Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về cách mạng giải phóngdântộc liênhệ đến việc phát huy vai trò của sinh viên trongcôngcuộcbảo vệ tổ quốc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.86 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

BÀI TẬP LỚN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LỚP: L02
NHĨM: 06
HỌC KỲ 221, NĂM HỌC 2022-2023
ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC. LIÊN
HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA SINH VIÊN TRONG CƠNG CUỘC
BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
GVGD: ThS. Phan Thị Thanh Hương
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
Họ

Tên

MSSV

Trần Hữu

Duy

1912925

Nguyễn Anh

Duy

1912891



Trầm Thị Thùy

Dương 2012891

Trần Hoàng

Duy

1912924

Trần Nguyễn Minh Duy

1910095

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ THẢO LUẬN NHĨM BTL
Mơn: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nhóm/Lớp: L02 Tên nhóm: 06
Đề tài:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC. LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY


STT

Mã số SV

Họ

Tên

Nhiệm vụ được phân cơng

Kết quả
(Nhóm tự đánh giá
mức độ đóng góp
của từng cá nhân)
100%

1

1912925

Trần Hữu

Duy

2

1912891

Nguyễn Anh


Duy

Mở đầu; Kết luận; Tổng hợp,
chỉnh sửa và định dạng
format
2.1 (2.1.1; 2.1.2)

3

2012891

Trầm Thị Thùy

Dương

2.2 (2.2.1; 2.2.2)

100%

4

1912924

Trần Hoàng

Duy

1.1; 1.2; 1.3


100%

5

1910095

Trần Nguyễn Minh

Duy

1.4; 1.5

100%

Ghi chú

100%

NHẬN XÉT,
ĐÁNH GIÁ CỦA
GIẢNG VIÊN
Họ và tên nhóm trưởng: …………..TRẦN HỮU DUY………….., Số ĐT: ......0939248311..............Email:
NHÓM TRƯỞNG
GIẢNG VIÊN
(Ký và ghi rõ họ, tên)
(Ký và ghi rõ họ, tên)
(Trần Hữu Duy)


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
1. Giới thiệu đề tài ........................................................................................................1
2. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
NỘI DUNG ...................................................................................................................... 2
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc .....................................2
1.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản .............................................................................................................. 2
1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng
lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo .......................................................................6
1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn dân
tộc, lấy liên minh công – nông làm nền tảng ..........................................................8
1.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc .................................................. 11
1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực cách mạng .........................................................................................................15
2. Liên hệ đến việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay .............................................................................................. 19
2.1. Thực trạng việc phát huy vai trị của sinh viên trong cơng cuộc bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc hiện nay ....................................................................................19
2.1.1. Ưu điểm của việc phát huy vai trị của sinh viên trong cơng cuộc
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay ..................................................... 19
2.1.2. Khuyết điểm của việc phát huy vai trò của sinh viên trong công
cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay .............................................20
2.2. Giải pháp cần thực hiện để phát huy vai trị của sinh viên trong cơng cuộc
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay ................................................................... 21
2.2.1. Giải pháp để khơng ngừng phát huy vai trị của sinh viên trong
công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay ....................................21
2.2.2. Giải pháp để khắc phục những khuyết điểm nhằm phát huy vai trò
của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay ....24
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 27

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................29


MỞ ĐẦU

1. Giới thiệu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các vấn
đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam đồng thời nó vừa là sự kết tinh giữa tinh hoa văn
hóa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện được tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Người trong việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng
thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc chiếm một
vị trí lớn trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
được Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng vào thực tiễn cách mạng nước ta để
giải quyết vấn đề dân tộc, giải phóng đất nước ra khỏi ách thống trị của bọn đế quốc
thực dân và thực hiện đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta trong thời gian qua. Hiện nay,
việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là vơ cùng quan trọng và cần thiết. Vì vậy, chúng em quyết định chọn đề tài:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Liên hệ đến việc phát huy
vai trị của sinh viên trong cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay” để tìm hiểu và nghiên
cứu.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Con đường giải phóng dân tộc của đất nước phải trải qua rất nhiều giai đoạn thăng
trầm khác nhau, có lúc “ngàn cân treo sợi tóc”. Bác là người đã tìm thấy ánh sáng,
chân lý cho con đường giải phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách áp bức, bốc lột.
Giữa các tư tưởng Hồ Chí Minh để lại thì nội dung về cách mạng giải phóng dân tộc
quả thật là một chủ đề rất lớn và đáng được tìm hiểu, giữa tình thế hệ thống chính trị
của các nước xung quanh trở nên căng thẳng, thì quả thật nội dung này càng trở nên
cấp thiết cho sinh viên trong thời đại hiện nay.
Qua đề tài này, chúng em có thể làm rõ được Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc, và vận dụng lối tư tưởng ấy vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc

hiện nay với vai trò là một sinh viên trong thời đại mới.

1


NỘI DUNG

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
1.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản
Hồ Chí Minh muốn tìm kiếm cịn đường cứu nước, giải phóng ở phương Tây.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải
chịu cảnh lầm than, Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông
cha. Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước,
rước beo cửa sau”; con đường Phan Châu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lịng
thương”, con đường của Hồng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang
nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ơng cha, nhưng Hồ
Chí Minh khơng tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con
đường cứu nước mới.
Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, mở đầu bằng cuộc tấn cơng bán
đảo Sơn Trà hay khi hồn tồn đặt ách cai trị lên tồn cõi An Nam qua hịa ước Hịa
ước Patenơtre, chúng khơng ngừng đưa ra những chính sách thâm độc, áp đặt những
đạo luật ảnh hưởng trực tiếp lên quyền sống, quyền tự do cơ bản của nhân dân ta.
Trong những năm tháng đó, đã có nhiều cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân An Nam,
nhiều phong trào giải phóng dân tộc của các nhà yêu nước đã nổ ra, nhưng tất cả đều
tiến đến một kết cục, đó là thất bại. Nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị
đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến,
có vai trị tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay
sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ

thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, khơng có khả năng lãnh đạo cuộc đấu
tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu
tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng khơng
thể vạch ra con đường giải phóng đúng đắn và khơng thể đóng vai trị lãnh đạo cách

2


mạng. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối
cứu nước.
Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân, chí
sĩ xả thân vì nước, nhưng Người khơng tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền
bối. Người cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện
cải lương chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội
Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa
sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy thực tế hơn, nhưng khơng có hướng
thốt rõ ràng, “cịn mang nặng cốt cách phong kiến” 1. Vượt qua tầm nhìn của các bậc
tiền bối thời bấy giờ, Nguyễn Tất Thành muốn tìm kiếm cịn đường cứu nước, giải
phóng ở phương Tây. Để thốt khỏi lối mịn của những Đơng Du, Đơng Kinh Nghĩa
Thục, Duy Tân, ... Người quyết định đi tìm con đường cứu lấy đồng bào ở chính các
nước thực dân. Vì thế, vào ngày 05/06/1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc trên tàu
Đô đốc Latútsơ Tơrêvin (L’Admiral Latouche Trévill), bắt đầu cuộc hành trình 30 năm
tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Trong suốt hành trình 30 năm bơn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc ấy,
Nguyễn Tất Thành đã đi qua 3 đại dương, 4 châu lục, qua gần 30 quốc gia, hàng trăm
thành phố, vượt qua muôn vàn gian khổ, chông gai và làm rất nhiều nghề để kiếm sống,
với quyết tâm cháy bỏng là tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc. Với những
chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm ròng, từ năm 1911 đến năm 1920,
Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới. Bàn
chân của người thanh niên yêu nước này đã in dấu trên nhiều nước trải dài trên khắp

các châu lục, từ châu Âu, châu Á đến châu Phi, châu Mỹ. Đặc biệt ở 3 nước là Mỹ,
Anh và Pháp, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân khảo sát khá lâu, Người hịa mình vào
cuộc sống của những người lao động, làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động, như:
phụ bếp, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh, làm vườn, vẽ thuê... Trên cơ sở đó Nguyễn Tất
Thành rút ra một kết luận có tính chất nền tảng đầu tiên: Ở đâu đế quốc, thực dân cũng
tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức, hay ngắn gọn
1

Hồ Chí Minh (1996), Tồn tập, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.314.

3


hơn là “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột”1. Người nhìn thấy mặt tối của xã hội phương Tây, rằng
“ở đâu cũng có người nghèo khổ như xứ sở mình” do ách áp bức, bóc lột dã man, vơ
nhân đạo của bọn thống trị. Nguyễn Tất Thành đã có một nhận thức quan trọng: Cách
mạng tư sản là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng là những cuộc cách mạng chưa
đến nơi. Nó đã phá tan gông xiềng phong kiến cùng những luật lệ hà khắc và những
ràng buộc vơ lý để giải phóng sức lao động của con người. Cách mạng tư sản xây dựng
lên một chế độ mới tiến bộ hơn xã hội phong kiến. Nhưng cách mạng xong rồi dân
chúng vẫn khổ, vẫn bị áp bức, bóc lột và vẫn mưu toan làm cách mạng. Từ đó, Người
đi đến kết luận: “chúng ta đổ xương máu để làm cách mạng thì không đi theo con
đường cách mạng này”2.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành cơng đã có ảnh hưởng rất lớn đến
tình cảm và nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Nói về sự kiện này, người đánh giá
“Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, khơng phải
tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”3.
Thành công đến nơi ở đây khác biệt hoàn toàn với sự nửa vời của cách mạng tư sản,

khi số phận những người cơng nhân, nơng dân chính quốc vẫn sống trong cảnh bần
hàn, người dân các nước thuộc địa vẫn bị áp bức bóc lột về cả thể chất lẫn tinh thần.
Khi so sánh với nước Nga sau cách mạng Tháng Mười, những lời hứa về tự do, hạnh
phúc của các nước tư sản khơng khác gì những trị bịp bợm.
Vào tháng 07/1920, sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề
dân tộc và 10/24/2022 thuộc địa” của Lênin đăng trên Báo L’Humanite (Báo Nhân
đạo) của Đảng Xã hội Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành
độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và
mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vơ sản ở
chính quốc. Trong thời điểm lịch sử ấy, Người cảm thấy “rất cảm động, phấn khởi,
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.461.
Trần Dân Tiên (1994), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia,
tr.12.
3
Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.274.
1
2

4


sáng tỏ”, “vui mừng đến phát khóc lên”. Đó là cảm xúc chân thật của một người yêu
nước thương nòi khi tìm ra con đường dẫn đến độc lập tự do cho dân tộc. Cuối tháng
12/1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, đánh dấu bước
ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, đồng thời cũng đánh dấu
một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá trình kết hợp đấu
tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh
thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã quyết định đi theo con đường của Lênin vĩ

đại. Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”1. Với việc xác định con đường đó, Nguyễn Ái
Quốc mở đường để giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước Việt
Nam đầu thế kỷ XX, đồng thời khởi động tiến trình đưa cách mạng Việt Nam hội nhập
vào trào lưu cách mạng thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
C.Mác và V.I.Lê-nin ln địi hỏi phải tiếp tục phát triển lý luận trong những điều
kiện lịch sử mới. Hồ Chí Minh tiếp thu bản chất cách mạng, khoa học và tính nhân văn
cao cả của học thuyết cách mạng vô sản nhằm giải phóng triệt để con người khỏi mọi
sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I. Lê-nin bàn
nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh dành sự quan tâm
đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Trong điều kiện xã hội thuộc
địa, Người không nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Độc lập, tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt
Nam mất nước. Trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc
thuộc địa chính là vấn đề độc lập dân tộc. Người sắp xếp lại thứ tự con đường cách
mạng vô sản phù hợp với nước ta là: giải phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải
phóng giai cấp – giải phóng con người.
Đi theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng (tức cách
mạng giải phóng dân tộc) và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Người giải
1

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289.
5


thích trong Chánh cương vắn tắt của Đảng: cách mạng tư sản dân quyền trước hết là
đánh đổ đế quốc và phong kiến, làm cho nước ta hoàn toàn độc lập. Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động

thực tiễn của Hồ Chí Minh, thể hiện một cách tập trung những luận điểm sáng tạo lớn
về lý luận của Hồ Chí Minh, là sự phản ánh mục đích, lý tưởng, khát vọng và ham
muốn tột bậc của Người: nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh kết hợp
nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, xây dựng lý luận cách mạng giải
phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản, giải quyết thành công mối
quan hệ giữa đất nước và thời đại, giữa dân tộc và quốc tế.
1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Người khẳng định vai trò to lớn của Đảng đối với cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường Cách mạng vơ sản.
Nguyễn Ái Quốc phân tích: “Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kì lớn bé, bất kỳ khó
dễ, nếu khơng ra sức thì chắc khơng thành cơng…việc giải phóng gơng cùm nơ lệ cho
đồng bào, cho nhân loại” là “việc to tát” nên phải cố gắng sức. “Việc gì khó cho mấy,
quyết tâm làm thì chắc được, ít người làm khơng nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực
mà làm thì phải nổi. Đời này chưa làm xong thì đời sau nối theo làm thì phải xong”.
Muốn làm cách mạng thì phải bền gan, đồng chí, đồng lịng và quyết tâm, “lai phải
biết cách làm thì mới chóng”. Qua đó cho thấy được rằng Đảng Cộng sản vừa là đội
tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động, kiên
quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”1.
Kết hợp lý luận Mác – Lênin về Đảng Cộng sản với thực tiễn cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trên một
1

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289.

6


loạt vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng nên một lý luận giải phóng dân
tộc. Lý luận đó khơng chỉ được truyền bá trong phong trào công nhân, mà cả trong
phong trào yêu nước, giải quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự chuẩn bị
những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng cách
mạng Việt Nam, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân là quy luật chung
cho sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới. Nhưng sự kết hợp đó khơng theo
một khn mẫu giáo điều, cứng nhắc. Điều đó địi hỏi sự vận dụng và phát triển sáng
tạo lý luận Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản trong điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã đặt câu hỏi cho vấn đề cần thiết trước hết của cách mạng, và câu trả
lời nằm ở đảng cách mệnh. Đảng cách mệnh theo ý của Người có mục đích vừa vận
động quần chúng nhân dân, vừa kêu gọi các dân tộc bị áp bức, giai cấp vô sản ở mọi
nơi. Người khẳng định rằng: “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng”1. Quả thật
vậy, muốn cách mạng thành cơng cần có một đảng lãnh đạo vững mạnh. Xuyên suốt
lịch sử loài người, những cuộc cách mạng thành cơng đều có một lực lượng lãnh đạo
sáng suốt và kêu gọi được quần chúng nhân dân, đơn cử là Cách mạng tháng Mười dẫn
đến sự ra đời của nước Nga Xơ viết cần có Đảng Bolshevik (do lãnh tụ V.I. Lênin
thành lập, được đông đảo quần chúng Nga tin tưởng, tham gia) lãnh đạo.
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen nêu rõ: “Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là
một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”2.
Theo đó, giai cấp vô sản cần phát triển, vươn lên để đại diện cho cả dân tộc, lãnh đạo
cuộc đấu tranh của đất nước, dân tộc đi đến thành công. Phát triển sáng tạo học thuyết
Mác - Lê-nin về Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là
đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là đảng của dân tộc Việt Nam. Các văn kiện của
Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định: “Đảng là Đội
tiên phong của vô sản giai cấp”3, song Đảng không chỉ là của riêng giai cấp cơng nhân,

mà của tồn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), Hồ Chí Minh
phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp cơng nhân và nhân dân
Hồ Chí Minh (1996), Tồn tập, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.314.
C.Mác, & Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 526-527.
3
Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.3.
1
2

7


lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”1.
Năm 1953, Hồ Chí Minh nhắc lại, Đảng Lao động Việt Nam là “Đảng của giai
cấp lao động, mà cũng là Đảng của toàn dân”2. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc
đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định thêm một lần nữa: “Đảng ta là Đảng của
giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”3. Luận điểm xuyên
suốt tư tưởng của Người có ý nghĩa quan trọng, góp phần bổ sung phát triển lý luận
Mác xít về đảng cộng sản.
Chủ nghĩa Mác Lênin và con đường cách mạng vô sản qua sự tun truyền của Hồ
Chí Minh được đơng đảo quần chúng đón nhận. Như một sự tất yếu, Đông Dương
Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn lần lượt
được thành lập. Thay mặt cho Quốc tế Cộng sản, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng
02/1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai
cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX. Đó là một mốc
lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh,

đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành,
đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng
và sức mạnh của tồn bộ giai cấp cơng nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc
điểm, đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã
nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng
đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng.
1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đồn kết tồn dân tộc,
lấy liên minh cơng – nông làm nền tảng
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.41.
Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.276.
3
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.275.
1
2

8


“lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là có
tất cả”, “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi cịn
hoạt động ở nước ngồi, Hồ Chí Minh nói: “Đối với tơi, câu trả lời rõ ràng: trở về
nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huần luyện họ, đưa họ
ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Qua đó thấy được Hồ Chí Minh đánh giá rất cao
vai trị của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang, Người coi sức mạnh vĩ đại
và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là nhân tố then chốt bảo đảm thắng lợi.
Người khẳng định: “Dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ổng nào cũng khơng chống
lại nổi”. “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt

được”. “Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”.
Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản Pháp, từ một xã hội phong kiến thuần túy,
Việt Nam biến thành một xã hội thuộc địa với những tàn tích phong kiến nặng nề. Mặc
dù thực dân Pháp cịn duy trì một phần quan hệ kinh tế và giai cấp địa chủ, phong kiến,
song khi đã thành một chế độ thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Ngồi
giai cấp cơng nhân và nơng dân, giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa và
nhỏ mặc dù có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong quan
hệ với thực dân Pháp thì họ cũng là những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước.
Đó khơng phải là những giai cấp thống trị, mà trái lại, họ là những giai cấp bị trị và có
khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách
mạng bao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp
đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm
cách mạng ruộng đất; lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng…đi vào phe vô sản; đối
với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng
thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Trong lực lượng tồn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trị động lực
cách mạng của cơng nhân và nơng dân. Người phân tích: các giai cấp cơng nhân và
nơng dân có số lượng đơng nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột

9


nặng nề nhất, nên “lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…công nông
là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế
giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó, Người khẳng định: cơng nơng “là gốc cách mệnh”.
Khẳng định vai trị động lực cách mạng của cơng nhân và nông dân là một vấn đề hết
sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó.

Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trị của cơng nhân và nơng dân, Hồ Chí Minh
khơng coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng
lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn
đồng minh của cách mạng. Người chỉ rõ: “…học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng
bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách
mệnh của cơng nơng thơi”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng hợp
thành trong hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Nghiên cứu tồn bộ di cảo của Người có thể nhận thấy cụm từ “đoàn kết” được
Người nhắc tới hơn hai ngàn lần và cụm từ “đại đoàn kết” được Người nhắc tới hơn
tám mươi lần, điều đó nói lên sự quan tâm đối với vấn đề đoàn kết ở mọi điều kiện,
mọi hoàn cảnh của lịch sử, đồng thời tỏ rõ tầm chiến lược tư tưởng đồn kết của
Người. Hồ Chí Minh nói nhiều tới đồn kết, đại đồn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy
nhất Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái
nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các
tầng lớp nhân dân khác”1. Như vậy, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là đại đồn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất
nước, đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước
hay định cư ở nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu
chung và những lợi ích căn bản. Có thể nói đồn kết dân tộc vừa là điều kiện tiên
quyết, sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đồng thời là tôn chỉ, mục đích, là nhiệm
vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách mạng cần hướng và đạt tới.

1

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.244.
10



Khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Người không quên lưu ý rằng:
“Công nông là chủ cách mệnh... là gốc cách mệnh”1. Bởi Đảng cộng sản lãnh đạo là
tinh hoa của lực lượng công nhân, và nhân dân lao động chiếm số lượng đông đảo
trong lực lượng quần chúng lúc bấy giờ. Đáng chú ý hơn, lực lượng công nông là bộ
phận bị áp bức nhiều nhất, bóc lột nặng nề nhất, từ đó rèn cho họ ý chí cách mạng sắt
đá. Người giải thích thêm “Lịng cách mệnh càng bền, chí Cách mạng càng quyết...
cơng nơng là tay chân rồi, nếu thua chỉ mất một cái kiếp khổ, nêu được thì được cả thế
giới, cho nên họ gan góc”2. Đúng như câu tục ngữ “con giun xéo lắm cũng quằn”,
những người nông dân, công nhân hiện đang ở bên bờ vực, họ bắt buộc phải chống cự
lại quân áp bức để giành lại sự tự do, giành lại quyền con người. Những kiếp người
cày thay trâu, làm phân bón cho đồn điền cơng nghiệp khơng cịn gì để mất, họ có thể
đánh đổi mạng sống của họ cho một cơ hội mà thế hệ sau này khơng cịn chịu cảnh bị
bóc lột, áp bức...
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln có sự kết hợp hài hịa, quyện chặt và nhất quán
giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo chủ trương “dựng ra chính phủ cơng
nơng binh”. Đó là hình thức chính quyền của đơng đảo quần chúng lao động bị áp bức
vùng dậy đấu tranh vì độc lập, tự do. Tuy nhiên, lực lượng của cách mạng giải phóng
dân tộc bao gồm tồn dân tộc. Vì thế, cần có một hình thức chính quyền rộng rãi hơn,
chủ yếu là cơng nơng, nhưng khơng đơn thuần chỉ có cơng nơng. Mơ hình chính quyền
nhà nước phải được xây dựng dựa trên nền tảng mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi,
dựa trên cơ sở liên minh công nhân, nơng dân và trí thức, phù hợp với lực lượng và
tính chất của cách mạng ở thuộc địa.
Tóm lại, để cách mạng thành cơng, để đất nước thốt khỏi ách đơ hộ, cách mạng
cần dựa vào sức mạnh đồn kết tồn dân, trong đó liên minh cơng - nơng làm nịng cốt.
1.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
Đối với cách mạng ở các quốc gia bị xâm lược, Quốc tế Cộng sản có ảnh hưởng
và đóng góp vơ cùng quan trọng. Tuy nhiên, do chưa nhìn nhận thấu đáo và đầy đủ

tiềm lực và vai trò của cách mạng ở các nước thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã từng có
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.288.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.288.
11


quan điểm xem nhẹ, không đánh giá cao phong trào cách mạng ở những nước này. Từ
đó, Quốc tế Cộng sản tin rằng: cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách
mạng vơ sản ở chính quốc.
Cụ thể là vào Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (năm 1928) đã thông qua Đề cương về
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, trong đó có đoạn viết
rằng: “Chỉ có thể thực hiện hồn tồn cơng cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp
vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Chính quan điểm này, vơ
hình chung, đã tạo nên định kiến rằng: các nước bị xâm lược khơng thể đấu tranh để tự
giải phóng mình; mà bị phụ thuộc và gị bó bởi cách mạng vơ sản ở nước chính quốc.
Điều này cũng vơ tình làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân dân thuộc địa,
mặc dù cho họ hồn tồn có đủ khả năng để đấu tranh, làm cách mạng để tự giải phóng
khỏi xiềng xích của sự nơ lệ.
Lấy ví dụ ở Việt Nam ta, khi thực dân Pháp bắt đầu quá trình xâm lược, đông đảo
nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu đứng lên chống thực dân
Pháp. Từ phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do
giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của
Phan Đình Phùng (năm 1896), đến phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ
tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo, tuy các phong trào đó đã
lần lượt thất bại do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết,
nhưng đã cho thấy ở nhân dân ta một truyền thống yêu nước nồng nàng, một sự khát
khao cho một nền độc lập của dân tộc, một tinh thần quả cảm sẵn sàng hi sinh thân

mình để giết giặc, cứu nước. Thế nên, chỉ cần ta có thể giải quyết được sự khủng
hoảng trong đường lối lãnh đạo cách mạng, tận dụng hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế,
thì với các phẩm chất tốt đẹp của nhân dân, thì rõ ràng nước ta hồn tồn có thể tự chủ
động, sáng tạo đấu tranh và giành lấy độc lập khỏi tay của bọn thực dân Pháp trước cả
khi cách mạng vô sản ở Pháp giành thắng lợi. Và thực tế đã chứng minh. điều này là
đúng.
Với Hồ Chí Minh, sau khi đã tiếp thu và quán triệt được tư tưởng của Lênin về
mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vơ sản ở
chính quốc, từ rất sớm Người đã nhận định rằng: giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở

12


thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ khơng phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính phụ.
Năm 1924, tại Đại hội V của Quốc tế Cộng sản, Người nói: “Vận mệnh của giai
cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”1. Qua
câu nói này, ta thấy rằng Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trị quan trọng và vị trí chiến
lược của cách mạng thuộc địa.
Năm 1925, trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Người viết: “Chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác
bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vịi kia vẫn tiếp
tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ
mọc ra”2. Ở đây, bằng cách ví chủ nghĩa tư bản như “một con đỉa”, Nguyễn Ái Quốc
đã thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết giữ thuộc địa và chính quốc. Đồng thời,
Người cũng đề cao vai trò trọng yếu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn

đằng đuôi”.
Là một người dân của một nước đang bị xâm lược và là một người đã nghiên cứu
rất kỹ về chủ nghĩa đế quốc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng giải phóng thuộc
địa có thể thành cơng trước cách mạng vơ sản ở chính quốc. Từ năm 1921, Người đã
viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt
bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một
lực lượng khổng lồ và qua việc thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ
nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, sẽ có thể giúp cho những người anh em của họ ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”3. Người cịn nêu rõ: Những người

Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.273.
Hồ Chí Minh (2002), Tồn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.295.
3
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.48.
1
2

13


cách mạng ở thuộc địa cần chủ động tạo ra thời cơ: “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải
thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến!”1.
Luận điểm đó của Người xác định rõ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam không thể ngồi chờ, khơng ỷ lại vào cách mạng ở “chính quốc”.
Luận điểm này đến năm 1924 được nâng lên một tầm mới: đó là cách mạng ở thuộc
địa cần phải tiến hành trước cách mạng giải phóng giai cấp ở chính quốc. Cụ thể hơn,
tại tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản Người phát biểu: “Vận mệnh của giai cấp
vô sản thế giới phụ thuộc phần lớn vào các thuộc địa, nơi cung cấp lương thực và binh
lính cho các nước lớn đế quốc chủ nghĩa. Nếu chúng ta muốn đánh bại các nước này
thì trước hết phải tước hết thuộc địa của chúng đi”2.

Nhìn vào thực tế, khi thực dân Pháp xâm lược và cơ bản đã bình định nước ta,
chúng đã đẩy mạnh quá trình khai thác thuộc địa của mình: bằng cách tiến hành cướp
bóc tài nguyên, khoáng sản mang về mẫu quốc; thi hành các chính sách ngu dân; ra
sức trấn áp, bốc lột tàn bạo nhân dân ta…. Vì vậy, điều này đã làm nổi lên lòng nhân
dân ta một lòng yêu nước nồng nàng, một lòng căm thù giặc, và một tinh thần không
ngại gian khổ, hi sinh xương máu để đấu tranh chống quân xâm lược. Cụ thể hơn, khi
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước
đã anh dũng chiến đấu đứng lên chống thực dân Pháp, từ phong trào Cần Vương phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo, đến
phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh lãnh đạo.
Tuy các phong trào này lần lượt thất bại do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ
chức và lực lượng cần thiết, nhưng đã cho thấy ở nhân dân ta một truyền thống yêu
nước nồng nàng, một sự khát khao cho một nền độc lập của dân tộc, một tinh thần quả
cảm sẵn sàng hi sinh thân mình để giết giặc, cứu nước. Thế nên, Việt Nam, nếu tận
dụng được các lợi thế nội tại trong nước, giải quyết được sự khủng hoảng trong đường
lối lãnh đạo cách mạng, tận dụng hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, thì rõ rằng nước ta
hồn tồn có thể tự chủ động, sáng tạo đấu tranh và giành lấy độc lập khỏi tay của bọn

1
2

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.40.
Tạp chí La Correspondance internationnale (1924), số 41.
14


thực dân Pháp trước cả khi cách mạng vô sản ở Pháp giành thắng lợi. Và thực tế đã
chứng minh. điều này là đúng.
Những luận điểm trên đây của Nguyễn Ái Quốc đã nói lên tính chủ động, tích cực
của phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Luận điểm đó rõ ràng là khác với

quan điểm của một số đông lúc bấy giờ, khi cho rằng cách mạng ở thuộc địa chỉ được
giải quyết sau khi giai cấp vơ sản ở “chính quốc” giành được chính quyền. Đây là một
luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng
của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được thắng lợi
của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên tồn thế giới trong gần một thế kỷ
qua chứng minh là hoàn tồn đúng đắn.
1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực
cách mạng
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đã đặt nền móng cho học thuyết của giai
cấp vô sản về chiến tranh và quân đội. Qua quá trình nghiên cứu các cuộc cách mạng
xã hội, Mác và Ăngghen khẳng định vai trò của bạo lực khi nó phục vụ cho mục đích
cải tạo xã hội bằng cách mạng và do giai cấp tiên tiến sử dụng để khắc phục sự chống
đối của lực lượng phản động. Trong bộ Tư bản, quyển I, tập thứ nhất, xuất bản lần đầu
tiên năm 1867, C.Mác đã từng khẳng định: Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội mới
đang thai nghén trong lòng xã hội cũ vì giai cấp thống trị, bóc lột khơng bao giờ tự
giao chính quyền cho lực lượng cách mạng. Trong khi đó, đối với Ph. Ăngghen, trong
tác phẩm Chống Đuyrinh, ơng khẳng định: “Bạo lực cịn đóng vai trị khác trong lịch
sử, vai trị cách mạng; nói theo Mác, bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai
nghén trong một xã hội mới; bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở
đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”1. Từ
quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen, ta thấy rằng: bạo lực khơng phải là mục đích
của giai cấp vơ sản mà là phương tiện của giai cấp vô sản. Giai cấp cơng nhân là giai
cấp có sứ mệnh lịch sử xây dựng xã hội mới tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng
với nhiều hình thức khác nhau kể cả hình thức vũ trang nhằm thiết lập chính quyền của
giai cấp vô sản và thủ tiêu chế độ tư bản. Đó là cách mạng vơ sản, cách mạng vơ sản ở

1

C.Mác, & Ph.Ăngghen (2004), Tồn tập, tập 7, Nxb, Chính trị quốc gia, tr.259.
15



thuộc địa phải gắn liền với cách mạng chính quốc và phải tiến hành bằng con đường
bạo lực.
Dựa trên kinh nghiệm của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, V.I Lênin cũng
khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng, đồng thời làm sáng tỏ hơn vấn đề bạo
lực cách mạng trong học thuyết cách mạng vơ sản: khơng có bạo lực cách mạng thì
khơng thể thay thế nhà nước tư bản bằng nhà nước vô sản dược.
Các thế lực đế quốc và thực dân khi đi xâm lược và thống trị thuộc địa, chúng ra
sức đàn áp dã man, “tắm máu” các phong trào yêu nước ở các nước thuộc địa. Chế độ
thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu.
Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hồn tồn. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất này của chế độ thực dân: “Chế độ thực
dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”1.
Thực tiễn ở nước ta đã minh chứng điều đó, năm 1858, thực dân Pháp đã dùng bạo lực
phản cách mạng để xâm lược nước ta, chúng dùng quân đội - “một công cụ to dùng để
áp bức” với hạm đội, tàu chiến, binh lính tinh nhuệ và các loại vũ khí hiện đại thời bấy
giờ để uy hiếp, xâm lược một triều đình phong kiến với vài khẩu súng thần cơng và
những anh lính khố. Sau khi chiếm được nước ta, chúng tiếp tục dùng bạo lực phản
cách mạng để bóc lột nhân dân ta tới tận xương tủy, không những thế chúng còn đàn
áp đẫm máu những phong trào đấu tranh của nhân dân ta dù cho đó có là đấu tranh
theo phương pháp hịa bình hay dấy binh khởi nghĩa. Bác đã nhận rõ bản chất của bọn
xâm lược, “lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết khơng chừa. Càng gần thất bại thì
chúng càng hung ác”2. Trong bản Tuyên ngôn độc lập Bác đã từng chỉ rõ: “Ngày 9
tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ
chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại,
trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho Nhật. Trước ngày mồng 9 tháng 3,
biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân
Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi
thua chạy, chúng cịn nhẫn tâm giết nốt số đơng tù chính trị ở n Bái và Cao Bằng”3.

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.96.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.135.
3
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.556.
1
2

16


Cho nên Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy,
trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về bạo lực cách mạng
và tình hình thực tế ở nước ta, Hồ Chí Minh xác định phương pháp đấu tranh giải
phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực,
kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi
nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Đây là quan điểm
mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đã được thể hiện trong Khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí
Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng, “dùng bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền”1. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh
vũ trang, nhưng phải “tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh
cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang
và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”.
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí
quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu
quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang khơng tách biệt với đấu
tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đồn thể cách mạng càng phát triển, quần
chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng

vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
Tuy đề cao vai trị của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh khơng tuyệt đối
hóa vai trị của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với người
đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị
của cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi về nước chuẩn bị cho cơng tác giành chính
quyền. Tháng 12 năm 1944, sau khi nghiên cứu kỹ tình hình cách mạng trong nước và
trên thế giới, Bác ra chỉ thị thành lập đội “Việt Nam tun truyền giải phóng qn”.
Với lời căn dặn: “Chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”,
“người trước, súng sau”. Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tun truyền giải phóng qn
1

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 304.
17



×