Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Dân chủ xã hội chủ nghĩa và vấn đề phát huy dân chủ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.76 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

MÃ ĐỀ:08

TIỂU LUẬN MÔN

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Tên đề tài: Dân chủ xã hội chủ nghĩa và vấn đề phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Họ và tên:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hà Nội, .../2022


A. MỞ ĐẦU ........................................................................................ 1
B. NỘI DUNG .................................................................................... 2
Cơ sở lý luận ................................................................................................... 2

I.
1.

Sự ra đời, phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2

2.


Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................... 3

II.

VẬN DỤNG ...................................................................................................... 6
1.

vai trò của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta .................. 6

2.

Thực trạng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta .................. 8
a.

thành tựu ..................................................................................................... 8

b. hạn chế ...................................................................................................... 12
3. Các giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay. 13

C. KẾT LUẬN .................................................................................. 15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 16


A. MỞ ĐẦU
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin thì động lực của quá trình phát
triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ. Dân chủ phải được
mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để nhân dân tham

gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý và phát triển xã hội. “với việc phát
triển dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân
thang gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi việc quản lý nhà nước.
Như vậy, thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một yêu cầu khách quan,
một động lực của sự nghiệp xây dụng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể có được bằng phương pháp thực hành dân chủ một cách rộng rãi trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. “ Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc
lệnh từ trên ban xuống... chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản
thân quần chúng nhân dân”. Thực hành dân chủ rộng rãi trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội cũng chính là q trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một
nền dân chủ mới đảm bảo cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là qui luật của sự hình thành và tự hồn thiện của hệ
thống chun chính vơ sản, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực, của công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội.

1


B. NỘI DUNG
I.

Cơ sở lý luận
1. Sự ra đời, phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ
trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sân, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác – Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp và
giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hồn thiện nhất, do đó, tất yếu xuất hiện
một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ và

sản hay còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phối thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở
Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới
(1917), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ.
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Trong đó, có sự kế thừa những giá trị của nền dân
chủ trước đó, đồng thời bố sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nền dân chủ
mới.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: Giai cấp vô sản khơng thể hồn thành cuộc cáchMạng
xã hội chủ nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó
Thơng qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. Rằng, chủ nghĩa xã hội khơng thể duy
trì và thắng lợi, nếu khơng thực hiện đầy đủ dân chủ.
Q trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền dân
chủ trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân xã
hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho
những người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Cảng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng
tự tiêu vòng bấy nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong này theo V.LLênin, đó là tỉnh
chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với
nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham
gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà
nước, quản lý xã hội (xã hội tự quân), Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một
thói quen, một tập quán trong sinh hoạt xã hội... để đến lúc nó khơng cịn tồn tại
như một thế chế nhà nước, một chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó.

2



Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài, khi xã
hội đã đạt trình độ phát triển rất cao, xã hội khơng cịn sự phân chia giai cấp, đó là
xã hội cộng sản chủ nghĩa đạt tới mức độ hồn thiện, khi đó dân chủ xã hội chủ
nghĩa với tư cách là một chế độ nhà nước cũng tiêu vong, khơng cịn nữa. Từ những
phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn
về chất so với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và pháp luật nằm
trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cũng cần lưu ý rằng, cho đến
nay, sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chỉ trong một thời gian ngắn,
ở một số nước có xuất phát điểm về kinh tế, xã hội rất thấp, lại thường xuyên bị
kẻ thủ tấn công, gây chiến tranh, do vậy, mức độ dân chủ đạt được ở những nước
này hiện nay còn nhiều hạn chế ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngược
lại, sự ra đời, phát triển của nền dân chủ tư sản có thời gian củ mấy trăm năm, lại
ở hầu hết các nước phát triển (do điều kiện khách quan, chủ quan). Hơn nữa, trong
thời gian qua, để tồn tại và thích nghỉ, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều lần điều chỉnh
về xã hội, trong đó quyền con người đã được quan tâm ở một mức độ nhất định
(tuy nhiên, bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi). Nền dân chủ tư sẵn có
nhiều tiến bộ, song nó vẫn bị hạn chế bởi bản chất của chủ nghĩa tư bản. Để chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự quyền lực thuộc về nhân dân, ngồi yếu tố giai
cấp cơng nhân lãnh đạo thơng qua Đảng Cộng sản (mặc dù là yếu tố quan trọng
nhất), địi hỏi cần nhiều yếu tố như trình độ dân trí, xã hội cơng dân, việc tạo dựng
cơ chế pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước và quyền
tham gia vào các quyết sách của nhà nước, điều kiện vật chất để thực thi dân chủ.
2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Như mọi loại hình dân chủ khác, dân chủ vô sản, theo VILênin, không phải là
chế độ dân chủ cho tất cả mọi người nó chỉ là dân chủ đối với quần chúng lao động
và bị bóc lột, dân chủ vơ sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số. Rằng, dân
chủ trang chủ nghĩa xã hội bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó,

dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở, dân chủ đó càng hoàn thiện bao nhiêu, cùng
nhanh tới ngày tiêu vong bấy nhiều. Dân chủ vô sản loại bỏ quyền dân chủ của tất
cả các giai cấp là đối tượng của nhà nước vơ sản, nó đưa quảng đại quần chúng
nhân dân lên địa vị của người chủ chân chính của xã hội.
Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân chủ xã
hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:
Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công
nhân (đảng Mắc – Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của

3


nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thỏa mãn ngày
càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua đăng của nó đối
với tồn xã hội, nhưng khơng phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho
giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của tồn thể
nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do đảng
Cộng sản lãnh đạo – yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân, bởi vì, đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính
nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thơng qua đảng Cộng
sản đối với tồn xã hội về mọi mặt V.LLênin gọi là sự thống trị chính trị.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là những người làm chủ
những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia
vào bộ máy chính quyển từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến
xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước.
Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân chính
là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị. VILênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ

xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ của đại đa số dân cư, của những người lao động
bị bộc lột, là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc Nhà
nước. Với ý nghĩa đỏ, V.L.Lenin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục
tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ
tư sản”.
Bản về quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, Hồ Chí Minh cũng
đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là
của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân”... Chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa do đó về thực chất là của
nhân dân, do nhân dân và vị nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với
các cuộc cách mạng xã hội trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đơng,
vì lợi ích của số đơng nhân dân. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hịa (1946) theo Hồ Chí Minh là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do
lựa chọn những người có thể, có đức để gánh vác công việc nhà nước, “... hễ là
người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là cơng dân thì đều có
quyền đi bầu cử. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước
chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp
cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp

4


(giai cấp công nhân và giai cấp từ sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên,
một đảng hay nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và nhà nước pháp quyển tư sản). Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã
hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa
học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và

tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy
đủ qua một quá trình ổn định chính trị. phát triển sản xuất và nâng cao đời sống
của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin và quản lý, hướng dẫn,
giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh
doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của người lao động là động
lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Bản chất kinh tế của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế của các chế độ tư hữu,
áp bức, bóc lột, bất cơng, nhưng cũng như tồn bộ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nó
khơng hình thành từ "hư vơ" theo mong muốn của bất kỳ ai. Kinh tế xã hội chủ
nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch
sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm... của các chế độ
kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột bất công... đối với đa số
nhân dân. Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là thực hiện chế độ căng hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện
chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu. Bản chất tư tưởng - văn
hóa - xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mãc - Lênin - hệ tư
tưởng của giai cấp công nhận, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác
trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền
thống dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội...
mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc... Trong nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hố tinh thần; được nâng cao
trình độ văn hố, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dẫn chủ là
một thành tựu văn hoả, một q trình sáng tạo văn hố, thể hiện khát vọng tự do
được sáng tạo và phát triển của con người. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có
sự kết hợp hài hịa về lợi ích giữa có cá nhân, tập thể và lợi ích của tồn xã hội.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo,
tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu
được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động

tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ
xã hội chủ nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo

5


duy nhất của Đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa nó vào quần chúng. Đảng mang lại cho
phong trào quần chủng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình, Đảng nâng cao trình
độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có khả năng
thực hiện hữu hiệu những yêu cầu dân chủ phản ảnh đúng quy luật phát triển xã hội.
Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống
lại mọi mưu đồ lại dụng dân chủ vì những động cơ đi ngược lại lợi ích của nhân
dân.
Với những ý nghĩa như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất nguyên về chính
trị, bảo đảm vai trị lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ nhau mà
ngược lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa
ra đời, tồn tại và phát triển.

II.

VẬN DỤNG
1. vai trò của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Để phát huy vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa cơ sở trong bối cảnh hiện
nay ở nước ta có một số điểm cần được nhìn nhận đầy đủ và chính xác, cụ thể
như sau:
Một là, nước ta hiện nay đang trong q trình xây dựng và từng bước hồn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, một số thành tố tạo nên dân chủ cơ

sở còn thiếu hoặc chỉ mới hình thành. Ví dụ, các quyền của người dân là nền tảng
của dân chủ cơ sở cần được tiếp tục xác định cụ thể hơn và được nuôi dưỡng để
ăn sâu bám rễ vào đời sống cộng đồng. Chẳng hạn, người dân có quyền khiếu nại,
tố cáo nhưng cần hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và giải quyết như thế nào để có thể
mang lại hiệu quả cao hơn? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm khi quyền lợi chính đáng
của người dân bị vi phạm, khi những hạn chế của cơ chế nhiệm kỳ trong quản lý
lâu nay vẫn tồn tại và nguyên tắc liên tục trong điều hành khơng được tn thủ
nghiêm túc? Chưa có cơ chế bảo vệ những người đứng ra tố cáo. Chưa có nghên
cứu thấu đáo về quyền của người dân trực tiếp lựa chọn và loại bỏ người đại diện
nếu khơng cịn xứng đáng… Đây là những vấn đề cần phải được giải quyết thấu
đáo trong quá trình xây dựng và phát triển dân chủ cơ sở.
Hai là, bối cảnh hiện nay của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói
chung, trong đó có dân chủ cơ sở, là thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc
cách mạng khoa học 4.0 đang phát triển mạnh mẽ. Trong “thế giới phẳng”, cần có
biện pháp hữu hiệu để giúp người dân nhận rõ sự chân thực và giả dối trước các
luồng tư tưởng dân chủ đang lan truyền mạnh mẽ và nhanh chóng. Sẽ có những
luồng tư tưởng khác nhau về dân chủ thâm nhập vào đời sống xã hội như một quy
luật của sự giao thoa do quá trình hội nhập quốc tế và sự phát triển của khoa học

6


công nghệ. Thông tin sẽ đa dạng hơn, kể cả những thông tin về các xu hướng dân
chủ khác nhau trên thế giới. Muốn có được một nền dân chủ như mong đợi cần
phải thay đổi cơ bản từ cách tuyên truyền, giáo dục đến thể chế và hành động.
Nếu chỉ có các khẩu hiệu mang tính hơ hào mà thiếu đi những hành động gương
mẫu thì đó khơng phải là cách làm hiệu quả phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng và
phát triển dân chủ cơ sở. Ví dụ: một vụ bắt người sai hay xử oan người dân, đến
khi tổ chức xin lỗi mà chỉ thực hiện chiếu lệ, hình thức thì dễ phản tác dụng, khó
làm cho dân tin là mình thực sự có quyền và được nền dân chủ bảo vệ.

Ba là, hiện nay nước ta đang xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong sự
vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị
trường không phải là một ý thức hệ mà là một hệ thống các tập tục và thiết chế
đã được hình thành trong thực tế của các nước phát triển và được kiểm nghiệm qua
thời gian với mục tiêu tạo cho mọi cá nhân và xã hội có thể có đời sống phát
triển về phương diện kinh tế. Về bản chất, các nền kinh tế thị trường đều phi tập
trung, linh hoạt, thực tế, đồng thời có nhiều điểm trong đó có thể thay đổi được.
Các đặc tính xác định chủ yếu của một nền kinh tế thị trường là quyết định đầu tư
và phân bổ lợi ích trong chuỗi giá trị chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường.
Dù các chính phủ đều có sự điều chỉnh ở mức độ khác nhau thì thị trường vẫn
được điều tiết bởi một “bàn tay vơ hình” và thường mang tính thực tế. Từ những
đặc điểm nói trên trong bối cảnh hiện nay, vai trò của dân chủ cơ sở trong phát
triển kinh tế - xã hội sẽ chịu tác động của rất nhiều điều kiện có tính ràng buộc.
Chẳng hạn, một nền dân chủ ổn định từ cơ sở là điều kiện tất yếu cho quá trình
mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, liên kết thuận lợi để bảo
vệ các giá trị hàng hóa. Nếu dân chủ giúp đỡ các hoạt động của kinh tế thị trường
phát triển thì chính kinh tế thị trường cũng địi hỏi phải thúc đẩy mạnh mẽ sự phát
triển các yêu cầu về dân chủ.
Để một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển cần phải có một số điều kiện
nhất định như kinh tế phát triển đồng đều, có một nền giáo dục công bằng và hoạt
động hiệu quả cao với sứ mệnh mở mang tầm nhìn của con người. Giáo dục phải
có khả năng tạo được sự hiểu biết cần thiết về vai trò của các quy phạm trong
cuộc sống, kể cả những quy phạm không phải là pháp luật, những quy tắc sống
như lòng khoan dung, hướng thiện. Nói cách khác, giáo dục phục vụ cho sự phát
triển dân chủ. Nhưng nếu dân chủ không phát triển với mức độ cần thiết thì giáo
dục cũng khơng có cơ hội phát triển một cách đúng đắn. Sẽ là sai lầm nếu dùng
quyền lực hành chính để áp đặt các quy định và khơng có sự bàn bạc với người
dân thấu đáo để triển khai. Dân chủ khi được mở rộng ở cơ sở là điều kiện quan
trọng để tạo nên sự đồng thuận giữa người dân và nhà quản trị trong quan hệ điều
hành, để tăng cường sự hiểu biết về các giá trị mà các bên cùng hướng tới, từ đó


7


góp phần thúc đẩy sự phát triển các mặt tích cực trong đời sống xã hội và hạn chế
các hành vi tiêu cực.
Một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ổn định từ cơ sở sẽ cho phép những người
được trao quyền điều hành và người bị điều hành (bị quản lý) thuận lợi khi nhìn
nhận một hệ thống giá trị tạo nên niềm tin của cộng đồng, làm cho niềm tin đó
được củng cố. Theo đó, các quyết định quản lý sẽ được thực hiện với một sức
mạnh mới, niềm tin mới. Hoạt động quản lý của bộ máy cơng quyền do đó sẽ hiệu
quả hơn. Chính các quyết định điều hành đúng đắn là nhân tố quan trọng làm cho
niềm tin của cộng đồng được củng cố, do đó sẽ làm cho nền dân chủ được ổn
định và phát triển hơn.
Thực tế cho thấy, nếu dân chủ cơ sở thiếu ổn định và không được phát triển
đúng đắn sẽ ảnh hưởng đến đại đa số người dân, việc thực hiện chính sách sẽ
khơng mang lại hiệu quả thiết thực. Có thể coi ảnh hưởng đó đã bị tối thiểu hóa,
cịn tầm quan trọng của chức quyền trong bộ máy quản lý ở các cấp, kể cả cấp cơ
sở sẽ được tối ưu hóa và khi đó nạn chạy chức, chạy quyền sẽ có nhiều cơ hội để
phát triển. Việc xây dựng nền dân chủ nói chung và dân chủ cơ sở nói riêng có
vai trị rất quan trọng đối với việc chống nạn chạy chức, chạy quyền và thực hiện
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa XII về “Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Có quan điểm cho rằng, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa muốn phát huy đầy đủ
vai trị cần có tính chính danh. Tính chính danh gắn với sự đánh giá của cộng
đồng. Các nhóm xã hội sẽ xem xét đánh giá hệ thống chính trị là có chính danh
hay không dựa vào việc những giá trị của hệ thống đó có hợp với những giá trị cơ
bản của họ hay khơng. Theo đó, nếu dân chủ cơ sở được đông đảo nhân dân ủng
hộ thông qua các hoạt động thực tế tại cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư nói

chung, thì có nghĩa nó có tính chính danh. Khi đó vai trị của dân chủ với đời
sống nhân dân, với chính quyền sẽ phát huy tác dụng. Người dân sẽ ủng hộ chính
quyền mạnh mẽ để thực thi các chính sách đề ra.
2. Thực trạng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
a. thành tựu
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được tiến hành trong điều kiện
có những thuận lợi, song khó khăn, thách thức rất lớn. Trong hồn cảnh đó, với sự
nỗ lực của tồn Đảng, tồn dẫn với đường lối đúng đắn, sáng tạo, đất nước ta đã
giành nhiều thành tựu to lớn.
Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam: Trong quá trình đổi mới, nhờ nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình thực tiễn thế giới

8


và trong nước, từng bước tổng kết thực tiễn khái quát lý luận, giáo điều, cực đoan,
duy ý chí và bảo thủ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nâng cao nhận thức lý luận về
chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua gần 30
năm đổi mới với 6 nhiệm kỳ đại hội Đảng, mỗi kỳ đại hội đánh dấu một bước
tiến rõ rệt trong nhận thức lý luận của Đảng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại… trên con đường đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam được thể hiện tập trung trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác định tám đặc trưng
cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có thể coi đó là đường lối
chung để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy

mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Bước vào cơng cuộc đổi mới, Đảng
xác định phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Đảng ta đã quyết định
từ bỏ mơ hình tập trung bao cấp, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mơ hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ,
với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối. Từng bước hồn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh, bình
đẳng, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, ổn định
kinh tế vĩ mơ, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm;
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế
tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện
đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,
coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, cơng nghiệp chế tạo có tính nền
tảng và các ngành cơng nghiệp có lợi thế; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh
tế trọng điểm, đồng thời, tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn,
vùng sâu, vùng xa.
Nhờ có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và giải pháp phù hợp, trong gần
30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn
tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều.
Sau 10 năm đổi mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội;
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD
gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. Trong 5 năm 20112015, do sự tác động của khủng hoảng tài chính thê giới, suy thối kinh tế toàn

9


cầu nên nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút.
Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ
trọng khu vực cơng nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm xuống.

Phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội: Đảng ta đã đề ra chủ
trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay trong từng chính sách và từng bước phát triển.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa vừa là mục
tiêu vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh
hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú hơn đời sống văn hóa, con người Việt Nam.
Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi
phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng bộ các
giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học và
ngành học. Phát triển mạnh dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao chất
lượng giáo dục đại học.
Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của q trình phát
triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế; Trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học,
công nghệ từng bước phát triển kinh tế tri thức theo một số lộ trình hợp lý.
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các chính sác
xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất của
chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị
trường. Chính sách xã hội bảo đảm và khơng ngững nâng cao đời sống vật chất
của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh
và nâng cao thể chất. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp
quốc cơng nhận và đánh giá cao.
Cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế
được hình thành rộng khắp trong cả nước; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như:
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp; bảo đảm cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người
dân, nhất là cho người nghèo, người có hồn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc
thiểu số.

Tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế:Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác
và phát triển; đã phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng

10


quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa
binh, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhờ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế bằng những chính sách phù hợp
nên Việt Nam dã phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành
tựu về khoa học- công nghệ, về kinh tế trí thức, kinh nghiệm quốc tế, văn minh
của nhân loại… để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất, xây dựng đất nước.
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương,
chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan
hệ song phương và tổ chức đa phương như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu
hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI,ODA), xúc tiến mạnh thương mại và đầu
tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc
tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý
tiên tiến. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao  với 170 nước ( trong
đó xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước), quan hệ thương mại với 230
nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu
rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt nam ngày càng được nâng lên.
Tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất
coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Phòng và chống những nguy cơ lớn đối với một Đảng cầm quyền: sai lầm về
đường lối, bệnh quan liêu, mất dân chủ và sự thối hóa, biến chất của cán bộ,

đảng viên. Đảng khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên định đường lối đổi mới, chống
giáo điều, bảo thủ hoặc chủ quan, nóng vội, cực đoan.
Đảng tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn
đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,
những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đổi mới; Tổ chức việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và nhân dân.
Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm từng tổ
chức, sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để giảm bớt đầu mối, thực hiện
cải cách hành chính trong Đảng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng.
Chú trọng kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng
cường công tác quản lý, phát triển đảng viên.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ đồng bộ các khâu của công tác cán bộ (đánh giá,
quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và chính
sách cán bộ). Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, tiếp tục đổi mới

11


phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể chính trị- xã hội.
Việt Nam đã đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã
ban hành Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 và một loạt các bộ luật,
luật và pháp lệnh theo hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đề cao vai trò tối cao của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội. Trên cơ sở
đó tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, các cơ
quan tư pháp và chính quyền địa phương các cấp.
Ở Việt Nam việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
b. hạn chế
Bên cạnh những thành tựu, việc thực hiện phát huy dân chủ cũng còn nhiều hạn
chế, bất cập. Nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều
vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ
luật, kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp.
Hiện nay, vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức về dân
chủ còn phiến diện, nhất là thực hành dân chủ trong Đảng. Có người cho rằng dân
chủ trong Đảng thì đảng viên được tự do phát ngôn và tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng quan điểm riêng của mình. Cá biệt, có người cịn
muốn tổ chức đảng chỉ như “câu lạc bộ”, được tranh luận, bàn cãi bất kỳ vấn đề
gì, khơng tơn trọng ngun tắc tập trung dân chủ. Ngược lại, có một bộ phận đảng
viên lại hiểu dân chủ trong Đảng một cách cứng nhắc, coi dân chủ như là phương
tiện để đạt đến sự tập trung, không muốn đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới độc
lập suy nghĩ, tìm tịi khoa học, đồng nhất khoa học với chính trị, đồng nhất ý kiến
nghiên cứu, trao đổi với quan điểm, đường lối của Đảng. Một số người đối lập dân
chủ với tập trung, tách rời việc phát huy sáng kiến, sáng tạo của đảng viên với
việc thực hiện kỷ luật, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế, để phát huy sáng kiến và tư duy độc lập của cán bộ, đảng
viên cần có quy định về chế độ cung cấp, cập nhật thông tin thường xuyên cho
cán bộ, đảng viên, bảo đảm quyền được thông tin của đảng viên. Là Đảng duy nhất
cầm quyền, một số cán bộ, đảng viên không nhận thức đầy đủ nguyên tắc tập trung
dân chủ đã dẫn đến lạm quyền, bao biện, làm thay, độc đoán, gia trưởng, làm giảm
sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đã có nhiều hình thức,
phương pháp tổ chức lấy ý kiến nhân dân, nhất là ý kiến của đội ngũ chuyên gia,
các nhà khoa học khi xây dựng văn bản pháp luật và một số đề án quan trọng

12



khác, nhưng có một số đề án chưa làm tốt việc đó dẫn đến chất lượng văn bản
pháp luật khơng cao, chưa được Quốc hội thông qua, như Đề án xây dựng đường
sắt cao tốc Bắc – Nam, ba đặc khu kinh tế... Một số văn bản pháp luật tạo cơ sở
pháp lý phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân chưa được xây dựng
kịp thời, như Luật Giám sát và phản biện xã hội. Một số luật đã được ban hành,
như Luật Trưng cầu ý dân là văn bản pháp luật quan trọng để nhân dân trực tiếp
thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước, tăng cường đồn kết và đồng thuận xã hội có hiệu lực từ ngày 1-7-2016,
nhưng đến nay vẫn chưa được tổ chức triển khai thực hiện rộng rãi. Một số cơ
quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tổ chức thực hiện các văn bản
pháp luật chưa tốt, như trên các lĩnh vực quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý
đất đai, tài ngun, khống sản, đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức tái định cư...
Việc phát huy dân chủ ngồi xã hội cịn nhiều hạn chế, một bộ phận nhân dân
còn bức xúc, khiếu kiện phức tạp. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công
dân gửi đến các cơ quan chức năng, như Ban Dân nguyện của Quốc hội, Thanh tra
Chính phủ cịn rất cao, nhưng tỷ lệ đơn, thư được giải quyết chưa được như mong
muốn. Theo số liệu của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tỷ lệ chính quyền khơng
đối thoại với cơng dân và khơng dự các phiên tịa đều tăng qua từng năm. Từ năm
2015 đến 2017, kể từ khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, cả nước có 11.180
quyết định hành chính và hành vi hành chính bị tịa án hủy toàn bộ hoặc một
phần. Các nghị định và pháp lệnh về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại một
số nơi chưa được tổ chức thực hiện tốt. Những hạn chế, bất cập trên đây có cả
nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Về khách quan: Đổi mới là sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài và khó khăn, phức
tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá của
các thế lực thù địch tác động khá lớn vào q trình phát huy dân chủ. Về chủ
quan: Cơng tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thực hiện dân chủ
trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và ngoài xã hội chưa được quan tâm đúng

mức, chậm được lý giải và thể chế hóa đầy đủ về mặt nhà nước.
3. Các giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của Đảng và
Nhà nước. Tập trung dân chủ là một nội dung thống nhất, không phải là sự kết
hợp hai mặt tập trung và dân chủ Tập trung và dân chủ là tập trung trên cơ sở
dân chủ - đối lập với tập trung độc đoán, quan liêu, mất dân chủ Dân chủ theo
nguyên tắc tập trung dân chủ là dân chủ hướng tới tập trung, đoàn kết, thống nhất
ý chí và hành động
Hai là, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đó là
chế độ hiệp thương dân chủ (khác căn bản với dân chủ trong Đảng) đặc biệt quan

13


trọng trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
là một tổ chức rộng rãi của tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội, với mục tiêu
đoàn kết phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội – một thể chế
dân chủ thực chất mà khơng cần nhiều đảng chính trị
Ba là, các điều kiện để xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để
phát huy dân chủ về kinh tế phải thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần. Để phát huy dân chủ về chính trị phải nâng cao hiệu quả hoạt
động của cơ quan Nhà nước các cấp, bảo đảm nhà nước thật sự của dân, do dân,
vì dân, phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều kiện
quyết định nhất để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là Đảng nêu gương về
dân chủ và lãnh đạo tốt quá trình đổi mới hoạt động của nhà nước. Dân chủ trong
Đảng quyết định dân chủ trong tổ chức hoạt động nhà nước, gắn liền với dân chủ
trong xã hội. Bởi vì trong cơ quan Nhà nước có tổ chức Đảng, cán bộ chủ chốt
đều là đảng viên, cán bộ Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện cả trong
Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng lãnh đạo q trình dân chủ hóa tất yếu phải

lãnh đạo Nhà nước thực hiện dân chủ, lãnh đạo nhân dân tham gia giám sát cơ
quan, công chức nhà nước trong bảo đảm quyền làm chủ nhân dân

14


C. KẾT LUẬN
Vấn đề dân chủ và phát huy dân chủ, là một nội dung lớn, quan trọng trong
đường lối đổi mới của Đảng ta. Đây là kết quả của một quá trình 25 năm đổi mới,
tiến hành tổng kết thực tiễn – phát triển lý luận của Đảng. Là sinh viên, là thế hệ
trẻ, là tương lai của đất nước trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ về quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sau đó có thể đấu tranh, lên
án những hành động tiêu cực, phản động...Sống lành mạnh, làm gương cho mọi
người noi theo. Có thể tổ chức tuyên truyền cho những người xung quanh hiểu rõ
hơn về con đường xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đồng thời xây
dựng niềm tin trong nhân dân để đánh bại mọi âm mưu của thế lực thù địch.

15


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
2. />3. />4. />
16



×