để có thể chiếm được vị trí trong hệ thống,
từ địa phương phải trải qua quá trình "đấu tranh giành vị trí" với từ phổ thông. Một
từ địa phương muốn bước ra khỏi hệ thống của nó để nhập vào hệ thống từ toàn
dân được dùng phổ biến thì:
– Trước hết đó phải là những từ có tính phổ biến cao, gần gũi với đời sống xã hội
của người dân trong cả nước và chúng thường có sức sống mạnh mẽ, hoặc;
– Đó là những từ chỉ các khái niệm chưa có trong tiếng phổ thông, được tiếng Việt
toàn dân thu thập để bổ sung khái niệm mới.
Như vậy, chúng ta thấy rằng điều kiện để một từ địa phương thâm nhập vào vốn từ
toàn dân trước hết và cơ bản chính ở là khả năng và sức sống của chúng. Điều này
hoàn toàn khác với việc từ địa phương được sử dụng trong đời sống xã hội bởi lẽ
có rất nhiều từ địa phương mặc dù vẫn được sử dụng nhưng không thể tham gia
được vào hệ thống từ toàn dân do trong ngôn ngữ toàn dân đã có từ tương đương
để diễn đạt, và những từ này có ưu thế hơn những từ địa phương. Nghĩa là, ở đây
có thể có từ được dùng nhiều, được nhiều người biết đến, nhưng chưa chắc đã đi
vào hệ thống vốn từ vựng chung. Ngược lại, có từ ít được dùng, ít được người dân
cả nước biết đến nhưng chúng vẫn có thể là đơn vị của hệ thống từ vựng chung.
3.1. Đặc trưng ngôn ngữ giai đoạn 1945–1975
Đặc điểm và tính chất của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ ở miền
Nam trong suốt giai đoạn 1945–1975 đã có những ảnh hưởng rất lớn đối với nền
văn học Việt Nam, đặc biệt là đối với những tác giả là người miền Nam. Nhiều tác
phẩm văn học đã lấy đề tài chiến đấu ở miền Nam để phản ánh, trong đó từ địa
phương miền Nam được sử dụng và có vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện
tính cách cũng như đặc điểm vùng đất và con người miền Nam. Đây là một điều
kiện tốt để tiếng địa phương miền Nam góp phần làm phong phú thêm vốn từ của
ngôn ngữ toàn dân.
Có thể nói, không khí của cuộc chiến tranh đã bao trùm lên hầu hết các tác phẩm
văn học giai đoạn 1945–1975, đó là nền văn học kháng chiến được đặc trưng bởi
văn học viết. Chúng ta cũng không lấy làm ngạc nhiên khi trong văn học ở miền
Nam giai đoạn này lại sử dụng rất nhiều từ liên quan đến các hoạt động của chiến
tranh: chém vè, dậm cù, ém, bưng biền, đồng khởi, ác ôn, phá banh, bá đỏ, ngựa
trời, mũ tai bèo, ruồng, bố, chống càn Đây là những từ địa phương đặc trưng
phản ánh về cuộc sống cũng như không khí chiến đấu sôi sục của nhân dân miền
Nam, quyết tâm chiến đấu với kẻ thù (còn cái lai quần cũng đánh). Có thể nói chưa
bao giờ trong văn học lại sử dụng nhiều từ liên quan đến chiến tranh như thế và
cũng chưa bao giờ tiếng địa phương miền Nam lại trở nên thân thiết và gắn bó với
đông đảo quần chúng đến như vậy. Chính cái đặc sắc và nét riêng biệt đó đã tạo
cho tiếng địa phương miền Nam có vai trò quan trọng trong ngôn ngữ nghệ thuật,
góp phần đắc lực vào việc cá tính hoá cũng như tô đậm màu sắc địa phương. Về
vai trò và vị trí của tiếng địa phương miền Nam trong văn học đã có nhiều nhà
nghiên cứu trước đây đề cập đến [6:251–266], [16:95]. Tuy nhiên việc chúng "đi
vào" vào hệ thống của ngôn ngữ toàn dân như thế nào thì lại có rất ít người quan
tâm.
3.2. Sự thâm nhập của từ địa phương miền Nam giai đoạn 1945–1975
Có thể khẳng định rằng, văn học là một phương thức để tái hiện cuộc sống. Chính
văn học đã dựa trên những đặc điểm thực tế cuộc sống để khái quát và phản ánh
cuộc sống dưới con mắt nghệ thuật của nhà văn; làm cho cuộc sống trở nên sinh
động và gần gũi hơn trên các trang sách. Để có được giá trị đó, việc sử dụng từ địa
phương có một vai trò không nhỏ. Đây là nguồn bổ sung quan trọng và làm phong
phú thêm vốn từ vựng của ngôn ngữ toàn dân.
Như đã đề cập, trong các tác phẩm văn học ở miền Nam giai đoạn 1945–1975 từ
địa phương được dùng tương đối nhiều với các lớp lang có đặc điểm và giá trị khác
nhau. Trong đó có những lớp rất dễ dàng thâm nhập vào ngôn ngữ toàn dân nhưng
lại cũng có những lớp không thể thâm nhập được bởi rất nhiều nguyên nhân khác
nhau.
Trước hết có thể thấy những từ địa phương mới xuất hiện trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ sẽ dễ dàng được thâm nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Những bá đỏ, ngựa
trời, mũ tai bèo, chém vè, phá banh, bố, ác ôn, đồng khởi, bưng biền sẽ rất dễ
dàng trở thành ngôn ngữ toàn dân bởi tính mới mẻ và sinh động của chúng, phản
ánh đúng hoàn cảnh chiến đấu của nhân dân miền Nam: "Bữa đó ảnh bắn cây bá
đỏ, tả xông hữu đột với mấy con trực thăng cá nhái, giải thoát cho hành khách"
(Anh Đức, Xôn xao đồng nước, tr. 127) hay "Hỏi ra mới biêt hôm đó nghe tin giắc
bố ngoài sông, chị mướn xuồng chở ít dưa sang cầu lộ bán, tiện dịp thăm dò tình
hình giặc ngoài đó ra sao" (Nguyễn Thi, Người mẹ anh hùng, tr. 6) Chúng tôi đã
so sánh những từ kiểu này với các từ điển xuất bản trước 1945 thì thấy chúng
không hoặc rất ít xuất hiện. Trong từ điển Văn Tân, hầu hết chúng đều đã được thu
thập. Những từ này khi xuất hiện trong ngôn ngữ toàn dân mặc dù vẫn còn mang
tính địa phương nhưng việc từ điển bắt đầu thu thập chúng đã cho thấy được vai trò
và vị trí của chúng trong ngôn ngữ toàn dân.
Đối với những từ địa phương chỉ các sản vật, đồ vật có ở miền Nam cũng sẽ được
chấp nhận trong hệ thống của vốn từ vựng phổ thông bởi chúng có khả năng "lấp ô
trống" trong ngôn ngữ toàn dân, tạo ra những từ mới và khái niệm mới. Có thể nói,
đây là những từ địa phương có khả năng thâm nhập mạnh nhất vào ngôn ngữ toàn
dân. Những từ kiểu như chôm chôm, chùm ruột, bình bát, lục bình, trâm bầu, tràm,
đước, mù u, dừa nước, xuồng ba lá, chắc chắn không thể thay thế bởi một từ nào
khác trong ngôn ngữ toàn dân. Thực tế trong ngôn ngữ toàn dân, những khái niệm
như vậy không thể giải thích bằng những từ tương đương kiểu mãng cầu – na, lê ki
ma – trứng gà mà phải có sự giải thích cụ thể. Chúng ta không thể tìm thấy một
từ tương đương nào trong tiếng Việt phổ thông ngắn gọn và đầy đủ hơn từ "chôm
chôm" vốn có nguồn gốc từ miền Nam để chỉ khái niệm: "Loài cây có quả như quả
vải nhưng vỏ quả có nhiều gai mềm và dài" (TĐVT) . Để chỉ khái niệm: "Loài cây
thuộc họ na, quả không có múi rõ ở ngoài mặt như quả na, ăn được" (TĐVT)
không có từ nào cô đọng và đúng hơn từ "bình bát" vốn cũng xuất phát từ miền
Nam Như vậy, khi những sự vật này xuất hiện và phổ biến rộng rãi trong đời
sống của nhân dân cả nước thì đồng thời những từ chỉ các sự vật đó cũng thâm
nhập luôn vào hệ thống của từ phổ thông và được đối xử như những từ phổ thông
thực thụ. Có thể xem đây là những từ chỉ còn gốc địa phương, còn về mặt phạm vi
và chức năng giao tiếp chúng hoàn toàn giống như những từ phổ thông khác.
Ngoài ra, một số từ địa phương mặc dù vẫn có thể có từ toàn dân tương ứng nhưng
trong thực tế đời sống cả hai biến thể này vẫn song song tồn tại, nhiều khi từ địa
phương còn lấn át cả từ toàn dân bởi tính ngắn gọn và ấn tượng của chúng. Đó
được xem là những từ địa phương có sức sống mạnh mẽ và có khả năng thâm nhập
vào từ toàn dân khi chúng được người dân cả nước ưa dùng. Chúng ta đều biết, bồ
(Đang nghĩ ngợi miên man, gã thanh niên đã đến sát bên Chín cất lên giọng khàn
khàn: - Thưa tiểu thư, hẳn tiểu thư đang chờ bồ (người yêu)? (Bên những dòng
sông, tr. 54)) là một từ địa phương miền Nam chỉ người yêu hoặc nhân tình nhưng
rất khó để thay thế bồ bằng nhân tình hoặc người yêu (không thể/ hoặc rất ít gặp
cách nói cặp nhân tình/ cặp người yêu). Mặt khác, có lẽ vì bồ có sức gợi cảm và ấn
tượng hơn nên nó dễ dàng được chấp nhận trong vốn từ toàn dân và được sử dụng
rộng rãi khiến cho không ai nghĩ đó là từ địa phương miền Nam nữa.
Từ rùm beng trong tiếng miền Nam có nghĩa gần giống với từ ầm ở miền Bắc. Tuy
nhiên, rùm beng không thể hoàn toàn thay thế cho ầm bởi sắc thái gợi cảm riêng
của nó, vì thế rùm beng của tiếng miền Nam vẫn được sử dụng trong tiếng Việt
bên cạnh sự tồn tại của ầm trong tiếng miền Bắc. Chính cái "sức sống mạnh mẽ"
của rùm beng mà chúng đã được sử dụng rộng rãi không chỉ riêng ở miền Nam mà
còn ở miền Bắc. Chúng tôi vẫn thấy các tác giả miền Bắc sử dụng rất tự nhiên từ
rùm beng. Ví dụ: Trong khi đem nó đi huấn luyện tình báo, bọn phòng nhì tổ chức
ma chay rùm beng cho nó ở Hải Phòng như chúng ta đã biết (Văn Phan, Nhóm rắn
lục, tr. 154) hoặc "Mẹ nó cái thằng Pháp trước đây thuốc lá của ta trồng, người
mình lại chế biến ra, nó in mẹ nó cái thứ Făng xe vào đi tuyên truyền rùm beng thế
mà thế giới cũng khen nức khen nở (Hương mới, Tập truyện ngắn, tr. 51) Ngay
trong từ điển Văn Tân, rùm beng cũng không được chú địa phương, chứng tỏ từ
này đã bước ra khỏi hệ thống của từ địa phương và được dùng như từ toàn dân.
Cũng tương tự như vậy, các từ nhậu, xỉn, quậy trong tiếng miền Nam vẫn được
xem là có nghĩa tương đương với ăn uống, say, phá phách trong tiếng Việt phổ
thông. Tuy nhiên sự có mặt của các từ này dường như là sinh động và ấn tượng
hơn cái bản chất được thể hiện trong ngôn ngữ toàn dân. Chúng ta có thể thấy rõ sự
khác nhau ở mức độ biểu đạt giữa xỉn và say. Xỉn cũng nói về say rượu nhưng với
mức độ cao hơn. Trên thực tế, những cách nói của nhậu, xỉn, quậy gặp phổ biến
hơn là những cách nói ăn uống, say, phá phách bởi tính chất và xu hướng của
người sử dụng, thích sử dụng những từ mới có sắc thái biểu thị tình thái cao và đặc
biệt là dễ gây ấn tượng. Do đó, xét về mặt lí thuyết cũng như thực tiễn, những từ
này cũng dễ dàng thâm nhập vào ngôn ngữ toàn dân.
Bên cạnh những từ địa phương có thể thâm nhập vào ngôn ngữ toàn dân thì cũng
có rất nhiều từ địa phương không thể ra nhập vào hệ thống này được mặc dù chúng
vẫn được sử dụng trong đời sống xã hội, trong văn học và được thu thập trong từ
điển. Có thể thấy những từ thuộc loại này như chén (bát), mền (chăn), nón (mũ),
đó là cách chuyển tên gọi của một sự vật này sang tên gọi một sự vật khác, do đó
rất dễ gây ra sự lầm lẫn về khái niệm đối với những người dân không thuộc khu
vực này. Lớp thứ hai đó là những từ kiểu ba, tía (bố), má (mẹ), chắc chắn sẽ
không thể thay thế cho các từ toàn dân tương đương với chúng được bởi đây là
những từ được vay mượn về sau từ tiếng Triều Châu (Trung Quốc). Những từ này
chỉ là cách gọi phương ngữ. Trong từ điển Việt- Bồ- La của Alexan de Rhodes
những từ này chưa thấy xuất hiện. Ngoài ra lớp từ vay mượn của tiếng Khơ me
như cà rá (nhẫn), om, ơ (nồi nhỏ để kho cá), ên (một mình), cũng không thể đi
vào thứ ngôn ngữ chung được bởi chúng chỉ quen thuộc với một khu vực người
Khơ me và rất khó có cơ hội để được dùng rộng rãi. Trong các cụm từ cố định,
những từ kiểu như trên rất khó có thể thay thế cho các từ toàn dân. Chúng ta không
thấy nói chén ăn chén để (bát ăn bát để), mền ấm đệm êm (chăn ấm đệm êm), năm
ba ba má (năm cha ba mẹ) Sở dĩ như vậy vì khả năng bao quát về đặc điểm ý
nghĩa cũng như sắc thái sử dụng của những từ địa phương này so với từ toàn dân
không cao.
Trong Từ điển tiếng Việt của Hội Khai trí Tiến Đức (1931), chúng tôi tìm được
124 từ trùng với những từ địa phương được thu thập. Điểm đáng lưu ý là những từ
chỉ các hoạt động chiến tranh như đã phân tích không thấy xuất hiện trong từ điển
này.
Trong Từ điển tiếng Việt phổ thông của Văn Tân (1968), chúng tôi tìm được 203
từ trùng với các từ địa phương thu thập trong văn học. Trong số đó có 131 từ
không được chú địa phương, điều đó có nghĩa là chúng đã được nhập vào hệ thống
của từ toàn dân, có phạm vi và chức năng giao tiếp giống như từ toàn dân. Các từ
đặc trưng của giai đoạn chỉ các hoạt động chiến tranh hầu hết đều được thu thập.
Những con số thống kê trên cho chúng ta thấy được một thực tế là đã có sự thay
đổi về xu hướng sử dụng cũng như về phạm vi và chức năng giao tiếp của từ địa
phương ở giai đoạn trước 1945 so với giai đoạn từ 1945 đến 1975. Do tính chất và
đặc điểm hoàn cảnh xã hội, nhiều từ trước đây chưa được dùng hoặc chỉ được xem
là từ địa phương nhưng về sau chúng đã được sử dụng và có phạm vi giao tiếp
giống từ phổ thông. Việc các từ điển không chú sắc thái địa phương cho những từ
kiểu này chứng tỏ rằng chúng đã thâm nhập vào trong hệ thống của từ phổ thông.
Xét về mặt lí thuyết, chúng là những từ chỉ còn "gốc địa phương". Và như thế, "cái
gốc" phương ngữ chỉ là sở cứ cho sự nghiên cứu văn hoá miền mà thôi. Ví dụ: Tôi
bước vô trong hầm thì bàn tu lơ khơ cũng vừa ngưng (Thuỷ Thủ, Ba ngày trên
vành đai diệt Mĩ, tr. 100); Một chiếc M.133 bất thần chạy rồ ngang. Tôi bị kẹt
trong nhà, không ra được (Anh Đức, Truyện của một người cùng quê, tr. 165); Bây
giờ người ta được đi học y tá, mai mốt lên y tướng, nên cái gì người ta cũng rành
(Nguyễn Thi, Những sự tích ở đất thép, tr. 18)
3.3. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình thâm nhập của từ địa phương
vào tiếng Việt toàn dân
Chúng ta đều biết, việc thâm nhập của hệ thống từ địa phương vào hệ thống từ
vựng phổ thông là một quy luật dường như tất yếu của sự phát triển xã hội. Quá
trình biến đổi, phát triển và hoàn thiện của từ địa phương là một quá trình diễn ra
liên tục và mạnh mẽ. Tiếng Việt toàn dân là một hệ thống mở, luôn sẵn sàng tiếp
nhận những yếu tố mới để làm giàu thêm cho vốn từ của mình đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tiếng địa phương miền Nam có thể thâm nhập vào hệ thống của bản
thân nó. Tuy nhiên, việc phá vỡ ranh giới của từ địa phương để trở thành từ phổ
thông là một quá trình rất lâu dài và không dễ dàng, bị chi phối bởi rất nhiều
nguyên nhân, trong đó bao gồm cả nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên
ngoài ngôn ngữ. Nguyên nhân bên trong là bản thân sự phát triển của hệ thống từ
vựng phương ngữ. Ngôn ngữ cũng như phương ngữ, biến đổi, phát triển trong một
trạng thái luôn đạt tới sự "hoàn thiện tương đối". Từ địa phương cũng giống như từ
toàn dân, là phương tiện giao tiếp, chỉ khác là ở một phạm vi hẹp hơn. Tuy nhiên
khi có điều kiện, chúng được mở rộng phạm vi sử dụng và như vậy vị trí của nó so
với ngôn ngữ toàn dân sẽ khác hơn rất nhiều.
Những nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ như các nhân tố xã hội, văn hoá, phong
tục tập quán và thói quen sử dụng cũng có những ảnh hưởng rất lớn tới quá trình
thâm nhập của từ địa phương. Thực tế cho thấy, ở những năm đầu thế kỉ 20, do
chính sách nô dịch văn hoá và chính sách chia để trị của thực dân Pháp, chúng hạn
chế gắt gao sự đi lại, giao lưu văn hoá giữa hai miền Nam Bắc, các phương tiện
truyền thông cũng chưa phát triển như sau này; vì thế các từ địa phương miền Nam
rất hiếm có cơ hội để phổ biến ra miền Bắc. Từ năm 1945, đất nước độc lập, và sau
đó dù vẫn còn hai chế độ nhưng điều kiện kháng chiến đã mở rộng, việc giao lưu
văn hoá giữa hai miền đã tạo nhiều thuận lợi cho địa phương miền Nam vượt ra
khỏi lãnh thổ vùng và trở thành "tài sản" chung của toàn xã hội.
Một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong việc giúp từ địa phương miền Nam
thâm nhập vào vốn từ toàn dân đó là do nhu cầu cũng như "gu" của người sử dụng.
Sở dĩ việc ngày càng có nhiều từ địa phương miền Nam được xuất hiện trong giao
tiếp và sinh hoạt hàng ngày là do tâm lí nhiều người thích sử dụng chúng. Hiện nay
những cách nói xì lì thay cho mừng tuổi, nhậu thay cho ăn uống, (hàng) nhái cùng
dùng với (hàng) giả, xịn thay hoặc bổ sung "đất sống" cho tốt, bồ thay cho nhân
tình, quậy thay cho phá phách, chôm chỉa thay cho ăn cắp vặt, kẹt thay cho vướng
mắc, tắc nghẽn gặp rất phổ biến ngay cả đối với người miền Bắc. Sở dĩ như vậy
vì đây là những cách nói mới, gây ấn tượng và đặc biệt là có sắc thái gợi cảm cao.
Chính vì thế chúng dễ dàng đi vào trong đời sống, được đông đảo quần chúng chấp
nhận. Đây là một điều kiện tốt để từ địa phương miền Nam đi vào ngôn ngữ toàn
dân, chiếm lĩnh vị trí trong hệ thống của vốn từ tiếng Việt. Những từ nào có khả
năng lấp ô trống trong vốn từ phổ thông chúng sẽ dễ dàng được chấp nhận và đưa
vào hệ thống. Những từ nằm trong lớp cạnh tranh sẽ được lựa chọn qua thời gian
sử dụng.
4. Vài lời kết
Là thứ ngôn ngữ khu vực nhưng được sử dụng rộng rãi với hơn 1/3 dân số cả nước,
tiếng miền Nam (phương ngữ Nam Bộ là hạt nhân) được xem là một phương ngữ
lớn - nơi có sự phát triển kinh tế năng động, văn hoá phong phú, một "phương ngữ
mạnh" và có vai trò đặc biệt đối với tiếng Việt. Có thể thấy, trong giai đoạn 1945–
1975, phương ngữ miền Nam đã có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội nói
chung và trong việc phát triển của ngôn ngữ nói riêng. Đặc điểm của hai cuộc
kháng chiến ở miền Nam những năm 1945–1975 đã tạo cho phương ngữ Nam có
điều kiện trở nên gần gũi với đồng bào cả nước và có một số lượng khá lớn các từ
và khái niệm mới chỉ các hoạt động chiến tranh. Đây là cơ sở để một mảng từ địa
phương xuất hiện và nhanh chóng thâm nhập vào ngôn ngữ toàn dân, bổ sung và
làm phong phú thêm cho vốn từ tiếng Việt.
Mặc dù còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu nhưng qua tư liệu một số tác phẩm văn
học có đối chiếu với từ điển, chúng ta đã phần nào thấy được sự thâm nhập của từ
địa phương miền Nam vào ngôn ngữ toàn dân qua một giai đoạn có nhiều biến
động của hoàn cảnh xã hội cũng như của ngôn ngữ. Đồng thời, qua đó chúng ta
cũng thấy được vị thế của từ địa phương trong mối quan hệ với ngôn ngữ toàn dân:
Luôn vận động và mở rộng phạm vi để thâm nhập vào vốn từ toàn dân. Điều đó
phản ánh đúng xu thế phát triển của ngôn ngữ nói chung và của phương ngữ nói
riêng.
_____________
(*) Khái niệm từ ngữ miền Nam có khác khái niệm từ ngữ Nam Bộ ở chỗ chung
hơn và rộng hơn, có thể hình dung như sự phân chia Bắc/Nam trong thời kháng
chiến chống Mỹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hoàng Phê (chủ biên). Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng, 1998.
Văn Tân (chủ biên). Từ điển Tiếng Việt. Nxb Khoa học Xã hội, 1968.
Đào Văn Tập (chủ biên). Tự điển Việt Nam phổ thông. Nhà sách Vĩnh Bảo - Sài
Gòn, 1951.
Nguyễn Như Ý (chủ biên). Từ điển tiếng địa phương. Nxb Khoa học Xã hội, 1999.
Nguyễn Văn Ái. Từ những thực tế phương ngữ, nhìn về vấn đề giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt (trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ).
Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
Hoàng Thị Châu. Tiếng Việt trên các miền đất nước (phương ngữ học). Nxb Khoa
học Xã hội, 1989.
Hồng Dân. Từ ngữ phương ngôn và vấn đề chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt (trong
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ). Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
Nguyễn Đức Dương. Mấy nhận xét bước đầu về những khác biệt từ vựng–ngữ
nghĩa giữa phương ngữ miền Nam và tiếng Việt toàn dân. Tạp chí Ngôn ngữ số
1/1983.
Phạm Văn Hảo. Bàn thêm một số điểm về việc thu thập và định nghĩa từ địa
phương trong "Từ điển tiếng Việt phổ thông tập 1". Tạp chí Ngôn ngữ số 2/1979.
Nguyễn Quang Hồng. Các lớp từ địa phương và chức năng của chúng trong ngôn
ngữ văn hoá tiếng Việt (trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ).
Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
Nguyễn Tri Niên. Một số ý kiến về những hiện tượng tương ứng từ vựng giữa
phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân (trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về
mặt từ ngữ). Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
Nguyễn Quang. Việc chọn và giải thích từ ngữ miền Nam trong một quyển từ điển
tiếng Việt loại phổ thông. Tạp chí Ngôn ngữ số 4/1971.
Trương Văn Sinh. Bàn về việc xử lí từ ngữ địa phương trong khi chuẩn hoá tiếng
Việt về mặt từ ngữ (trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ). Nxb
Khoa học Xã hội, 1981.
Trương Văn Sinh, Đặng Ngọc Lệ. Mấy suy nghĩ xung quanh việc thu nạp các yếu
tố địa phương trong quá trình chuẩn hoá (trong Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt
Nam). Nxb ĐH và THCN, 1981.
Nguyễn Tài Thái. Nhìn lại việc dùng từ địa phương trong văn học Nam Bộ qua
một thế kỉ, Ngữ học trẻ 2001: Diễn đàn học tập và nghiên cứu, Hội Ngôn ngữ học,
2001.
Ngô Ngọc Bích Tiên. Nhìn qua việc dùng từ địa phương miền Nam trong một số
tác phẩm văn học gần đây (trong Nghiên cứu ngôn ngữ học). Nxb Khoa học Xã
hội, 1968.
Nguyễn Quý Trọng. Dùng từ ngữ địa phương trong mối quan hệ với chuẩn từ vựng
toàn dân (trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ). Nxb Khoa học
Xã hội, 1981.
Một số truyện của các tác giả miền Nam:
Anh Đức:
Thư tháng bảy
Xôn xao đồng nước
Vào mùa nắng
Giấc mơ của ông lao vườn chim
Mùa gió
Trọng
Truyện của một người cùng quê
Những truyện xung quanh một trận càn hình móng ngựa
Nguyễn Thi:
Người mẹ anh hùng
Những sự tích ở đất thép
Trần Hiếu Minh:
Chiến thắng
Đơn vị Gi-rông
Nguyễn Sáng:
Chị đội trưởng
Chị Nhung
Chiếc lược ngà
Một chuyện vui
Quán rượu người câm
Người bạn mới quen
Thuỷ Thủ:
Ba ngày trên vành đai diệt Mỹ
Bá Điệp:
Viếng mộ Võ Thị Sáu
Lê Châu:
Qua những ngày đầu gian khổ
Minh Hồng:
Em đã thắng
Hoài Vũ:
Tiếng sáo trúc
Đường ra tiền tuyến
Đoàn Giỏi:
Đường đi qua làng
Nguyên Ngọc:
Rẻo cao