Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Ths luat học nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật đối với người có nghĩa vụ thi hành án dân sự trong hoạt động nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chấp hành viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.75 KB, 98 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ một nhà nước dân chủ và pháp quyền nào, pháp luật đều
là phương tiện hàng đầu để tổ chức thực hiện đường lối của giai cấp cầm
quyền. Nhà nước ta cũng vậy, pháp luật là phương tiện để thể chế hố đường
lối lãnh đạo của Đảng, là cơng cụ hữu hiệu để quản lý và phát triển đất nước,
xác lập và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Để khẳng định được giá trị
to lớn của mình trở thành hiện thực, pháp luật phải đi vào thực tế cuộc sống,
phải được toàn xã hội tuân thủ chấp hành.
Để pháp luật được thực hiện trên thực tế, không một nhà nước nào
không quan tâm đến vấn đề tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
(GDPL). Qua GDPL mà nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức tuân thủ
pháp luật của mỗi cán bộ và toàn thể nhân dân. Ơ Việt Nam, vấn đề GDPL
cho các tầng lớp nhân dân, nhất là khi bước vào công cuộc đổi mới, đã được
Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V
đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, cũng như các Hội nghị toàn thể Ban
Chấp hành Trung ương Đảng các khố đều nhấn mạnh đến cơng tác GDPL.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường
GDPL nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách
nghiêm minh, thống nhất và công bằng”. Đặc biệt ngày 9-12-2003, Ban Bí
thư Trung ương Đảng khố XI đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TW “Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến GDPL, nâng cao ý thức
pháp luật của cán bộ, nhân dân”. Chỉ thị số 32 đã nêu rõ: “Các cấp uỷ Đảng
có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền các cấp tổ chức thực hiện công tác phổ
biến GDPL với nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp với địa bàn và đối
tượng khác nhau; xây dựng kế hoạch, chương trình phổ biến, GDPL thiết thực
cho các cấp, các ngành, các cơ quan, doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của từng



2
thời kỳ. Mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định việc tìm hiểu, học tập pháp luật
là nhiệm vụ thường xuyên, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá cán bộ,
đảng viên”.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự
quy định "Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án". Xuất
phát từ nguyên tắc chủ đạo đó nên trong những năm qua, GDPL của cơ quan
thi hành án dân sự (THADS) đã được các cấp uỷ Đảng và Ban Lãnh đạo của
ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, coi đó là một trong những nhiệm vụ
thường xuyên và quan trọng. Với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp uỷ Đảng,
Ban Lãnh đạo cũng như tồn thể cán bộ, cơng chức trong ngành, cơng tác phổ
biến, GDPL đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức
sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của toàn thể cán bộ, cơng chức
cũng như của những người có nghĩa vụ THADS. Kết quả THADS đã có
những chuyển biến tích cực, năm sau cao hơn năm trước. Hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động THADS đã được kịp thời pháp
điển hoá và nhanh chóng đi vào cuộc sống. Cơng tác tun truyền, GDPL
được làm tốt do đó hiện tượng vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong
ngành tuy vẫn xảy ra nhưng với số lượng giảm dần. Tỷ lệ số vụ phải cưỡng
chế thi hành án cũng giảm đáng kể, năm sau ít hơn năm trước. Các đương sự
hiểu được nghĩa vụ của mình nên họ đã nghiêm chỉnh, tự giác thực hiện nghĩa
vụ thi hành án. Tuy nhiên, sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với
công tác GDPL chưa được tập trung đúng mức, trách nhiệm của các cấp cũng
như đội ngũ cán bộ trong ngành đối với công tác này chưa được xác định cụ
thể, rõ ràng nên kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu, sự hiểu biết pháp
luật của những người có nghĩa vụ THADS cịn nhiều hạn chế. Y thức tự
giác tuân thủ pháp luật của một số tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc
thi hành án cịn yếu, nhất là của người phải thi hành án chưa cao, nhiều
trường hợp người phải thi hành án cố tình chây ỳ, tẩu tán tài sản để trốn



3
tránh nghĩa vụ, hoặc khiếu nại vượt cấp nhằm mục đích kéo dài việc thi
hành án. Số vụ phải cưỡng chế thi hành án vẫn còn nhiều. Kết quả thi hành
án đối với những loại án có điều kiện thi hành vẫn cịn thấp. Theo báo cáo
năm 2009 của Chính phủ về THADS thì kết quả chỉ đạt 74,08% về việc và
59,3% về tiền. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng đó là
cơng tác tun truyền, phổ biến GDPL chưa được quan tâm đúng mức. Các
đương sự có nghĩa vụ phải thi hành án chưa hiểu hết nghĩa vụ của mình nên
khơng tự giác chấp hành.
Trước u cầu của công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cơng
tác GDPL nói chung và GDPL cho các đương sự có nghĩa vụ phải THADS
nói riêng cần được tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm
làm cho họ hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Là một cán bộ
công tác trong ngành THADS, học viên chọn đề tài “Nâng cao chất lượng
giáo dục pháp luật đối với người có nghĩa vụ thi hành án dân sự trong hoạt
động nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ - chấp hành viên” làm luận văn Thạc sĩ
Luật, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật với mục đích
vận dụng những nhận thức lý luận vừa học để giải quyết một vấn đề thực tiễn
đang đặt ra cấp thiết nơi cơng tác của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, nghiên cứu về GDPL đã được các nhà khoa học quan
tâm và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu một số cơng trình
tiêu biểu sau:
- Sách chun khảo:
+ Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai, Bàn về GDPL, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995.
+ Đào Trí Uc, Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.



4
+ Lê Đình Khiên, Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản
lý hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Đề tài khoa học:
+ Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về phổ biến, GDPL trong công cuộc đổi mới, Đề tài khoa
học cấp Bộ, mã số 92-98-223 ĐT.
+ Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1995), Tìm hiểu mơ
hình phổ biến GDPL có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, Đề tài khoa
học cấp Bộ.
+ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Đổi mới GDPL
trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp
Bộ, Khoa Nhà nước và pháp luật.
+ Bộ Tư pháp (2004), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng
chương trình quốc gia về phổ biến, GDPL trong giai đoạn tới, Đề tài khoa
học cấp Bộ.
- Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật:
+ Trần Ngọc Đường (1998), Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Luận án Phó tiến sĩ, (Liên Xơ trước đây).
+ Dương Thanh Mai (1996), GDPL qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam,
Luận án Phó tiến sĩ.
+ Trần Tiến Hải (2005), Hoạt động GDPL của đội ngũ báo cáo viên
pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Trần Thị Nụ (2007), GDPL cho cán bộ tỉnh Thái Bình trong giai đoạn
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Thị Vân Giang (2007), Nâng cao ý thức pháp luật của cán
bộ công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.


5
+ Nguyễn Thị Phượng (2008), GDPL hôn nhân và gia đình cho nơng
dân trên địa bàn tỉnh Bến Tre, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Đinh Thị Hương (2008), GDPL cho phụ nữ nông thôn trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các cơng trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu những vấn
đề lý luận cơ bản về GDPL; một số cơng trình mang tính chun sâu với một
loại đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về GDPL
cho những người có nghĩa vụ phải THADS. Do đó, kế thừa những vấn đề
chung về lý luận GDPL của các cơng trình nghiên cứu nêu trên, luận văn đi
vào nghiên cứu một cách chuyên sâu vấn đề GDPL cho những người có nghĩa
vụ phải THADS - một đối tượng GDPL có những điểm đặc thù mà các cơng
trình nghiên cứu nêu trên chưa có điều kiện tiếp cận.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về GDPL, luận văn đi sâu đánh
giá thực trạng công tác GDPL cho những người có nghĩa vụ phải THADS; đề
xuất quan điểm và giải pháp đổi mới GDPL cho những người có nghĩa vụ
phải THADS.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Xây dựng những vấn đề về nhận thức lý luận GDPL đối với những
người có nghĩa vụ THADS.
+ Nghiên cứu tính đặc thù của GDPL cho những người có nghĩa vụ THADS.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng GDPL cho những người có nghĩa vụ
THADS, từ đó rút ra những nguyên nhân của thực trạng trên.

+ Đề xuất các quan điểm và giải pháp GDPL cho những người có nghĩa
vụ THADS.


6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Cán bộ thi hành án dân sự là một danh từ chung đối với một số chức
danh công chức chuyên môn thuộc cơ quan thi hành án dân sự. Trong phạm
của Luận văn này, ngoài chức danh trung tâm của cơ quan thi hành án dân sự
là CHV, tác giả chỉ tập trung để nghiên cứu thêm về chất lượng GDPL đối với
người có nghĩa vụ THADS trong hoạt động nghiệp vụ của Thẩm tra viên thi
hành án, Thư ký thi hành án. Đây được xem là các chức danh chủ đạo của quá
trình thi hành án (bao gồm từ tổ chức thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong thi hành án).
- Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu liên quan đến những người có nghĩa vụ phải THADS
là một phạm trù rộng, với nhiều khía cạnh khác nhau và ở những thời điểm
khác nhau cũng khác nhau. Vì vậy, luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề
GDPL đối với những người có nghĩa vụ THADS trong thời hạn hai năm, từ
năm 2010 - 2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về GDPL.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Triết học MácLênin, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn;
phân tích và tổng hợp; lịch sử cụ thể. Ngồi ra luận văn cịn sử dụng một số
phương pháp của các bộ môn khoa học khác như thống kê, so sánh, lý thuyết

hệ thống.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn đưa ra một số điểm mới sau:


7
- Hình thành một số vấn đề lý luận cơ bản về GDPL như vai trị, tính
đặc thù của GDPL đối với những người có nghĩa vụ THADS nhằm góp phần
nâng cao nhận thức lý luận.
- Đánh giá thực trạng hoạt động GDPL đối với những người có nghĩa
vụ phải THADS nhằm góp phần nâng cao nhận thức về những vấn đề tồn tại,
nguyên nhân khách quan, chủ quan trong GDPL đối với những người có
nghĩa vụ THADS.
- Đề xuất được một số giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động GDPL đối với đối tượng đặc thù này.
7. Y nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả của luận văn sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động GDPL nói chung và GDPL đối với những người có nghĩa vụ THADS
nói riêng. Đồng thời luận văn là nguồn tư liệu tham khảo tốt cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật cũng như kinh nghiệm trong
thực tiễn THADS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
NGHIỆP VỤ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN, CÁN BỘ THI HÀNH ÁN

ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ NGHĨA VỤ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ
CỦA CHẤP HÀNH VIÊN, CÁN BỘ THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ NGHĨA VỤ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Khái niệm
GDPL thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển
khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật. Với tư cách là một dạng giáo dục thì GDPL ở nước ta hình thành và thực
hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị, và giáo dục đạo đức. Với tư cách là
một khái niệm pháp lý - GDPL được hình thành trong khoa học pháp lý cũng
như được tiến hành trong thực tế ở nước ta rất muộn mằn so với nhiều nước
trên thế giới. Chính vì vậy, quan niệm về GDPL ở nước ta vẫn cịn có nhiều ý
kiến khác nhau, đó là lẽ bình thường.
Thực tiễn cho thấy, Giáo dục là một hiện tượng xã hội và chỉ có trong
xã hội loài người thể hiện nền văn minh nhân loại. Giáo dục ln ln là nhu
cầu của xã hội, nó có vai trị tác động trở lại xã hội. Vì thế mà các nhà nước
của giai cấp cầm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình đều thơng qua giáo dục.
Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo hai nghĩa đó là nghĩa rộng
và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng: giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những điều
kiện khách quan (như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường
sống....) và của cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ định và


9
định hướng của nhân tố con người) nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ
năng nhất định của đối tượng giáo dục.

- Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân
tố chủ quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu
tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy
đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận
những yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình
thành ý thức cá nhân của con người. Song các nhà lý luận khoa học sư phạm
đã nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và thậm chí
quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục
hiện nay chúng ta thường được hiểu theo nghĩa hẹp.
Như vậy quan niệm về giáo dục theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp như trên
thì GDPL trước hết cũng là một hoạt động mang đầy đủ những tính chất
chung của giáo dục nhưng nó có những đặc điểm riêng biệt, phạm vi riêng cả
nội dung, hình thức và phương pháp riêng biệt. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa
hẹp của giáo dục, GDPL được hiểu một cách khái quát nhất: con người với tư
cách là một thực thể xã hội là một khách thể (hay đối tượng) chịu ảnh hưởng
và sự tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình
thành lên ý thức tình cảm và hành vi pháp luật.
Thực tế hiện nay theo quan điểm chung của các nhà khoa học pháp lý đều
xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục. Vận dụng khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp,
các nhà khoa học đã xây dựng khái niệm GDPL bởi các yếu tố sau đây:
- Thứ nhất: Sự hình thành ý thức của con người là một quá trình chịu
ảnh hưởng và sự tác động của các điều kiện khách quan lẫn các nhân tố chủ
quan. Con người vốn là sản phẩm của hồn cảnh và giáo dục. Và do đó con
người đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo
dục đã thay đổi.


10
Khi nghiên cứu sự tác động ảnh hưởng lên ý thức con người thì các

nhà lý luận giáo dục đã phân biệt điều kiện khách quan và chủ quan. Điều
kiện khách quan là những yếu tố ảnh hưởng hình thành lên ý thức con người,
nhân tố chủ quan là nhân tố tác động có chủ đích, có định hướng, có nội dung
và phạm vi nhất định. Yếu tố ảnh hưởng khách quan có thể tự phát, thụ động,
có thể tự phát theo chiều nay hay chiều khác khơng có chủ đích trước. Vậy
theo nghĩa hẹp của giáo dục có thể vận dụng vào quan niệm GDPL đó là sự
tác động có định hướng của nhân tố chủ quan bằng việc xác định nội dung,
chương trình pháp luật cần đưa vào kế hoạch giáo dục cho công dân.
- Thứ hai: Từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư
phạm để xây dựng khái niệm GDPL chúng ta nhận thức được mối quan hệ
giữa "cái chung" và "cái riêng", "cái đặc thù", "trong mối quan hệ với giáo
dục nói chung là "cái chung" "cái phổ biến" "cái riêng" vừa phải mang
những đặc điểm chung vừa phải mang tính thể hiện những nét đặc thù.
GDPL là "cái riêng" cái đặc thù trong mối quan hệ với giáo dục là "cái
chung", "cái phổ biến".
Tính đặc thù của GDPL so với các hoạt động giáo dục khác ở một số
điểm sau đây:
- Về mục đích GDPL: Hoạt động GDPL mang tính định hướng,
nhằm nâng cao ý thức pháp luật, hình thành tình cảm lịng tin và sự tơn
trọng đối với pháp luật của Nhà nước từ đó tự giác xử sự phù hợp với pháp
luật hiện hành.
- Về nội dung, GDPL có nội dung cơ bản riêng biệt, những tri thức
của nhân loại về Nhà nước và pháp luật cũng như nội dung của các văn bản
pháp luật thực định sẽ được truyền tải đến khách thể (hoặc đối tượng) một
cách thiết thực và có hiệu quả. Việc xác định đúng nội dung pháp luật để
truyền tải cho đối tượng nhất định nào có ý nghĩa quan trọng và quyết định
đến hiệu quả của GDPL.


11

- Về chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp GDPL: Hoạt động
này là một quá trình thường xuyên, liên tục và lâu dài chứ không phải là tác
động theo sự tác động phong trào, theo thời vụ của chủ thể giáo dục lên đối
tượng GDPL. Cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã
hội của các cấp, các ngành cần quan tâm đúng mức cho hoạt động GDPL.
Người GDPL (chủ thể) phải là người có kiến thức pháp luật, có năng lực thực
tiễn truyền thụ kiến thức, được tiếp nhận đầy đủ các thông tin pháp lý để
truyền tải những kiến thức pháp lý cho người được giáo dục (đối tượng) và
chủ thể phải luôn luôn là người gương mẫu trong chấp hành pháp luật để đối
tượng noi gương.
Hình thức và phương pháp GDPL cần phải phù hợp với từng đối
tượng. Chủ thể phải lựa chọn cách thức, phương pháp cho phù hợp để
mang lại hiệu quả cao trong GDPL. Hình thức có thể đơn giản, từ thấp đến
cao hay trực quan, trừu tượng cũng là yếu tố góp phần quyết định đến hiệu
quả của GDPL.
- Thứ ba: Quan niệm GDPL vận dụng từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý
nghĩa quan trọng trong việc phân biệt 2 phạm trù: GDPL và phạm trù ý thức
pháp luật. Hai phạm trù này có mối quan hệ với nhau mật thiết nhưng không
đồng nhất với nhau.
Hoạt động GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định về kế hoạch về nội dung,
chương trình, cịn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm, là kết quả của
các ảnh hưởng của điều kiện khách quan là sự tác động của nhân tố chủ quan,
nhưng nhân tố chủ quan này lại có vai trị chủ đạo và quyết định đến sự hình
thành ý thức pháp luật. Sự phân biệt này có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan
trọng trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay. Trong xã hội ta những yếu
tố khách quan mang tính tiêu cực trong cơ chế thị trường; đó là tham ơ, hối lộ,
lối sống không lành mạnh... đang tác động đến nhận thức, tình cảm, lịng tin



12
vào pháp luật,đi ngược lại mục tiêu của một nền pháp chế XHCN. Mặt tiêu
cực đó, trong xã hội địi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn đến nhân tố chủ quan
nhằm tác động định hướng trong quá trình hình thành nên ý thức pháp luật
cho công dân. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta việc trang bị tri thức pháp
luật, bồi dưỡng tình cảm và thói quen tn theo pháp luật của nhân dân lao
động là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan nhà
nước trực tiếp bảo vệ pháp luật, các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã
hội ở các cấp, các ngành... trong đó trước hết thuộc về cơ quan có chức năng
giáo dục đào tạo con người. Con người trong xã hội cần phải được tổ chức
được định hướng GDPL cho hoạt động của họ; nếu không sẽ khơng hình
thành ý thức pháp luật tích cực ở cá nhân con người trong xã hội.
Tóm lại: Từ phân tích như trên có thể định nghĩa GDPL như sau:
GDPL là hoạt động có tổ chức, có mục đích có tính định hướng tác động lên
các đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình
cảm đối với pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành.
1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật trong hoạt động nghiệp vụ
của chấp hành viên, cán bộ thi hành án đối với người có nghĩa vụ thi
hành án dân sự
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động nghiệp vụ của chấp hành viên, cán bộ
thi hành án đối với người có nghĩa vụ thi hành án dân sự
Theo nghĩa chung nhất thì hoạt động là tiến hành những việc làm có
quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã
hội. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì hoạt động là: làm những việc khác nhau
với mục đích nhất định trong đời sống xã hội [21, tr.1998].
Như vậy, hoạt động là một q trình, trong đó các chủ thể tiến hành
những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích nhất định
nào đó mà các chủ thể mong muốn hướng tới. Tương tự như vậy, trong lĩnh
vực THADS, hoạt động thi hành án có thể hiểu là quá trình các chủ thể thực



13
hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình trên cơ sở quan hệ, phối
hợp nhằm mục đích thi hành các bản án, quyết định của Tồ án. Vì vậy mà Từ
điển luật học mới giải thích THADS là: Hoạt động của Cơ quan THADS,
người được thi hành án, người phải thi hành án và các chủ thể khác trong
việc thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án. THADS bao
gồm các hoạt động như cấp, chuyển giao bản án, quyết định dân sự; giải
thích bản án, quyết định dân sự; tự thi hành án của người phải thi hành án;
gửi đơn yêu cầu thi hành án; ra quyết định thi hành án; ra quyết định tạm
đình chỉ thi hành án; ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án; quyết
định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, tổ chức cưỡng chế thi hành
án… Trình tự, thủ tục THADS được thực hiện theo các quy định tại Phần
thứ bảy Bộ luật tố tụng dân sự, Pháp lệnh THADS năm 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh [50].
Từ đó có thể thấy các chủ thể trong hoạt động THADS:
Nhóm chủ thể đầu tiên bao gồm người được thi hành án, người phải
thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo bản án, quyết định
của Toà án và các quyết định khác theo quy định của PL. Nhóm chủ thể này
có vai trị đặc biệt quan trọng trong hoạt động THADS bởi vì họ chính là
những người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ theo nội dung của bản án, quyết
định của Toà án. Hoạt động của các chủ thể này được thể hiện thông qua
việc thực hiện các quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm theo nội dung của bản
án, quyết định của Toà án. Nếu như bên có nghĩa vụ thực hiện nghiêm
chỉnh nghĩa vụ của mình cho bên có quyền thì hoạt động THADS có thể
coi là đã kết thúc. Vì vậy, Điều 6 Pháp lệnh THADS năm 2004 quy định:
Nhà nước khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án. Người được
thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận với nhau về thời
gian, địa điểm, phương thức thi hành án, nhưng không được trái PL, đạo
đức xã hội [49].



14
Trong số các chủ thể được đề cập ở trên thì người có nghĩa vụ thi hành
án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết
định được thi hành.
Nhóm chủ thể thứ hai đó là Nhà nước. Nhóm chủ thể này chỉ xuất hiện
khi giữa các bên không thể tự thoả thuận để thực hiện việc thi hành án hoặc
trong trường hợp việc THADS có liên quan trực tiếp đến các khoản thu để thu
nộp tiền vào Ngân sách nhà nước.
Chủ thể đóng vai trị chính trong việc tham gia của Nhà nước vào quá
trình THADS là các cơ quan THADS. Theo quy định của PL thì cơ quan
THADS gồm có: Cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ
quan THADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Cơ quan thi hành án
quân khu và tương đương. Hoạt động của các cơ quan THADS thơng qua vai
trị chính của CHV. Trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của mình và trình tự thủ
tục PL quy định, CHV tác động trực tiếp lên các đối tượng có liên quan (bên
phải thi hành án, bên được thi hành án, các bên có liên quan,...) để định hướng
hoặc cưỡng chế để buộc thực hiện nghĩa vụ. Đây có thể xem là hoạt động
nghiệp vụ của CHV và là hoạt động chủ yếu, quyết định hiệu quả hoạt động
THADS ở Việt Nam.
Chủ thể thứ hai cũng có vai trị khá quan trong hoạt động THADS đó là
Thẩm tra viên thi hành án và Thư ký thi hành án:
Theo quy định tại Quyết định số 01/2007/QĐ-BNV ngày 17/01/2007
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ thì Thẩm tra viên có ba ngạch là Thẩm tra viên,
Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp thi hành án.
Thẩm tra viên là cơng chức có trình độ chun mơn, nghiệp vụ về lĩnh
vực thẩm tra thi hành án dân sự, giúp Thủ trưởng cơ quan, trực tiếp thực hiện
việc thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án, thẩm tra xác minh các vụ
việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan

quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự. Thẩm tra viên có


15
nhiệm vụ như: i) Thực hiện thẩm tra hồ sơ các vụ việc đã và đang thi hành
theo kế hoạch được duyệt hoặc theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan
quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự, đề xuất hướng giải
quyết và chịu trách nhiệm về ý kiến đề xuất của mình; ii) Lập kế hoạch và tổ
chức thực hiện cơng tác thẩm tra theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan;
iii) Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để thực hiện cơng tác thẩm
tra các vụ việc được phân công theo quy định của pháp luật; iii) Thực hiện
nhiệm vụ khác do Thủ trưởng cơ quan giao.
Đối với Thẩm tra viên chính: Thẩm tra viên chính là cơng chức có trình
độ chun mơn, nghiệp vụ về lĩnh vực thẩm tra thi hành án dân sự, giúp Thủ
trưởng cơ quan trực tiếp hoặc tham gia thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ
việc đã và đang thi hành án, thẩm tra, xác minh các vụ việc có đơn thư khiếu
nại, tố cáo về thi hành án dân sự và thực hiện một số nhiệm vụ khác theo sự
phân công của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi
hành án dân sự. Thẩm tra viên chính có nhiệm vụ cụ thể như: i) Thực hiện
thẩm tra hồ sơ các vụ việc đã và đang thi hành theo kế hoạch được duyệt hoặc
theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ
quan thi hành án dân sự, đề xuất hướng giải quyết và chịu trách nhiệm về ý
kiến đề xuất của mình. Trong trường hợp kiểm tra, nếu phát hiện có sai sót
phải tham mưu cho cấp có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thực hiện quyết định
sai sót đó để khắc phục, sửa chữa và chịu trách nhiệm về những kiến nghị của
mình; ii) Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, hoặc phối hợp với các cơ quan, đơn
vị có liên quan để xác minh, kiểm tra và đề xuất biện pháp giải quyết nhiệm
vụ được phân công; iii) Tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành
án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự để trả lời kháng nghị, kiến nghị của
Viện kiểm sát nhân dân theo thẩm quyền; để giải quyết khiếu nại, tố cáo về

những vụ việc đã được chấp hành viên giải quyết; iv) Tham gia xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến cơng tác thi hành án dân sự; v)


16
Tham gia hướng dẫn nghiệp vụ cho ngạch thẩm tra viên; vi) Thực hiện các
nhiệm vụ khác do Thủ trưởng cơ quan giao.
Đối với Thẩm tra viên cao cấp:Thẩm tra viên cao cấp là cơng chức có
trình độ chun mơn, nghiệp vụ cao về lĩnh vực thẩm tra thi hành án dân sự,
giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự tổ chức chỉ đạo việc thực
hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc thi hành án quan trọng, phức tạp có liên
quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và nhiều địa phương; thực
hiện một số công việc khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan quản
lý thi hành án dân sự. Thẩm tra viên cao cấp có nhiệm vụ cụ thể như: i) Xây
dựng kế hoạch kiểm tra và chủ động thực hiện việc kiểm tra công tác thi hành
án dân sự theo kế hoạch đã được Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân
sự phê duyệt. Trong trường hợp kiểm tra, nếu phát hiện có sai sót phải tham
mưu cho cấp có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thực hiện quyết định có sai sót
đó để khắc phục, sửa chữa và chịu trách nhiệm về những kiến nghị của mình;
ii) Lập kế hoạch, trình Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự phê
duyệt hoặc phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để thực hiện việc
kiểm tra, xác minh và đề xuất giải quyết các khiếu nại, tố cáo theo sự phân
công của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự; iii) Tham mưu giúp
Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự hoặc trình cấp có thẩm quyền
để chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thi hành các vụ việc phức
tạp; iv) Tham mưu giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự trả lời
kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo thẩm quyền; v) Tham
gia xây dựng dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác
về thẩm tra, kiểm tra các vụ việc thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc;
vi) Giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự trong việc hướng dẫn,

chỉ đạo thẩm tra, kiểm tra nghiệp vụ thi hành án dân sự trong toàn quốc và đề
xuất các biện pháp điều chỉnh nhằm bảo đảm việc tổ chức thi hành án dân sự
đúng pháp luật và hiệu quả; vii) Tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học về


17
công tác thi hành án; viii) Tham gia xây dựng mục tiêu, nội dung, chương
trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các ngạch thẩm tra viên,
thẩm tra viên chính;
Đối với Thư ký thi hành án, theo quy định tại Thông tư số 10/2010/TTBNV ngày 28/10/2010 của Bộ Nội vụ thì: Thư ký thi hành án là cơng chức
chun mơn nghiệp vụ thi hành án dân sự, có trách nhiệm giúp chấp hành
viên trung cấp, chấp hành viên cao cấp thực hiện các trình tự, thủ tục thi
hành án dân sự, hoặc giúp thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp thực
hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án, thẩm tra, xác
minh các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự theo quy
định của pháp luật. Thư ký thi hành án có nhiệm vụ như: i) Giúp chấp hành
viên chuẩn bị hồ sơ, thủ tục, tổ chức thi hành các vụ việc phức tạp, đặc biệt
phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến
nhiều địa phương thuộc thẩm quyền thi hành của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện, Cục Thi hành án dân sự tỉnh và Phòng Thi hành án cấp quân khu
hoặc giúp thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp thực hiện nhiệm vụ
thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án, thực hiện thẩm tra, xác minh
các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự theo quy định
của pháp luật; ii) Ghi chép biên bản xác minh thi hành án; biên bản giải
quyết thi hành án; biên bản tống đạt; biên bản xử lý vật chứng, tài sản đã kê
biên, tạm giữ; biên bản kê biên tài sản; biên bản họp, biên bản định giá tài
sản; biên bản kiểm tra hiện trạng tài sản; biên bản hủy tang vật; biên bản
cưỡng chế; biên bản giao nhà đất; biên bản trả tài sản và các biên bản nghiệp
vụ khác; iii) Giúp chấp hành viên, thẩm tra viên tống đạt giấy tờ thi hành án;
iv) Thực hiện một số nội dung xác minh, xây dựng hồ sơ thi hành án dân sự

theo sự phân công của chấp hành viên, thẩm tra viên; v) Phối hợp với các cơ
quan, đơn vị có liên quan để giúp chấp hành viên thực hiện công tác tổ chức
thi hành án; giúp thẩm tra viên thực hiện thẩm tra thi hành án dân sự đối với
các vụ việc được phân công theo quy định của pháp luật.


18
Các hoạt động khác: là những hoạt động phối hợp của các cơ quan ban
ngành có liên quan với cơ quan THADS và CHV. Tuy nhiên, ở đây cũng cần
phân định rõ chỉ có một số hoạt động có tính chất phối hợp giữa cơ quan thi
hành án với các cơ quan tổ chức có liên quan được xem như là cấu thành và
nội hàm của hoạt động thi hành án. Ví dụ như hoạt động kê biên tài sản của
cơ quan điều tra đối với bị can, bị cáo nhằm hạn chế việc tẩu tán tài sản, đảm
bảo hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án. Hoạt động giải thích bản án,
quyết định của cơ quan Tồ án, hoạt động tham gia bảo vệ cưỡng chế của các
cơ quan Công an, hoạt động kiểm sát thi hành án,... Các hoạt động khác
không thể xem là hoạt động phối hợp mà là trách nhiệm thực thi quyết định
của cơ quan thi hành án của các cơ quan tổ chức có liên quan. Trách nhiệm
thực hiện đầy đủ, khơng kèm theo điều kiện của các cơ quan tổ chức này.
Tất cả các cá nhân, tổ chức nói trên trong phạm vi của mình đều có những
nhiệm vụ, quyền hạn và các trình tự thủ tục được pháp luật quy định nhằm thực
hiện có hiệu quả bản án, quyết định của Tịa án và cơ quan có thẩm quyền. Tuy
nhiên, nói như vậy, khơng có nghĩa là có thẩm quyền nhưng thực hiện bằng mọi
giá mà mỗi cá nhân, tổ chức chỉ có thể thực hiện thẩm quyền của mình theo trình
tự, thủ tục và những biện pháp cụ thể mà pháp luật cho phép để người phải thi
hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của mình.
Tóm lại, hoạt động nghiệp vụ của CHV, cán bộ thi hành án là việc các
chức danh này thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ của mình theo một
trình tự thủ tục tác động đến người có nghĩa vụ thi hành án để thi hành các
bản án, quyết định dân sự theo quy định của PL.

1.1.2.2. Khái niệm giáo dục pháp luật trong hoạt động nghiệp vụ của
chấp hành viên, cán bộ thi hành án đối với người có nghĩa vụ thi hành án
dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt thì thuyết phục là "làm cho người ta thấy đúng,
hay mà tin theo, làm theo" [51, tr.996]. Còn cưỡng chế là việc "dùng quyền


19
lực Nhà nước bắt phải tuân theo" [51, tr.233]. Giáo dục thuyết phục và cưỡng
chế có quan hệ mật thiết trong quản lý nhà nước. Hiệu quả quản lý xã hội và
trật tự PL chủ yếu được thực hiện thông qua phương pháp tác động giữa
thuyết phục và cưỡng chế. Lênin đã từng khẳng định: "Chun chính vơ sản
thành cơng vì nó biết kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế" [37, tr.270].
Nếu như thuyết phục tác động vào ý thức con người, tạo ra cho con
người sự nhận thức, tình cảm, nhu cầu xử sự theo PL thì cưỡng chế lại bắt
buộc công dân phải thay đổi hành vi của mình theo hướng có lợi cho xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì:
Sửa chữa sai lầm, cố nhiên là dùng cách giải thích, thuyết
phục, cảm hóa, dạy bảo, song tuyệt nhiên không phải là không dùng
đến xử phạt. Nếu nhất loạt khơng dùng đến xử phạt thì sẽ mất cả kỷ
luật, thì sẽ mở đường cho loại cố ý phá hoại. Vì vậy hồn tồn
khơng dùng xử phạt là khơng đúng mà chút gì cũng dùng đến xử
phạt cũng khơng đúng [52].
Giữa thuyết phục và cưỡng chế thì phải đặt thuyết phục, giáo dục lên
hàng đầu. Theo Lênin thì: "Trước hết phải thuyết phục và sau đó mới cưỡng
bức, dù thế nào đi nữa trước hết chúng ta cũng phải thuyết phục rồi mới
cưỡng bức"[37]; "Nhiệm vụ thuyết phục quần chúng nhân dân khơng bao giờ
có thể coi là đã hồn thành mà ngược lại, nó ln ln là nhiệm vụ quan trọng
phía trước của quản lý" [38, tr.37].
Đối với hoạt động THADS, để tổ chức thi hành một bản án CHV không

chỉ áp dụng đúng các quy định của PL về trình tự, thủ tục, mà trong nhiều
trường hợp CHV phải vận dụng toàn bộ tri thức của mình về PL, tâm lý,
phong tục - tập quán, truyền thống văn hóa của từng địa phương nơi người
phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan
sinh sống. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình tổ chức thi hành các loại án như
buộc tháo dỡ nhà, di dời toàn bộ người và tài sản để giao đất cho người được


20
thi hành án; án giao nhà; án giao con là những việc phức tạp, khó thi hành
nhất, thì ngồi việc áp dụng đúng các quy định của PL, CHV còn phải làm tốt
công tác vận động, thuyết phục đương sự. Bên cạnh cơng tác giáo dục thuyết
phục thì cũng cần phải
quyết khơng để tình trạng khinh nhờn PL, coi thường bản án,
quyết định kéo dài từ năm này qua năm khác mà cơ quan thi hành
án bất lực, cán bộ nhân dân phản ứng, bất bình. Kinh nghiệm triển
khai cơng tác an tồn, trật tự giao thơng thời gian qua ở các thành
phố lớn và trong phạm vi cả nước đã cho bài học là, bên cạnh
những biện pháp tuyên truyền, vận động, thuyết phục, cần có những
giải pháp mạnh trong tổ chức thực hiện, kiên quyết áp dụng những
biện pháp mà PL cho phép, kịp thời ban hành các quy định điều
chỉnh các hành vi, tình huống mới phát sinh, tạo thành phong trào
quần chúng tự giác chấp hành PL trong lĩnh vực thi hành án. Một
chính quyền mạnh mẽ của dân, do dân và vì dân nhất định phải
hành động như vậy [35].
Rõ ràng giữa giáo dục, thuyết phục với cưỡng chế thi hành án dân sự
là một biện pháp nghiệp vụ, đòi hỏi sự uyển chuyển của CHV, cán bộ thi
hành án dân sự với mục tiêu người có nghĩa vụ thi hành án thực hiện
nghiêm túc nghĩa vụ của mình nhằm tránh được những hậu quả pháp lý từ
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để thi hành có hiệu quả bản án, quyết

định của Tịa án.
Tóm lại, GDPL trong hoạt động nghiệp vụ của CHV, cán bộ thi hành
án đối với người có nghĩa vụ THADS là việc CHV, cán bộ thi hành án sử
dụng linh hoạt kỹ năng, biện pháp nghiệp vụ phù hợp với quy định của
pháp luật, không trái với đạo đức xã hội tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến nhận thức của người có nghĩa vụ thi hành án bảo đảm để họ thực hiện
nghiêm túc nghĩa vụ của mình nhằm tránh được những hậu quả pháp lý từ


21
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để thi hành có hiệu quả bản án, quyết
định của Tịa án.
1.1.2.3. Đặc điểm của giáo dục pháp luật trong
hoạt động nghiệp vụ của chấp hành viên, cán bộ thi hành
án đối với người có nghĩa vụ thi hành án
- Đặc điểm đặc thù nổi bật nhất đó là tính xung đột về quyền lợi giữa
người được THADS và người phải THADS, các bên có liên quan trong hoạt
động THADS thể hiện rất gay gắt: Thực tế cho thấy, khi xét xử, dù bản án,
quyết định của Tịa án có nghiêm đến mấy đi chăng nữa thì đó cũng mới chỉ ở
trên giấy. Trong khi đó thơng qua hoạt động thi hành án, các bản án, quyết
định của Toà án được thi hành hành trên thực tế, nên tính bức xúc đạt đến
đỉnh điểm. Điều này có thể nhìn nhận thấy ở một số khía cạnh như sau:
Về phía người phải thi hành án: nếu trong giai đoạn xét xử, các đương
sự chỉ dừng lại ở sự nhận thức - bản án, quyết định của Tịa án đã xét xử sắp
có hiệu lực. Và khi đó, họ vẫn tin rằng, việc xét xử sẽ còn được diễn ra ở
nhiều cấp tiếp theo và hy vọng của họ vẫn cịn. Trong khi đó, đến giai đoạn
thi hành án, người phải thi hành án sẽ hiểu hơn bao giờ hết đó là - những vấn
đề mà lâu nay họ tin tưởng như là thuộc về họ thì nay buộc phải chuyển giao
lại cho người khác. Tất yếu sẽ làm tổn hại đến lợi ích của người phải thi hành
án (cho dù lợi ích đó hiện đã trở thành bất hợp pháp). Vì vậy, "Ý thức này

không dừng lại ở biểu hiện về mặt tâm lý mà còn phát triển thành những xung
đột trong hành vi và nhận thức của người phải thi hành án nhằm đối phó hoặc
né tránh, trì hỗn, thậm chí chống đối các yêu cầu thi hành án" [29, tr.796].
Về phía người được thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ có liên
quan: Tuy là người thắng kiện, nhưng thực tế quyền lợi của họ được ghi nhận
trong bản án, quyết định của Tòa án vẫn mới chỉ ở trên giấy tờ. Vì vậy, tâm lý
lớn nhất của những đối tượng này là việc thi hành án càng nhanh càng tốt.


22
Điều này được giải thích bằng tâm lý cho rằng: Chính cơ quan thi hành án là
người tổ chức thi hành bản án, như vậy nếu người phải thi hành án khơng
thực hiện nghĩa vụ thì lỗi đó thuộc về trách nhiệm của cơ quan thi hành án.
Tính chất hai mặt của mối quan hệ này về danh nghĩa là quan hệ giữa người
được thi hành án với người phải thi hành án, nhưng thực tế lại là quan hệ tâm
lý giữa người được thi hành án với CHV thụ lý hồ sơ. Nó được thể hiện dưới
dạng các yêu cầu thi hành án qua mỗi lần tiếp xúc với CHV. Các yêu cầu này
càng trở nên gay gắt hơn khi kết quả thi hành án đạt hiệu quả thấp hoặc bị
người phải thi hành án trì hỗn, kéo dài về mặt thời gian [29, tr.795].
Về phía cơ quan THADS: Do phải chịu sức ép "đa chiều" đã tạo nên áp
lực về mặt tâm lý. Áp lực đó chi phối tồn bộ hành vi của CHV trong q
trình thi hành án. Đồng thời với đặc điểm tâm lý của người phải thi hành án,
tự trong chính tâm lý của CHV cũng thường nảy sinh một thái độ tâm lý chủ
quan, coi thường người phải thi hành án hoặc nơn nóng, gay gắt, thiếu bình
tĩnh khi tiếp xúc hoặc “xử lý” đương sự. Nhiều khi tâm lý của CHV đã bị
người phải thi hành án chủ động buộc phải bộc lộ nhược điểm trong tính cách
cá nhân, dẫn đến những thiếu sót trong hành vi hoặc trong cách tiếp xúc với
đương sự [29, tr.798].
Với những đặc thù trên, các chủ thể và đối tượng GDPL phải biết vị trí
của mình trong từng giai đoạn lịch sử hoặc trong từng loại công việc: khi là

chủ thể, khi là đối tượng GDPL bởi quy luật của tự nhiên và xã hội liên tục
được vận động và phát triển. Vì vậy, C. Mác viết: "Người đi giáo dục cần phải
được giáo dục".
- Thông thường người có nghĩa vụ THADS ít có điều kiện tiếp xúc,
tìm hiểu pháp luật và sử dụng phương tiện, cơng cụ pháp luật để tự bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng của mình. Điều đó địi hỏi phải có những hình
thức, biện pháp phù hợp và hiệu quả hơn để hỗ trợ một cách thiết thực cho
những đối tượng này có được hiểu biết các quyền và nghĩa vụ của mình, được


23
tạo điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp. Đó chính là cách thể hiện đường lối của Đảng trong lĩnh vực pháp luật.
- Hoạt động GDPL của CHV, cán bộ thi hành án có thể thực hiện trực
tiếp, hoặc gián tiếp đến người có nghĩa vụ thi hành án dân sự: Thực tiễn cho
thấy người có nghĩa vụ THADS sống trong cộng đồng có những cá nhân có vị
trí uy tín lớn, tiếng nói của họ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong cộng đồng.
Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có được triển khai
mạnh mẽ, sâu rộng đúng hướng và đạt hiệu quả hay không phụ thuộc khá
nhiều vào những người này. Họ là, trưởng khu phố, trưởng họ, trưởng thơn,
những người có uy tín, có khả năng giác ngộ, tập hợp những người khác trong
cộng đồng, những người "cầm cân nảy mực" trong việc giải quyết các vấn đề
phát sinh hàng ngày của cộng đồng, những mối bất hịa, những tranh chấp...
Vì vậy, ngồi chủ thể là cán bộ, Chấp hành viên, cần thu hút đội ngũ
trưởng khu phố, trưởng họ, trưởng thôn, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của họ
trong việc tuyên truyền, GDPL là rất cần thiết có hiệu quả. Nếu các thành
phần này nắm chắc pháp luật, sẽ thúc đẩy hiệu quả việc phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp, loại trừ những hủ tục lạc hậu, thơng qua họ tác
động tới trình độ nhận thức pháp luật của từng người dân, dẫn dắt họ, giúp họ
hiểu và từng bước thực hiện pháp luật, thực hiện các qui ước của làng xã, khu

phố, xây dựng đời sống văn hóa mới... Như vậy, với lợi thế là uy tín của đội
ngũ trưởng khu phố, trưởng họ, trưởng thơn, họ có thể là các cộng tác viên rất
hiệu quả trong việc tuyên truyền GDPL. Để có thể thu hút được đội ngũ này
vào việc tun truyền GDPL thì địi hỏi các cơ quan chức năng cần có những
chính sách, chế độ và biện pháp nâng cao năng lực cho họ - đó là: Tổ chức bồi
dưỡng, trang bị kiến thức pháp luật cần thiết, tạo điều kiện cho đội ngũ sư cả,
trưởng họ, trưởng thôn tiếp cận, cập nhật những văn bản, những thông tin
pháp lý cần thiết như: Sử dụng tủ sách pháp luật ở cơ sở, tổ chức các lớp bồi
dưỡng, đào tạo ngắn hạn để có thể nâng cao hiểu biết của họ về pháp luật, có


24
chế độ, chính sách quan tâm ưu đãi, coi trọng và sử dụng đội ngũ sư cả,
trưởng họ, trưởng thôn, phát huy vai trò của họ, những người tiêu biểu có uy
tín lớn trong cộng đồng như Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Động viên
phát huy vai trò của những người tiêu biểu có uy tín trong dân tộc ở địa
phương" [18, tr.128].
1.2. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG NGHIỆP VỤ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN, CÁN BỘ THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ NGHĨA VỤ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.2.1. Nội dung của giáo dục pháp luật đối với người có nghĩa vụ
thi hành án dân sự
Việc xác định nội dung của GDPL là vấn đề đặc biệt quan trọng. Bởi
lẽ nội dung GDPL là gì, mức độ như thế nào cho từng loại đối tượng là vấn đề
cốt lõi quyết định hiệu quả của GDPL. Nói cách khác trên cơ sở mục đích và
đối tượng mà xác định một nội dung GDPL thiết thực để có hiệu quả cao.
Nội dung GDPL nói chung là một phạm vi rộng bao gồm kiến thức
pháp luật cơ bản như lý luận khoa học về pháp luật, các ngành luật, các văn
bản pháp luật thực định. Ngoài ra nội dung của GDPL cịn bao hàm các thơng

tin về việc thực hiện pháp luật, về việc điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân
sự, kinh tế, cả về nghiên cứu điều tra xã hội học pháp luật. Các thông tin
hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân như thực hiện quyền và
nghĩa vụ theo pháp luật, các quy định và thủ tục để bảo vệ lợi ích của Nhà
nước và xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân.
Để đạt hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục, thuyết phục đương sự
hiểu và tự giác chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự mà cụ thể là thực
hiện nghĩa vụ của mình theo Bản án, quyết định, chúng tôi cho rằng các biện
pháp tác động của đội ngũ CHV, cán bộ thi hành án lên đối tượng có nghĩa vụ
THADS thơng qua các nội dung chủ yếu như sau:


25
- Quyền hạn, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong việc chấp hành
nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Hiến pháp,
pháp luật.
- Lợi ích trong việc chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của
Tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền cũng như hậu quả về
mặt pháp lý (kể cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội có liên quan...) khi
khơng chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Quyền hạn, nghĩa vụ của cơ quan thi hành án dân sự, CHV, Thẩm tra
viên, Thư ký thi hành án trong thi hành án.
1.2.2. Phương pháp giáo dục pháp luật đối với người có nghĩa vụ
thi hành án dân sự
Đối tượng GDPL tiếp nhận được tri thức pháp luật và làm biến đổi về
chất trong nhận thức của họ thì bản thân mục đích và nội dung của GDPL
khơng thể tự nó đi vào nhận thức. Vấn đề là ở chỗ cần phải thông qua các
phương thức truyền tải thơng tin, các hình thức giao tiếp giữa chủ thể giáo
dục và đối tượng giáo dục bằng những hình thức và phương pháp khác nhau.
Nếu chủ thế giáo dục biết lựa chọn các hình thác và phương pháp nào

phù hợp với đối tượng thì giáo dục sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu hình thức
và phương pháp khơng phù hợp thì hiệu quả sẽ thấp. Giữa hình thức, phương
pháp và nội dung của GDPL cũng có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Hình
thức và phương pháp, nó có tác động làm cho việc truyền tải nội dung thấm
sâu vào nhận thức của đối tượng và nội dung đến lượt nó càng trở nên hồn
thiện hơn, thông qua việc truyền tải thông tin để bổ sung chương trình nội
dung GDPL.
Đối với hoạt động THADS, nhiều trường hợp nếu không thực hiện
giáo dục pháp luật cho người có nghĩa vụ thi hành án dân sự, có thể bản án,
quyết định của tịa án, có hiệu lực pháp luật vẫn được thi hành. Nhưng vấn đề
đó là hậu của quá trình thi hành án dân sự thì xã hội sẽ như thế nào, đi đến


×