Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

tư tưởng hồ chí minh về lấy dân làm gốc và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.13 KB, 111 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LẤY DÂN LÀM GỐC
1.1. Một số khái niệm
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc
1.3. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc

9
9
19
32

Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LẤY DÂN LÀM GỐC
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

52

2.1. Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy
dân làm gốc trong một số lĩnh vực từ 1986 đến 2010
2.2. Tiếp tục dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc trong

52

giai đoạn hiện nay

84



KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

100
103


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc đời của Hồ Chí Minh có thể tóm gọn bằng hai chữ “vì dân”.
Người nói:
Cả đời tơi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc,
và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non,
hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó.
Đến lúc nhờ quốc dân đồn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác
cho tơi gánh việc Chính phủ, tơi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố
gắng - cũng vì mục đích đó [47, tr.240].
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh ln coi trọng dân, tin dân, dựa
vào dân, và tâm niệm “dân là gốc của nước”, “phải gần gũi dân, dựa vào lực lượng
của dân, xa rời nhân dân, tài tình mấy cũng khơng làm gì được” [46, tr.119].
Vì vậy “lấy dân làm gốc” là một nội dung lớn trong toàn bộ hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc được Đảng cộng sản Việt
Nam vận dụng thành công trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng
như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới.
Thực tiễn cách mạng hơn 80 năm qua cho thấy Đảng Cộng sản Việt

Nam là một Đảng cầm quyền kiểu mới gắn bó máu thịt với nhân dân. Điều
này được thể hiện sâu sắc trong nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng và các chủ trương, chính sách của Đảng; trong công tác tổ chức xây
dựng Đảng; trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và trong hoạt động
thực tiễn. Đây là một thuộc tính bản chất và là ưu thế vượt trội tạo nên sức
mạnh của Đảng. Từ thực tiễn cách mạng, Đảng ta rút ra một trong những bài
học lớn là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng


2
"lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động” [11. tr.29], và khẳng định:
Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Ðảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân
chính của nhân dân. Sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó máu thịt với
nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những
tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước, của chế
độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng [17, tr.65].
Nhờ biết lấy dân làm gốc, Đảng đã huy động được nguồn lực to lớn của
nhân dân làm nên những thắng lợi có ý nghĩa thời đại và vững vàng chèo lái
con thuyền cách mạng Việt Nam thoát khỏi cơn biến động chính trị vào cuối
những năm 80 của thế kỷ XX. Cũng nhờ đó, Đảng làm nên những kỳ tích vĩ
đại trong thời kỳ đổi mới, đưa đất nước vững bước tiến lên con đường hội
nhập quốc tế một cách đầy tự tin.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong những năm qua,
quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm.
Bệnh quan liêu, mệnh lệnh, nhũng nhiễu, ức hiếp nhân dân vẫn còn tồn tại
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Khơng ít trường hợp, việc thực hành
dân chủ cịn mang tính hình thức hoặc lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất

đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Hoạt động của
Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho nhân dân chưa thực sự có
hiệu quả. Quy chế dân chủ ở cơ sở còn bị vi phạm. Một bộ phận khơng nhỏ
cán bộ, đảng viên có biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; nguy
hiểm nhất là sự chuyển hoá từ cơ hội, thực dụng về kinh tế sang cơ hội, thực
dụng về chính trị, từ tha hoá về đạo đức và lối sống sang tha hố về chính trị tư tưởng. Những hiện tượng tiêu cực và tệ quan liêu, nạn tham nhũng, xa dân
và sách nhiễu dân gây nên những bất bình và suy giảm lòng tin của nhân dân


3
đối với Đảng và Nhà nước, có thể làm rạn nứt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng
với nhân dân. Trong chiến lược “diễn biến hồ bình”, các thế lực thù địch ra
sức lợi dụng “lịng dân khơng n” để lơi kéo, kích động q̀n chúng chống
Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninhquốc phòng, nguồn lực vật chất và tinh thần của nhân dân rất lớn nhưng chưa
được khai thác, phát huy đầy đủ; một số chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước chưa thực sự đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân…
Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước rất nặng nề. Sự
nghiệp đổi mới, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra
nhiều vấn đề phức tạp, có nhiều khó khăn, địi hỏi Đảng, Nhà nước phải huy
động nhiều hơn nữa sức lực, tài trí của nhân dân, phải dựa vào nhân dân; phải
tạo ra sự thống nhất giữa ý Đảng, lòng dân.
Xuất phát từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về lấy dân làm gốc và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới” là rất có ý nghĩa trong việc khắc phục các khuyết điểm
nêu trên, đồng thời tiếp tục khẳng định những giá trị to lớn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh để vận dụng có hiệu quả trong q trình phát triển kinh tế - xã hội
và góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta với mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đã có rất nhiều cơng trình, bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan
đến đề tài nghiên cứu. Có thể nêu một số cơng trình tiêu biểu sâu đây:
Ban Dân vận Trung ương: Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Đây là cuốn sách tập hợp nhiều
bài nghiên cứu của nhiều tác giả có đề cập đến các khái niệm “dân”, vai trò
nhân dân trong lịch sử và trong tư tưởng Hồ Chí Minh.


4
Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; trong phần “tư
tưởng nhân văn” có đề cập vấn đề “nước lấy dân làm gốc”.
Lê Kim Việt: Hồ Chí Minh với vấn đề dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, Tạp chí Khoa học chính trị, số 1-2001. Bài viết nêu bật tư tưởng Hồ
Chí Minh về việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua vấn đề
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đồng thời, tác giả chỉ rõ thực
trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Phạm Hồng Chương: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2004 đã trình bày những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về dân chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội; và đưa
ra những giải pháp hiện thực hóa tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Hùng, Trịnh Xuân Giới, Hoàng Tiến Cát... Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào cơng tác dân vận trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, đã khái quát khái niệm, nguồn gốc và quá trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận; vai trị tư tưởng Hồ Chí Minh với
cơng tác dân vận, các ngành, đồn thể và địa phương.
Trần Hải: Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan điểm “lấy dân là gốc”
(; cập nhât 2/2007) đã nêu một số nội dung trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về “lấy dân là gốc” như: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân;
chăm lo đời sống của dân; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Nguyễn Quang Thứ, Lê Trung Kiên: Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận trong cuộc kháng chiến chống Pháp Mỹ và thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Cuốn sách đã
đề cập một số nội dung liên quan như: Dân và dân vận trong tư tưởng Hồ Chí
Minh; Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
trong cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ; Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong cơng cuộc đổi mới…


5
Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh: Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với
việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2009 đã trình bày nội dung giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Lê Kim Việt: Nhân cách, đạo đức của người cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 6-2009. Bài viết phân
tích tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong bối cảnh hiện nay. Trong đó, điểm nổi bật là thái độ trọng dân, tin dân
và vì dân.
Vũ Văn Nhiêm: Mấy vấn đề về tư tưởng lấy dân làm gốc, về bầu cử và
sách lược ứng phó Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 162,
1/2010. Bài viết đã trình bày nguồn gốc, quan điểm lấy dân làm gốc, nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc. Theo tác giả: Nhân dân là cội rễ
của quyền lực; phải tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân, phải thường
xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân.
Bùi Đình Phong: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân là gốc, Diễn đàn
Doanh nghiệp điện tử- (cập nhật 2-9-2011) đã
lý giả hai vấn đề mang tính học thuật: dân là ai ? Và những khía cạnh nào là
gốc trong dân? Ở vấn đề thứ nhất tác giả đã tiếp cận quan niệm “dân” của Hồ
Chí Minh ở nhiều “lát cắt”. Theo đó, “dân” có ba cấp độ: đồng bào, cử tri và
đại biểu Quốc hội, tùy theo điều kiện để họ thể hiện vai trị gốc của mình. Ở

vấn đề thứ hai, sau khi lý giải ở nhiều khía cạnh, tác giả khái quát: gốc trong
dân thể hiện ở chỗ là vị trí, vai trị của tồn dân là quyết định mọi việc, khơng
gì có thể thay thế.
Ngồi ra cịn có nhiều báo, tạp chí đăng tải một số bài liên quan đến
vấn đề “lấy dân làm gốc”, nhưng chỉ đề cập một số khía cạnh trong khn
khổ của một bài báo.
Nhìn chung, các cơng trình nêu trên có đề cập những vấn đề liên quan
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc, nhưng chủ yếu ở góc độ là tư


6
tưởng dân vận, chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu sắc, tồn diện tư tưởng
Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc và sự vận dụng của Đảng ta trong q trình
lãnh đạo, chỉ đạo cơng cuộc đổi mới đất nước. Đây là những tư liệu tốt để
chúng tôi đối sánh, tham khảo, từ đó đưa ra những ý kiến của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc
và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, luận văn
làm rõ giá trị thực tiễn của vấn đề và đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục vận
dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc trong thời kỳ mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
- Làm rõ những giá trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân, về lấy dân
làm gốc.
- Nghiên cứu q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm
gốc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới
- Đề xuất các giải pháp nhằm vận dụng có hiệu quả tư tưởng lấy dân
làm gốc của Hồ Chí Minh vào thời kỳ mới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quan điểm của Hồ Chí
Minh về lấy dân làm gốc thể hiện trong tác phẩm, cuộc đời và sự nghiệp của
Người. Đồng thời, luận văn còn nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về lấy dân làm gốc của Đảng cộng sản Việt Nam trong q trình lãnh
đạo cơng cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay thể hiện qua đường lối,
chủ trương và chính sách của Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


7
- Luận văn nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh có liên quan đến
việc lấy dân làm gốc thể hiện trong các tác phẩm và hoạt động thực tiễn của Người.
- Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc diễn ra
trong nhiều lĩnh vực, nhiều chủ thể và xuyên suốt quá trình cách mạng Việt
Nam. Đề tài này chỉ đề cập đến sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy
dân làm gốc của Đảng cộng sản Việt Nam trong chỉ đạo, lãnh đạo một số lĩnh
vực chủ yếu trong thời kỳ đổi mới đất nước từ 1986 đến 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp chung của nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh như:
- Phương pháp biện chứng duy vật: trên quan điểm duy vật và phương
phương pháp biện chứng xem xét các quan điểm của Hồ Chí Minh về lấy dân
làm gốc.
- Phương pháp lịch sử cụ thể: Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư
tưởng về lấy dân làm gốc ra đời trong bối cảnh lịch sử đầu thế kỷ XX. Từ đó
đến nay, thực tiễn có nhiều biến động, thay đổi. Vì vậy phải đặt những quan
điểm của Hồ Chí Minh vào bối cảnh lịch sử đó để xem xét. Tuyệt đối khơng
được “hiện đại hóa” những quan điểm của Người, khơng được dùng quan

điểm của Người để minh họa cho thực tiễn một cách khiên cưỡng, áp đặt.
- Phương pháp toàn diện và hệ thống: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống, trong đó độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là nội dung xuyên
suốt và cốt lõi. Nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc
phải gắn vào hệ thống này, tức là phải xem cái đích cuối của tư tưởng Hồ Chí
Minh về lấy dân làm gốc khơng nằm ngồi mục tiêu độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra, luận văn còn chú trọng các phương pháp khác như: phương
pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, loại suy,… để phân tích, lý giải làm rõ
nội dung.


8
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về lấy dân làm gốc thơng qua việc hệ thống hóa các quan điểm của
Người. Đồng thời, luận văn khái quát quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về lấy dân làm gốc trong quá trình lãnh đạo của Đảng vào thực tiễn đổi
mới một số lĩnh vực. Từ đó, khẳng định giá trị to lớn tư tưởng lấy dân làm
gốc của Hồ Chí Minh và rút ra những kinh nghiệm cho việc tiếp tục vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc trong trong thời kỳ mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
- Góp phần làm phong phú thêm những nội dung cơ bản trong hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Làm cơ sở lý luận trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên,
học sinh, sinh viên…
- Kết quả đề tài còn dùng để tham khảo trong giảng dạy, học tập bộ
mơn tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm có 2 chương, 5 tiết.


9


10
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LẤY DÂN LÀM GỐC
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Khái niệm “dân” trong lịch sử
“Dân” là một khái niệm xuất hiện từ lâu trong lịch sử. Tuy nhiên trong
thực tế mỗi chế độ xã hội khác nhau, cách hiểu về dân và vai trò của dân có
khác nhau, phụ thuộc vào quan điểm chính trị, vào lợi ích của các giai cấp
cầm quyền.
Xã hội chiếm hữu nô lệ là xã hội đầu tiên trong lịch sử có giai cấp và
nhà nước. Cũng từ đây, xã hội chia làm hai “hạng người”: hạng người đi bóc
lột và hạng người bị bóc lột, tức giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Trong xã
hội này những người nô lệ bị loại ra khỏi khái niệm dân.
Solon (640 - 558 TCN), nhà hoạt động nhà nước trong quốc gia thành
bang Aten thời Hi Lạp cổ đại chia cư dân Aten thành những đẳng cấp có quyền
lợi và nghĩa vụ khác nhau, căn cứ vào mức thu nhập tài sản trong 1 năm.
Đẳng cấp thứ nhất: bao gồm những người có thu nhập lương thực 500
mêđim (1mêđim=52,5 lít) thóc trở lên; đẳng cấp thứ hai là những người có
thu nhập từ 300 mêđim thóc trở lên; đẳng cấp thứ ba là những người có thu
nhập từ 200 mêđim trở lên; còn những ai thu nhập dưới 200 mêđim thuộc
đẳng cấp thứ tư.
Theo quy định, chỉ có những người thuộc đẳng cấp thứ nhất mới đủ tư
cách giữ các chức vụ cao nhất của nhà nước như Quan chấp chính, tham gia

Hội đồng trưởng lão, gia nhập kỵ binh. Đẳng cấp thứ hai cũng được giữ các
chức vụ cao nhưng trừ Quan chấp chính và Hội đồng trưởng lão. Đẳng cấp
thứ ba được giữ một số chức vụ và được sung vào bộ binh trang bị bằng vũ
khí nặng. Đẳng cấp thứ tư được tham gia Đại hội nhân dân, có quyền bầu cử
những chức vụ cơng cộng nhưng không được ứng cử, về quân đội họ được
sung vào bộ binh trang bị nhẹ.


11
Platon (427-347 TCN), là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp chia cư dân
ra làm ba đẳng cấp:
- Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các nhà cai trị
- Đẳng cấp thứ hai là những người vệ binh
- Đẳng cấp thứ ba là những công dân tự do gồm nông dân và thợ thủ công
Sự phân chia của Platon là dựa vào đặc trưng đạo đức. “Đặc trưng đạo
đức của đẳng cấp thứ nhất là thông thái; của đẳng cấp thứ hai là dũng cảm;
của đẳng cấp thứ ba kiềm chế, khuất phục” [60, tr.126]. Vai trò của mỗi đẳng
cấp theo Platon là: Đẳng cấp thứ nhất là cai trị, “nhà nước lý tưởng” là của đẳng
cấp này. Đẳng cấp thứ hai là “giám thị làm thuê”. Đó là cơng cụ bạo lực để đàn
áp sự chống đối của quần chúng. Đẳng cấp thứ ba là nguồn kinh tế bảo đảm cho
hoạt động của nhà nước, là những người làm ra của cải nuọi sống xã hội.
Cả hai sự phân chia các đẳng cấp nói trên đều không đề cập đến nô lệ,
lực lượng dân cư đông đảo nhất trong xã hội lúc bấy giờ. Nô lệ không được
xem là một đẳng cấp xã hội, mà chỉ được xem là “cơng cụ biết nói” là ‘tài sản
biết cử động”, người chủ có quyền đem ra mua bán, chém giết như một thứ đồ
dùng hay vật nuôi. Nô lệ bị loại ra khỏi khái niệm dân.
Sang thời trung đại, ở phương Tây trong suốt 10 thế kỷ (từ thế kỷ V
đến thế kỷ XV) nhà nước phong kiến cùng với giáo hội Cơ đốc giáo thống trị
xã hội vô cùng hà khắc, mọi quyền của dân đều bị bóp nghẹt, bị chà đạp một
cách thơ bạo. Thần dân chỉ biết cúi đầu khuất phục trước uy quyền của

Thượng đế. Nhà thờ đạo Thiên chúa là một tổ chức tập quyền hùng mạnh
thống trị châu Âu về tinh thần và chính trị. Do đó, khoa học và triết học đã
khơng tìm được cho mình một con đường độc lập. Văn học nghệ thuật thì lấy
đề tài trong Kinh thánh, ca ngợi cái đẹp của con người, giá trị của con người
là biết phục tùng trước uy quyền của Chúa. Tín điều nhà thờ là điểm xuất phát
của mọi tư duy. Thế giới quan chủ yếu là thế giới quan thần học. Chính vì
vậy, những gì trái với Kinh thánh và niềm tin tôn giáo đều bị Giáo hội chống
lại. Điều đó, làm cho nhân dân khơng hề có bất cứ một thứ quyền hành gì.


12
Hệ tư tưởng Nho giáo phương Đông, tiêu biểu là Trung Hoa lúc đầu có
những yếu tố tiến bộ, dần về sau Nho giáo xem thường dân. Nho giáo chia
mọi người ra làm hai loại: quân tử và tiểu nhân. Khổng tử phân biệt: “Quân tử
thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt” (Quân tử đạt về cái lý cao minh, tiểu nhân đạt về
cái lý đê hạ).
Quân tử bao giờ cũng theo thiên lý, cho nên tâm tính thanh minh,
nghĩa lý sáng rõ, biết điều gì là càng ngày càng tinh thâm, làm việc
gì là ngày càng thuần thục, bởi vậy mới tiến đến chỗ cao minh. Tiểu
nhân bao giờ cũng theo nhân dục, cho nên cái chí khí mờ tối, cứ bị
vật dục sai khiến, biết cái gì ngày càng sai lầm, làm cái gì ngày càng
càn rỡ, bởi vậy mới trụy lạc về đường đê hạ [30, tr.75].
Theo đó, quân tử là những người thuộc tầng lớp trí thức, tầng lớp trên
của xã hội, tiểu nhân là các thường dân lao động chân tay. Nho giáo coi
thường người lao động chân tay, đề cao quá mức lao động trí óc, cho rằng:
“vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao (vạn nghề đều thấp hèn, duy chỉ
có đọc sách là cao quý). "Kẻ lao tâm trị người, còn người lao lực thì bị người
trị". Xã hội phong kiến xem nhân dân lao động là “thảo dân”, là “dân đen” là
đối tượng “cần được chăn dắt”, chịu sự quy định của Trời, mà vua là Thiên tử
(con trời) có sứ mệnh “thế thiên hành đạo”. Vua có quyền sai khiến thần dân.

Số phận của thần dân nằm trong tay vua. Khổng tử nói: “Quân tử học đạo tắc
ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dĩ sử dã”(Quân tử học đạo thì yêu người, tiểu
nhân học đạo thì dễ khiến) [30, tr.74].
Như vậy, khái niệm dân trong xã hội phong kiến được sử dụng để chỉ
một lực lượng người đông đảo, khơng nằm trong bộ máy cai trị. Đó là những
những người lao động chân tay, là đẳng cấp thấp nhất trong xã hội và chỉ là
phương tiện để giai cấp thống trị thực hiện lợi ích của mình.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cùng với nhà nước pháp quyền tư sản,
xã hội công dân ra đời. Giai cấp tư sản vì lợi ích của mình đã từng giương lên


13
ngọn cờ “tự do, bình đẳng, bác ái” để tập hợp nhân dân chống lại giai cấp
phong kiến.
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (1789) của Pháp, tại điều 1 và
điều 6 khẳng định “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải
ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, trong đó có quyền bình
đẳng về việc tham gia vào tất cả các văn phịng, các vị trí và chức vụ cơng.
Điều này có nghĩa là dân được tham gia vào bộ máy cầm quyền. Nhưng trong
thực tế thì chỉ những người giàu có thuộc giai cấp tư sản mới có khả năng
thực hiện quyền này, cịn cơng nơng thì bị “tước lục”(chữ dùng của Hồ Chí
Minh), khơng có quyền gì.
Bản Tun ngôn độc lập 1776 của Mỹ cũng dõng dạc tuyên bố: “mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. “Mọi người” ở đây được hiểu là mọi
người dân, trong đó có nam và nữ. Tuy nhiên, người phụ nữ Mỹ đến năm
1921 mới có quyền đi bầu cử.
Hầu hết các hiến pháp tư sản ghi nhận quyền tự do bầu cử, ứng cử của
mọi công dân. Nhưng thực tế, cũng chính hiến pháp, pháp luật tư sản tìm mọi
cách hạn chế quyền công dân, ngăn trở nhân dân lao động tham gia vào các
quá trình kinh tế, xã hội. Một những lý do làm cho những người không thuộc

giai cấp tư sản không thể ra tranh cử là quy định về điều kiện vật chất. Ví dụ:
“Ở Pháp, mỗi ứng cử viên vào Hạ nghị viện phải đóng 1000 phrăng tiền đặt
cọc…, ở Hy Lạp mỗi ứng cử viên phải đóng 20 nghìn drama…, ở Anh, mỗi
ứng cử viên vào Hạ viện phải đóng 500 bảng Anh…” [4,tr.27]. Theo
Wikipedia, tổng chi phí tranh cử của các ứng cử viên ở Mỹ qua các kỳ bầu cử
Tổng thống như sau: năm 1996: 448,9 triệu USD; năm 2000: 649,5 triệu
USD; năm 2004: 1,01 tỷ, năm 2008: 1tỷ USD [86]. Đây là rào cản làm cho
các giai cấp, tầng lớp lao động bình thường không thể cử đại diện ra tranh cử
vào lưỡng viện, cũng như người đứng đầu cơ quan hành pháp ở các nước tư
bản. Chính vì thế nên trong Quốc hội và người đứng đầu cơ quan hành pháp


14
ở các nước tư bản luôn là các tỷ phú, triệu phú. Như vậy, “dân” ở đây thực
chất chỉ là giai cấp tư sản.
Đối với nhân dân lao động, những nhà triết học, tư tưởng tư sản coi họ
là “dãy số khơng, một đám đơng vơ nghĩa khơng có vai trị gì, nếu có chỉ là
sức ỳ, ngu si đần độn và là đối tượng của sự phê phán” [5, tr.114]. Nếu như
trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai cấp chủ nô xem nô lệ là “công cụ biết nói”,
thì trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản xem công nhân, nhân dân lao động như
là một “phương tiện để đi đến mục đích, có nghĩa là q̀n chúng nhân dân
không phải là đối tượng phục vụ mà chỉ là đối tượng sử dụng” [5, tr.114].
1.1.2. Khái niệm “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh và “tư tưởng
Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc”
1.1.2.1. Khái niệm “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tiếp thu một cách có chọn quan niệm về dân trong các chế độ xã hội
trước, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa
ra một quan niệm về dân đơn giản, dễ hiểu, nhưng lại rất sâu sắc. Người dùng
nhiều từ ngữ khác nhau như “nhân dân”, “quần chúng nhân dân”, “đồng bào”,
“dân”…để chỉ cùng một đối tượng. Năm 1953 trong tác phẩm Thường thức

chính trị, Người giải thích “Nhân dân là bốn giai cấp cơng, nơng, tiểu tư sản,
tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước” [50, tr.219]. Qua đó, ta thấy
“dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm tất cả những người lao động
(chân tay và trí óc) đơng đảo trong xã hội, khơng phân biệt lứa tuổi, giới tính,
dân tộc, tơn giáó, giàu, nghèo, địa vị xã hội,… miễn là có lịng u nước. Xuất
phát từ lịng nhân ái, khoan dung, Hồ Chí Minh cịn quan niệm mỗi con người
đều có mặt tốt và mặt xấu. Người cho rằng:
Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau
lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai


15
cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ” [47, tr.246-247].
Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, dân cịn bao hàm cả những
người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải.
“Dân” là tất cả mọi người, nhưng không bao hàm bọn phản quốc, bọn
tay sai bán nước, những kẻ đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của quần chúng
nhân dân, mà đó là kẻ thù của nhân dân. Người phân biệt: “Những bọn phản
động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng chúng không được ở trong
địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi như nhân dân” [50, tr.219].
Hồ Chí Minh coi nhân dân là một khối thống nhất nhưng không đồng
nhất, mà bao gồm nhiều dân tộc, giai cấp, tầng lớp...có lợi ích chung và lợi
ích riêng, có vai trị và thái độ khác nhau đối với sự phát triển của xã hội và
cách mạng. Người nói: “Dân chúng khơng nhất luật như nhau. Trong dân
chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau”
[48, tr.296]. Trong khối nhân dân đơng đảo đó, Người coi trọng vai trị của
cơng nhân, nơng dân, trí thức. Ở tác phẩm Đường cách mệnh, căn cứ vào địa

vị kinh tế-xã hội của các giai cấp tầng lớp, Người khẳng định “công nông là
gốc cách mệnh; cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp
bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách
mệnh của công nông thôi” [45, tr.266]. Trong khi nhấn mạnh vai trị của cơng,
nơng; xem “cơng nơng là gốc của cách mệnh”, là “chủ cách mệnh”; Hồ Chí
Minh cũng coi trọng vai trị của trí thức vì “muốn phát triển văn hố thì phải
cần thầy giáo, muốn phát triển sức khoẻ của nhân dân thì phải cần thầy thuốc,
muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư, v.v..Tóm lại cách mạng rất cần trí
thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức” [50, tr.32-33]. Đặc
biệt, Người còn cho rằng “Đảng Lao động Việt Nam gồm có những cơng
nhân, nơng dân, lao động trí óc u nước nhất” [50, tr.30]. Trong khối tồn
dân đơng đảo ấy, Người xem liên minh cơng nhân-nơng dân-trí thức là nền
tảng của xã hội; là cơ sở xã hội của nhà nước.


16
Khái niệm “dân” của Hồ Chí Minh có sự khác biệt với khái niệm
“dân” của các nhà tư tưởng phương Đông và phương Tây. Các nhà tư tưởng
phong kiến phương Đông dùng khái niệm “dân” để chỉ nhân dân lao động
bình thường, khơng bao hàm tầng lớp q tộc. Vua là “thiên tử” (con trời),
quan là “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ dân) có trách nhiệm thay trời trị dân, chăn
dân, ban ơn mưa móc đối với dân. Kinh thi có câu: “Lạc chỉ quân tử, dân chi
phụ mẫu” (Vui vẻ hòa thuận thay người quân tử ấy! Thiệt đáng làm cha mẹ
cho dân). Phan Bội Châu bình luận: “Bốn chữ “dân chi phụ mẫu”, là có ý xem
dân như con mình” [9, tr.365]. Số phận người dân phụ thuộc hồn tồn vào
vua. Nếu gặp một đấng “minh qn” thì dân nhờ, cịn “hơn qn” thì dân
chịu. Dân khơng có bất kỳ một quyền hành gì trong xã hội. Trái lại, Hồ Chí
Minh cho rằng dân là chủ, là gốc của cách mạng; quyền hành thuộc về dân.
Trong quan niệm của các nhà tư tưởng phong kiến phương Đông, “dân” là
một tập hợp người thụ động, rời rạc. Còn với Hồ Chí Minh, “dân” lại là một

khối thống nhất được tổ chức chặt chẽ, trong đó cơng nhân, nơng dân, trí
thức là ba bộ phận quan trọng nhất.
Đối với các nhà tư tưởng tư sản phương Tây thì “dân” thực chất là
những người thuộc giai cấp tư sản. Về mặt lý thuyết họ có những tư tưởng
tích cực khi đặt dân lên vị trí cao nhất trong xã hội. Nhà nước chẳng qua là
cơ quan được dân uỷ quyền để phục vụ lợi ích của dân và dân có quyền “thay
đổi hoặc xóa bỏ” nhà nước nếu nhà nước khơng làm tròn nhiệm vụ. Tuy vậy,
trên thực tế vị thế “dân” này chỉ thuộc về những người có của, những nhà tư
sản chiếm số ít ; cịn số đơng nhân dân lao động vẫn là những người khơng có
quyền hành, khơng có địa vị gì trong xã hội. Cịn với Hồ Chí Minh “dân” là
những người lao động là chủ xã hội. Những người làm việc trong bộ máy nhà
nước, từ một nhân viên bình thường cho đến Chủ tịch nước phải là “cơng
bộc” của dân, có trách nhiệm tận tình phục vụ dân, chứ khơng phải là những
kẻ “làm quan cách mạng” đè đầu cưỡi cổ dân, ban phát ân huệ cho dân.


17
Người nói: “Chúng ta phải u dân, kính dân”. “Kính dân” nghĩa là phải coi
dân như bề trên của mình.
Tóm lại, khái niệm “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội hàm rất
rộng nhưng vẫn mang tính giai cấp, do đó đã có tác dụng lớn trong việc tập
hợp và đoàn kết các lực lượng trong toàn dân tộc.
1.1.2.2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc
Mặc dù giai cấp phong kiến không đề cao địa vị của nhân dân trong xã
hội, nhưng các triều đại phong kiến đều phải thừa nhận vai trò và sức mạnh to
lớn của nhân dân. Để tồn tại, các triều đại phong kiến có những quan niệm
tích cực về dân, biết dựa vào dân. Vì vậy, tư tưởng “lấy dân làm gốc” (dĩ dân
vi bản) xuất hiện từ rất sớm ở phương Đông. Tại thiên Ngũ tử chi ca của Kinh
Thư có viết: “Dân khả cận; Bất khả hạ; Dân duy bang bản; Bản cố bang ninh”
(Dân nên thân cận; chớ nên coi khinh; dân là gốc của nước; gốc có bền, nước

mới an ninh). Theo đó, dân là sức mạnh, nguồn sống của đất nước, dân có
được yên ổn đất nước mới được yên ổn, dân có được ấm no đất nước mới có
thể giàu mạnh. Về sau, Nho gia tiếp tục phát triển tư tưởng này. Quan điểm
“dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh tử chính là sự kế thừa,
phát triển quan niệm “dân duy bang bổn” của Kinh Thư.
Vào thời Bắc thuộc, Nho giáo từ Trung Quốc truyền sang nước ta. Trên
tinh thần gạn đục khơi trong, người Việt đã tiếp biến Nho giáo tạo thành một
nền Nho học mang sắc thái Việt Nam. Từ Trần Quốc Tuấn với “khoan thư sức
dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, Nguyễn Trãi với “việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân”, đến Nguyễn Bỉnh Khiêm “được nước, nên biết là được lịng dân”; ơng
cha ta luôn đề cao tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Sinh ra trong một gia đình nhà
Nho “nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng”, tinh thông Nho học,
Hồ Chí Minh quan niệm “Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên
nền nhân dân” [48, tr.410]. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” là một nội dung lớn,
xuyên suốt, nổi bật trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự


18
tiếp nối của dòng chảy lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tuy nhiên, dưới ánh sáng
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc được
nâng lên một tầm cao mới, đáp ứng được đòi hỏi của thời đại mới. Qua
nghiên cứu toàn bộ trước tác của Người, có thể khái qt: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về lấy dân làm gốc là hệ thống các quan điểm khoa học, tồn diện về
địa vị, vai trị của dân trong xã hội và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước đối
với nhân dân; những quan điểm này được kế thừa từ những tinh hoa dân tộc,
trí tuệ nhân loại và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng “nước ta là
nước dân chủ”, xác lập vị thế làm chủ của nhân dân trong xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc xét về bản chất có những
điểm khác biệt so với các quan niệm trước đó, nhất là với Nho giáo:

Thứ nhất, Nho giáo miệt thị dân (tức người lao động chân tay), cho
rằng: “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao” (vạn nghề đều thấp hèn,
duy chỉ có đọc sách là cao quý). Hồ Chí Minh coi trọng dân “trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân” và phê phán quan điểm coi thường lao động
chân tay của Nho giáo. Ngày 30-5-1957, nói chuyện với đại biểu nhân dân
Hải phịng, Người nói: “Anh em trí thức ta đã biết câu: “vạn ban giai hạ
phẩm, duy hữu độc thư cao”, nghĩa là cái gì trong xã hội cũng đều thấp hết,
chỉ có người đọc sách, tức là trí thức là cao hơn hết. Như thế là không đúng.
Quan niệm ấy đã cũ rồi” [51, tr.347]. Hồ Chí Minh cịn cho rằng: “Người nấu
bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm tròn trách nhiệm cũng
vẻ vang như nhau”[53, tr.313].
Thứ hai, Nho gia khuyên những người cầm quyền “nới nhẹ sức dân”,
“thương dân”. Điều đó có nghĩa là nhà cầm quyền đứng bên trên ban ơn đối
với dân, thương hại dân. “Tử thứ dân tắc bách tính khuyến” (Thương dân như
con thì khuyến khích được trăm họ). “Nếu vua có thương dân, thì cái thương
đó cũng như người cưỡi ngựa thương con ngựa, người nuôi gà thương bầy


19
gà…” [22, tr.297]. Hồ Chí Minh lại cho rằng, những người cầm quyền trong
xã hội là người đầy tớ của nhân dân “chứ khơng phải như khi trước nói hồng
đế, bệ hạ, rồi có những quan này, quan khác cao cao tại thượng” [51, tr.375].
Ngược với quan niệm Nho giáo coi quan là “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ dân),
Hồ Chí Minh cho rằng: cán bộ, đảng viên thương dân chưa đủ mà còn phải
hiếu với dân, như con cái giữ tròn chữ hiếu đối với cha mẹ. Như vậy, theo Hồ
Chí Minh, thương dân là phục vụ nhân dân, ở trong dân, làm đầy tớ cho dân
chứ không phải “làm quan cách mạng” đứng trên dân.
Thứ ba, mục đích lấy dân làm gốc của Nho giáo là để làm dịu mâu thuẫn
giữa giai cấp thống trị và tầng lớp bị trị. Giai cấp thống trị muốn “yên dân” để trị
nước nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Nói như giáo sư Trần Văn Giàu: “Thương

dân là để củng cố quyền vua, an dân là cốt để triều đại vĩnh cửu” [22, tr.297].
Ngược lại, mục đích lấy dân làm gốc của Hồ Chí Minh là để giải phóng người
dân thốt khỏi tình trạng bị nơ lệ về chính trị, bị kiệt quệ về kinh tế, bị tối tăm
về tinh thần, tư tưởng, văn hóa, giáo dục do xã hội cũ gây nên.
Thứ tư, Quan điểm lấy dân làm gốc của Nho giáo chỉ có trong lý
thuyết, về mặt lý tưởng, cịn trên thực tế, giai cấp phong kiến khơng bao giờ
làm. Trong khi nói “dân khả cận” thì vua là người cách biệt với nhân dân, mỗi
lần vua đi ra ngồi khơng ai được phép nhìn mà phải cúi rập mình xuống đất,
chờ cho đến khi nhà vua đã đi qua mới được ngẩng lên. Ngược lại, Hồ Chí
Minh là tấm gương sống cho lý tưởng lấy dân làm gốc. Lý tưởng đó được thể
hiện bằng chính hoạt động của Người. Người khơng chỉ nói mà cịn làm.
Người sống trong dân, chan hòa với nhân dân, dung dị như một người dân
bình thường, suốt đời hy sinh cho lợi ích của nhân dân.
Sở dĩ có sự khác nhau như trên là do Nho giáo đứng trên lập trường
của giai cấp bóc lột. Tư tưởng cũng như những triết luận của họ có tính chất
an dân, nhằm điều hịa mâu thuẫn giai cấp, bênh vực quyền lợi và địa vị bọn
thống trị. Cịn Hồ Chí Minh đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.


20
Người bênh vực cho quyền lợi của nhân dân lao động. Cơ sở tư tưởng Hồ Chí
Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết về cách mạng, xóa bỏ áp bức giai
cấp, đưa người dân từ địa vị nô lệ, bị áp bức bóc lột thành chủ nhân của xã hội
mới. Rõ ràng tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc mang bản chất mới,
được nâng lên một tầm cao cao mới so với quan niệm của giai cấp phong
kiến.
1.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LẤY DÂN
LÀM GỐC

1.2.1 Truyền thống dân tộc Việt Nam

Từ ngàn xưa dân tộc ta có câu “Quan nhất thời, dân vạn đại” có ý
khuyên những người làm quan không nên đối lập với dân, ở trên dân vì khơng
thể làm quan mãi mãi mà trước sau gì quan cũng phải trở lại vị thế của dân,
trở về làm dân. “Dân vạn đại” cịn có nghĩa dân là mãi mãi, là cơ bản, là nền
tảng của xã hội, không một xã hội nào không cần đến dân, chế độ xã hội có
thể thay đổi, nhưng dân thì trường tồn. Từ kho tàng văn học dân gian, ta cũng
có thể tìm thấy sự đúc kết của ơng cha những bài học về sức mạnh của nhân
dân. Khi giặc Ân xâm lược nước ta, Gióng nhờ được nhân dân ni dưỡng,
cung cấp vũ khí mà có sức mạnh vơ địch đánh thắng giặc. Sức mạnh của
Gióng là sức mạnh tồn dân. Gióng chiến thắng là nhờ có nhân dân. Nhưng
đến cuộc kháng chiến chống Triệu Đà, An Dương Vương không biết dựa vào
dân mà dựa vào thành lũy và vũ khí. Cuộc kháng chiến này vắng bóng nhân
dân, nên kết cục “cơ đồ đắm bể sâu”. Câu chuyện đã để lại một thơng điệp có
giá trị mn đời: muốn giữ nước khơng chỉ có thành cao, hào sâu, vũ khí lợi
hại mà cái cơ bản là dựa vào dân. Một khi nhân dân đã “nổi can qua” thì “con
vua thất thế phải ra quét chùa”.
Trong lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam, nhiều đấng “minh
quân” có quan điểm về dân đúng đắn, tích cực, được nhân dân ủng hộ, triều
đại vững chải, xã hội thanh bình.


21
Năm 1010, ngay khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa
Lư về thành Đại La (sau đổi là Thăng Long). Trong Chiếu dời đô, nhà vua
giải thích đây là một quyết định “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu
thấy thuận tiện thì thay đổi” [7, tr.119]. Trong bài "Văn lộ bố" khi tiến hành
cuộc chiến tấn cơng qn Tống ở biên giới phía Bắc, Lý Thường Kiệt đã nói:
“Trời sinh ra dân chúng, vua hiền tất hoà mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi
dân” [7, tr.108].
Sang thời nhà Trần, quan niệm về dân tiến bộ, tích cực hơn. Dân được

coi là lực lượng chủ chốt, quyết định đến vận mệnh của đất nước; là lực lượng
có vai trị gắn liền với sự tồn tại và tiền đồ dân tộc. Năm 1248, đất nước đứng
trước họa xâm lăng thứ hai của giặc Nguyên Mơng, Thượng hồng Trần
Thánh Tơng tổ chức Hội nghị Diên Hồng, triệu họp các phụ lão trong cả nước
để hỏi về chủ trương hòa hay chiến. Khi được hỏi, các bô lão đồng thanh
hô:“nên đánh”. Thể theo ý dân, vua tôi nhà Trần đã làm nên thắng lợi của
kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai. Hội nghị Diên Hồng được xem
như hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Các phụ lão có thể coi
là những đại biểu của dân.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị tổng chỉ huy ba cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi, người có cơng lớn trong sự nghiệp
dựng nước ở đời Trần, chỉ ra nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến là
do: "Vua tôi đồng tâm, anh em hịa thuận, cả nước góp sức". "Cả nước góp
sức" chính là sức mạnh của toàn dân được tập hợp. Tháng 6 năm 1300, Hưng
Đạo Vương ốm, vua Anh Tông đến thăm và hỏi: “Nếu chẳng may Quốc công
mất, giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách làm sao? ”. Người đã
trăng trối những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho muôn đời: “Khoan thư sức
dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước” [77, tr.76]. Quan
điểm này biểu thị sự quan tâm của nhà nước đối với đời sống của nhân dân,
theo đó, nhân dân là nơi hội tụ những tiềm lực về kinh tế và quốc phòng bảo
đảm cho sự vững chắc của nền độc lập và chủ quyền của đất nước.


22
Khi nhà Trần suy vi, Hồ Quý Ly giết vua Thiếu Đế, cướp ngôi, lập ra
nhà Hồ. Dưới con mắt nhân dân, nhà Hồ là một ngụy triều nên không ủng hộ.
Chính vậy, năm 1406, quân Minh sang xâm lược nước ta, Hồ Nguyên Trừng
lo lắng:“Tôi không sợ đánh, chỉ sợ lịng dân khơng theo mà thơi”. Quả nhiên,
triều Hồ đơn độc kháng chiến nên chỉ trong vòng sáu tháng thì thất bại hồn
tồn. Thuận lịng dân, ý dân thì dẫu khơng đế đơ, khơng thành trì vẫn cứ vững

bền. Khơng thuận lịng dân, ý dân thì dẫu có xây đô, xây thành vững chắc theo
thời gian như Tây đô, Hồ Quý Ly vẫn cứ không giữ được thành, được nước. Nhớ
lại thời Trần, lúc thế giặc Nguyên Mông quá mạnh, vua tôi nhà Trần đã từng
phải bỏ Thăng Long, nhưng lịng dân cịn thì trước sau gì cũng lấy lại được.
Đến thế kỷ XV, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi có những quan niệm về
dân thể hiện rõ tư tưởng lấy dân làm gốc. Mở đầu Bình Ngơ đại cáo Người viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” [57, tr.194].
Nhân nghĩa ở đây khơng phải là lịng thương người một cách chung chung,
mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Đặc biệt,
không chỉ thương yêu dân mà còn phải biết ơn dân:“Ăn lộc đền ơn kẻ cấy
cày”. Nguyễn Trãi còn thấy rõ sức mạnh “lật thuyền”của dân. Ông chỉ ra
nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Minh là do đoàn kết được
lực lượng “Nhân dân bốn cõi một nhà”. Khi đất thanh bình, được giao nhiệm
vụ soạn nhã nhạc cho triều đình, ơng làm một bài biểu dâng vua có đoạn: “…
lịng dân chuộng hịa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc… Xin
bệ hạ yêu thương muôn dân, để cho các nơi làng xóm khơng có tiếng ốn
giận, than sầu, đó là khơng mất cái gốc của nhạc vậy” [57, tr.267-268].
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà tư tưởng ở thế kỷ XVI từng nói với vua rằng:
“Nếu vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nhà nát, xóm nghèo” (Quân
vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân). Ông khẳng
định: “Từ xưa đến nay, nước lấy dân làm gốc. Được nước nên biết là do được
lòng dân” (Cổ lai quốc dĩ dân vi bản. Đắc quốc ưng tri tại đắc dân).


23
Thế kỷ XVIII, cũng có nhiều nhà nho, nhà văn hóa có tư tưởng lấy dân
làm gốc. Lê Q Đơn trích dẫn kinh sách và khẳng định thêm về triết lý: Dân
là gốc nước, gốc vững thì nước mới yên, cứu dân tức là vì nước. Nguyễn
Thiếp (La Sơn Phu Tử) cũng có quan điểm tương tự: Dân là gốc, gốc vững
nước mới n. Ngơ Thì Nhậm lại cho rằng lịng dân quyết định ý trời: "Trời

trơng, trời nghe ở dân. Lịng dân n định thì ý trời cũng xoay chuyển...”
Sang thế kỷ XIX, triều Nguyễn Gia Long thực hiện một chính sách hết
sức mất lịng dân, làm cho dân chúng cơ cực do thuế khóa, lao dịch, mất mùa,
… Trước tình cảnh ấy, một số nhà nho có lịng yêu nước, thương dân đã lên
tiếng bênh vực nhân dân. Cao Bá Qt đau xót trước cảnh người dân vì túng
thiếu đói rét, phải đi xin ăn:
“Ngập ngừng, dù đói rét,
Không dám xin người đời.
Chỉ một xu là sống.
Áo quần rách tả tơi.
Quan quát: “Đang vụ thuế,
Mày còn bỏ đi chơi?”
Các cháu đừng trêu chọc:
Ăn mày cũng là người!” (Bài thơ Người ăn mày)
Nguyễn Đình Chiểu cũng là một nhà Nho yêu thương nhân dân, ghét kẻ
hại dân. Cái thương, cái ghét của Nguyễn Đình Chiểu cũng “đượm tình dân
và cịn ai có thể nghi ngờ lịng thương dân tha thiết của của nhà thơ thầy đồ và
thầy thuốc mù đất Đồng Nai đầy chính khí:
… Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang,
Ghét đời U Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn


24
Ghét đời Thúc Quý phân băng
Sớm đầu, tối đánh lằng nhằng dối dân [22, tr.299-300].
Cụ Phan Bội Châu, một chí sỹ yêu nước nhiệt thành đầu thế kỷ XX,

bôn ba nhiều nơi trên thế giới bộc bạch những lời tâm huyết: “Ta thương yêu
nhất là dân”. Ông cho rằng, vua phải lấy dân làm trời, dân chính là trời của
kẻ đứng đầu cai trị nước; một nước có ba điều quan trọng là nhân dân, đất
đai, chủ quyền, trong đó nhân dân đứng thứ nhất [8, tr.386]. Nói về vai trò
của nhân dân, Phan Bội Châu nhấn mạnh: “dân ta là chủ nước non”; “nước
ta hẳn là gia tài tổ nghiệp của dân ta rồi, bỏ mất nó là do dân ta, thì thu phục
lại nó tất cũng phải do dân ta làm” và “nước được cường thịnh là nhờ có
nhân dân” [8, tr.202,394].
Như vậy, tư tưởng lấy dân làm gốc là một giá trị trong văn hóa trị nước
Việt Nam, nó có từ rất sớm và gần như xuyên suốt lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Tuy nhiên, những tư tưởng này còn chịu ảnh hưởng của những quan niệm
trong Nho giáo, hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến; nên có những hạn chế
nhất định. Hồ Chí Minh là một người Việt Nam tiêu biểu, am hiểu những giá
trị truyền thống dân tộc. Người kế thừa, phát huy các giá trị đó dưới ánh sáng
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Các tư tưởng về dân nói trên là một trong những
nguồn gốc của tư tưởng Hồ chí Minh về lấy dân làm gốc.
1.2.2. Những quan điểm “thân dân” trong lịch sử nhân loại
1.2.2.1. Những giá trị tích cực trong văn hóa phương Đông
Ở phương Đông, ngay từ thời cổ đại đã có những tư tưởng rất tích cực
về dân, nhất là trong Nho giáo.
Nho giáo nhìn chung là có tư tưởng xem thường dân. Tuy nhiên ở buổi
đầu, Nho giáo nguyên thủy có những tư tưởng rất tiến bộ về dân:
Thứ nhất là thái độ quý trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của dân.
Kinh Thư, một bộ sách kinh điển của Nho giáo cho rằng: “Dân là gốc
của nước, gốc có vững thì nước mới n” (Dân duy bang bản, bản cố bang


×