Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Mê đắm khung cảnh thanh tịnh của chùa Thầy pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.05 KB, 5 trang )

Mê đắm khung cảnh thanh tịnh của
chùa Thầy
Với lợi thế phong cảnh hữu tình, thiên nhân hòa hợp khiến cho những ai đã từng
đến chùa Thầy (Quốc Oai, Hà Nội) đều không thể nào quên…

Chùa Thầy
Chùa Thầy còn gọi là chùa Cả, tên chữ là: “Thiên Phúc Tự” thuộc xã Sài Sơn, huyện
Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (cũ), nay là Hà Nội. Núi Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên
chùa được gọi là chùa Thầy.
Tương truyền chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ
Đạo Hạnh, người có công lớn trong việc dạy học, chữa bệnh cho dân và sáng lập ra bộ
môn múa rối nước.

Chùa Thầy
Chùa Thầy có ba tòa nằm song song với nhau, toà ngoài gọi là nhà tiền tế hay chùa Hạ.
Toà giữa là trung điện hay chùa Trung, toà trong cùng là thượng điện, thờ các hóa thân
của thiền sư Từ Đạo Hạnh, diễn tả ba “kiếp” của Từ Đạo Hạnh: Tăng, Phật và Đế vương.
Phía sau chùa có lầu chuông, lầu trống. Phía trước chùa là sân rộng nhìn ra hồ Long
Chiểu.
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh
trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn
Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh
Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau
đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông.

Chùa Thầy
Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa,
bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về
hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long
Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng.
Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa,


bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về
hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long
Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng.
Phần chính của chùa Thầy gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và
chùa Thượng. Giữa chùa Hạ và chùa Trung có ống muống nối với nhau, tạo thành thế hạ
công thượng nhất

Chùa Thầy
Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền. Ống muống để tượng Bát bộ
Kim Cương. Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp, tượng Thiên
vương. Chùa Thượng hay chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo
điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà tam tôn, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo
Hạnh, tượng cha mẹ thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước
trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa.
Từ sân này có hai cầu là Nhật Tiên và Nguyệt Tiên nối sang hai bên, tạo thành hai râu
rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một
hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.
Qua cầu Nguyệt Tiên nối với con đường lên núi. Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy
am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên.
Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng
Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác
để đầu thai làm vua Lý Thần Tông, nên còn gọi là hang Thánh Hóa.
Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ, là nơi tình tự của trai gái ngày xưa
trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi lại: Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ/ Trai
chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.
Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm.
Trong ngày hội, nhiều tăng ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những
bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng
Phật và trai đàn – một diễn xướng có tính chất tôn giáo – được thực hiện có sự phối hợp

của các nhạc cụ dân tộc. Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở
đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở
nhiều nước.

×