Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Ths luat học tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.61 KB, 99 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người
kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em nói chung và bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên vi
phạm pháp luật nói riêng được Đảng và nhà nước ta hết sức coi trọng.
Người chưa thành niên vi phạm pháp luật là một chủ thể hết sức đặc
biệt, các em vừa là đối tượng vi phạm pháp luật, vừa là nạn nhân của sự
thiếu giáo dục, chăm sóc của gia đình, nhà trường và xã hội; các em bị xúi
giục, lừa dối... hoặc một phần là do xuất phát từ đặc điểm tâm lý đang phát
triển, nhân cách chưa được định hình, nhận thức chưa đầy đủ nên có hành vi
phạm tội.
Việt Nam - nước đầu tiên của châu Á và là nước thứ 2 trên thế giới
tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định: Mọi trẻ em bị cho là, bị cáo buộc
hoặc cơng nhận là phạm tội có quyền được đối xử theo cách thức phù hợp với
việc thúc đẩy ý thức về phẩm cách và phẩm giá của trẻ, để tăng cường sự tôn
trọng của trẻ đối với quyền con người và các quyền tự do cơ bản của người
khác, và có tính đến độ tuổi của trẻ cũng như mong muốn thúc đẩy q trình
tái hồ nhập xã hội cho các em. Quy tắc của Liên hợp quốc về đối xử với
người chưa thành niên bị tước quyền tự do quy định tất cả người chưa thành
niên trong các cơ sở quản lý giáo dục tập trung cần được chuẩn bị để giúp các
em trở về với xã hội, cuộc sống gia đình, đi học và tìm việc làm sau khi các ra
khỏi các cơ sở quản lý giáo dục. Cần xây dựng các thủ tục, trong đó có trả tự
do sớm và các tòa án đặc biệt để thực hiện được mục tiêu này
Người chưa thành niên vi phạm pháp luật là một hiện tượng thực tế, tồn
tại trong tất cả các xã hội. Trong 5 năm 2006-2010, tình hình tội phạm trong


2


lứa tuổi chưa thành niên diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Trung
bình hàng năm xảy ra trên 10.000 vụ vi phạm pháp luật với trên 13.000 đối
tượng, trong đó tập trung nhiều ở độ tuổi từ 16-18 tuổi. Đáng chú ý số người
chưa thành niên vi phạm pháp luật chủ yếu là những em bỏ học, bỏ nhà sống
lang thang (chiếm 40,9%). Tình trạng thanh thiếu niên tụ tập thành các băng,
nhóm, sử dụng dao lê, mã tấu đâm chém nhau, gây rối trật tự công cộng vẫn
chưa được kiềm chế; tình trạng bạo lực học đường diễn biến phức tạp, đáng
chú ý nhiều vụ trẻ em đánh nhau rồi ghi hình đưa Internet đã gây bức xúc
trong dư luận xã hội. Số vụ án do người chưa thành niên phạm tội lần thứ hai
trở lên vẫn chiếm tỷ lệ cao (chiếm 44.8%) điều đó khẳng định cơng tác phịng
ngừa trẻ em làm trái pháp luật ở cơ sở cịn nhiều tồn tại, thiếu sót 1.
Trong thực tiễn áp dụng các quy định về tái hòa nhập cộng đồng cho người
chưa thành niên vi phạm pháp luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự,
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em… đã nảy sinh nhiều vướng mắc và bất
cập, số người chưa thành niên vi phạm pháp luật tái phạm còn khá cao (44,8%).
Một số quy định còn chưa phù hợp với các khuyến nghị của Công ước quốc tế về
quyền trẻ em và các hướng dẫn của Liên hợp quốc. Qua quá trình nghiên cứu lý
luận và thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về tái hoà nhập cộng đồng
cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật, chúng tôi thấy, việc nghiên cứu sâu
lý luận và thực trạng, đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định về tái hoà nhập
cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam là vấn đề có
ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Những
phân tích trên đã đưa chúng tơi đến quyết định chọn đề tài "Tái hoà nhập cộng
đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam - Thực trạng
và giải pháp" cho luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ khi phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong áp dụng các nguyên
tắc của Công ước về quyền trẻ em vào pháp luật quốc gia và thực tiễn.



3
Trước khi chọn đề tài "Tái hoà nhập cộng đồng cho người chưa thành
niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" cho luận văn
thạc sĩ của mình, chúng tơi đã tham khảo một số nghiên cứu về đối với người
chưa thành niên vi phạm pháp luật như: Nguyễn Thu Huyền "Thủ tục xét xử
những vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và
thực tiễn" Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006;
Nguyễn Minh Đồng "Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người
chưa thành niên phạm tội của TAND tỉnh Bắc Ninh", Viện Nhà nước và pháp
luật, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2007; Lê Quý My
"Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự sơ thẩm đối với người
chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên", Viện Nhà
nước và pháp luật, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
2010; Nguyễn Thị Thanh Thủy "Vai trò của Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội trong đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện",Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, 2010 ... Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên mới chỉ đề cập đến
hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan chức năng trong các giai đoạn tố
tụng hình sự: điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với bị can, bị cáo là
người chưa thành niên hoặc gắn với một địa phương nhất định mà chưa có
cơng trình nào đề cập hay nghiên cứu đến vấn đề tái hoà nhập cộng đồng cho
người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Trong luận văn này, chúng tơi nghiên cứu tồn bộ các quy định liên
quan đến tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp
luật như Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và so sánh với chuẩn mực
quốc tế để đưa ra các khuyến nghị nhằm giúp cho người chưa thành niên vi
phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng hiệu quả, trở thành cơng dân có ích
cho xã hội.



4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
a. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng về tái hòa nhập cộng
đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam, luận văn góp
phần làm rõ những bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành, những vướng
mắc trong quá trình triển khai thực hiện, những quy định đã hoặc chưa phù
hợp với luật pháp quốc tế để đưa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành
văn bản mới phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, đưa ra các giải
pháp hữu hiệu để tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên vi phạm
pháp luật thành công.
b. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng về tái hoà nhập cộng
đồng người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam. Trong đó tập
trung nghiên cứu các vấn đề: khái niệm người chưa thành niên vi phạm pháp
luật; khái niệm tái hoà nhập cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm
pháp luật; các quy định của luật pháp Việt Nam và quốc tế về tái hòa nhập
cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật; nguyên nhân, tính
chất, mức độ vi phạm pháp luật của người chưa thành niên; các mơ hình tái
hồ nhập hiệu quả của quốc tế, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả tái hoà nhập cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật
ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong luận văn chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê....
- Thu thập các văn bản như Công ước quốc tế về Quyền trẻ em; Quy tắc
tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về quản lý tư pháp người chưa thành niên (Quy
tắc Bắc Kinh) được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 29 tháng 11 năm

1985; Hướng dẫn của LHQ về Phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành


5
niên được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 14 tháng 12 năm 1990 (Hướng
dẫn Riát); và Quy tắc của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
quyền tự do được Đại hội đồng LHQ thông qua vào ngày 14 tháng 12
năm1990 (Quy tắc 1990). Luật Hình sự 1999, Luật Tố tụng hình sự 2003,
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002.....Các tài liệu, bài viết, nghiên
cứu về người chưa thành niên vi phạm pháp luật, các mơ hình có hiệu quả
trong việc xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật của một số nước
trên thế giới.
- So sánh các quy định về tái hoà nhập cộng đồng người chưa thành
niên vi phạm pháp luật theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em và các hướng
dẫn của Liên hợp quốc với các quy định hiện hành của Việt Nam
- Phân tích những điều, khoản của pháp luật hiện hành và quá trình thi
hành pháp luật để tìm ra những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong tái hoà
nhập cộng đồng người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
- Thống kê tình hình tái hồ nhập cộng đồng của người chưa thành niên
vi phạm pháp luật qua các năm...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra đề xuất nhằm bảo đảm
quyền của người chưa thành niên, giúp họ tái hòa nhập với gia đình và cộng
đồng thành cơng, trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
5. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu:
- Các quy định của pháp luật hiện hành về tái hòa nhập cộng đồng cho
người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam, so sánh với Công ước
Quốc tế về Quyền trẻ em và các Hướng dẫn của Liên hợp quốc.
- Thực trạng tái hòa nhập cộng đồng người chưa thành niên vi phạm
pháp luật trong cả nước những năm gần đây.

- Các mơ hình tái hồ nhập hiệu quả.


6
6. Cơ sở khoa học của luận văn
a. Cơ sở lý luận
Phương pháp luận và phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b. Cơ sở thực tiễn
Tình hình tái hịa nhập cộng đồng người chưa thành niên vi phạm pháp
luật trên toàn quốc và các mơ hình tái hồ nhập cộng đồng người chưa thành
niên vi phạm pháp luật có hiệu quả trên thế giới.
7. Đóng góp khoa học của luận văn
- Đưa ra khái niệm "Người chưa thành niên vi phạm pháp luật", "tái hoà
nhập cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật".
- Hệ thống toàn bộ các quy định của pháp luật Việt Nam và quốc tế về
tái hoà nhập cộng đồng người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
- So sánh các quy định về tái hoà nhập cộng đồng người chưa thành
niên vi phạm pháp luật của Việt Nam với các quy định của quốc tế để tìm ra
những điểm hài hịa, những bất cập cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
- Cập nhật số liệu về tái hoà nhập cộng đồng người chưa thành niên vi
phạm pháp luật trên toàn quốc trong những năm gần đây.
- Tham khảo các mơ hình tái hoà nhập cộng đồng người chưa thành
niên vi phạm pháp luật có hiệu quả trên thế giới.
- Khuyến nghị, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tái hoà nhập cộng
đồng người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết.



7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG
CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên vi phạm pháp luật
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí
tuệ, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi
quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên khác nhau.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989 có ghi: “Trong phạm vi
Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt
Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến
Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp
luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy
định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong
từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều
1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân
Việt Nam dưới 16 tuổi”. Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên
quan đến người chưa thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United
Nations Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp
quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United Nations
Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing



8
Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm
pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for the Prevention
of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan
niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên
(Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến
24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành
niên và thanh niên.
Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là
từ 10 đến 15 tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ
15 đến 30 tuổi. Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu
niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên
được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát
triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích
cho xã hội.
Điều 18 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: "Người từ đủ mười tám
tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người
chưa thành niên", Bộ luật lao động Việt Nam cũng quy định: "Người lao
động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi". Theo quy định của Bộ luật
hình sự thì người chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi, nhưng
chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn người chưa thành niên
dưới 14 tuổi thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, người từ
đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,
còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm (Điều 12 của Bộ luật hình sự).
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định Điều 7 về xử lý người
chưa thành niên, trong đó "Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành



9
chính thì bị phạt cảnh cáo. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành
chính thì có thể bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính quy định tại
Điều 12 của Pháp lệnh....". Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa
vào trường giáo dưỡng được áp dụng đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18
tuổi (Điều 23, 24 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính).
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về người chưa thành niên vi
phạm pháp luật như sau: “Người chưa thành niên vi phạm pháp luật là người
dưới 18 tuổi thực hiện hành vi vi phạm các quy định của pháp luật".
Việc xác định tuổi của người chưa thành niên vi phạm pháp luật rất
quan trọng vì đây là căn cứ để áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn,
xử lý nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên.
1.1.2. Khái niệm Tái hoà nhập cộng đồng cho người chưa thành
niên vi phạm pháp luật
Quá trình tái hồ nhập xã hội tồn diện điển hình bắt đầu ngay từ khi
người chưa thành niên chấp hành biện pháp xử lý ở trường giáo dưỡng, cơ sở
giam giữ và được tiếp tục trong một khoảng thời gian nhất định sau khi các
em trở về nhà. Như vậy, quá trình tái hịa nhập xã hội thực tế diễn ra qua hai
giai đoạn:
Một là, chuẩn bị tái hòa nhập xã hội cho người chưa thành niên vi phạm
pháp luật trước khi được trả tự do, tức là trong thời gian các em đang ở trường
giáo dưỡng, cơ sở giam giữ. Trong giai đoạn này, các em tham gia các chương
trình giáo dục, dạy nghề và hướng nghiệp, được tiếp cận với các dịch vụ và
chương trình khác nhằm giúp cho các em phát triển các kỹ năng cần thiết để
giải quyết các vấn đề, các yếu tố nguy cơ đã dẫn tới hành vi vi phạm pháp luật
của họ và trang bị những kỹ năng cần thiết cho họ để thực hiện tốt chức năng
xã hội của mình và chuẩn bị tái tham gia vào xã hội. Các chiến lược can thiệp
như: tư vấn, điều trị nghiện ma tuý, các chương trình kỹ năng sống, đào tạo

nghề và tư vấn việc làm được thực hiện nhằm mục đích phịng ngừa vi phạm


10
pháp luật thông qua việc tạo ra sự thay đổi hành vi cá nhân và trang bị tốt hơn
cho người chưa thành niên để trở thành công dân tuân thủ pháp luật
Hai là, tái hòa nhập xã hội cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật
tại cộng đồng, tức là sau khi các em trở về. Ở giai đoạn này, các nội dung tái
hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên được thực hiện trên thực tế.
Như chúng ta đều biết, giai đoạn ngay sau khi mới được trở lại cộng đồng là
giai đoạn nguy cơ cao nhất đối với người chưa thành niên, khi các em phải vật
lộn với những gian khổ, khó khăn nhất của việc tái thích nghi, như: sự định
kiến, thiếu tin tưởng của chính quyền và quần chúng xung quanh khiến các
em bi quan, mặc cảm về lỗi lầm của mình, chán nản, thiếu tự tin để làm lại
cuộc đời; khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm; nguy cơ bị bạn bè xấu và
những thói hư tật xấu rình rập, lơi kéo. Trong hồn cảnh như vậy thì thái độ,
tình cảm của gia đình và người thân là rất quan trọng, làm chỗ dựa tinh thần
cho các em khi trở lại cuộc sống xã hội thường nhật, giúp cho các em vượt
qua những trở ngại trên con đường bắt đầu cuộc sống mới. Đây cũng là giai
đoạn đòi hỏi phát huy vai trị của chính quyền địa phương và các đồn thể xã
hội trên địa bàn, nhằm tạo điều kiện về ăn ở, làm việc, học tập cũng như các
điều kiện cần thiết khác cho các em hòa nhập được thuận lợi, giúp các em dần
lấy lại được sự tự tin, xóa dần mặc cảm để phấn đấu vươn lên trở thành người
có ích cho gia đình và xã hội, ngăn ngừa tái phạm. Vì vậy, các chương trình
tái hịa nhập xã hội cho các em đều xác định mục tiêu là phải bảo đảm quá
trình chuyển tiếp càng liền mạch càng tốt, từ trường giáo dưỡng, cơ sở giam
giữ về gia đình và cộng đồng. Nhờ vậy mà những gì tốt đẹp các em thu nhận
được trong thời gian ở trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ có thể được tiếp tục
củng cố và phát triển tại cộng đồng.
Như vậy, có thể hiểu: Tái hoà nhập cộng đồng cho người chưa thành

niên vi phạm pháp luật là quá trình người chưa thành niên vi phạm pháp luật
trong và sau khi chấp hành xong biện pháp giáo dục ở trại giam, trường giáo


11
dưỡng, hoặc cơ sở chữa bệnh được gia đình, xã hội và được cộng đồng chấp
nhận, không phân biệt, kỳ thị.
1.2. LỊCH SỬ LẬP PHÁP QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI
PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM

1.2.1. Giai đoạn trước năm 1985
Giai đoạn này không quy định về tái hòa nhập cộng đồng cho người
chưa thành niên vi phạm pháp luật nhưng đã có những quy định về người
chưa thành niên vi phạm pháp luật, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và hình
thành quan điểm các em vi phạm pháp luật là do bị người khác lôi kéo, tổ
chức, xúi giục.
Chỉ thị số 46-TH ngày 14-01-1969 của Tòa án nhân dân tối cao về việc
tăng cường và phát huy hơn nữa tác dụng của cơng tác Tịa án trong cơng tác
bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ tài sản của Nhà nước và quản lý thị trường đã
quy định: “Nói chung, đối với trẻ em hư dưới 14 tuổi thì khơng đưa ra Tòa
án xét xử; từ 14 tuổi đến 18 tuổi, nếu trường hợp phạm pháp cần thiết phải
đưa ra xét xử thì có châm chước đến tuổi cịn non trẻ của chúng; riêng đối
với loại từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ nên xét xử trong những trường hợp
phạm tội nghiêm trọng”. Quy định tiến bộ này về sau đã được các nhà lập
pháp tiếp thu và đã chính thức ghi nhận trong Bộ luật hình sự năm 1985 và
Bộ luật hình sự 1999.
Ngày 14 tháng 11 năm 1979 Chủ tịch nước công bố Pháp lệnh số
16/LCT về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Điều 21 Pháp lệnh quy định
“Cha mẹ phải chịu trách nhiệm dân sự về những hành vi của con mình ở tuổi

trẻ em đã gây thiệt hại cho người khác. Những người lôi kéo, tổ chức, xúi
giục trẻ em phạm pháp thì tùy mức độ nhẹ, nặng sẽ bị xử lý bằng biện pháp
hành chính hoặc bị truy tố và phạt về hình sự”.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999


12
Giai đoạn này mặc dù các chế định về người chưa thành niên vi phạm
pháp luật đã được quy định khá đầy đủ trong Bộ luật hình sự 1985 (Chương
VII. Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội) như: quy định
về nguyên tắc cơ bản về xử lý những hành vi phạm tội của người chưa thành
niên, các biện pháp tư pháp và hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội, buộc phải chịu thử thách, đưa vào trường giáo dưỡng, cải tạo không giam
giữ, tù có thời hạn, tổng hợp hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt,
xố án. Nhưng các quy định riêng về tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa
thành niên vi phạm pháp luật vẫn còn mờ nhạt.
Khoản 5 Điều 3 Bộ luật hình sự 1985 quy định chung cả người thành
niên và người chưa thành niên như sau: “Đối với người đã chấp hành xong
hình phạt thì tạo điều kiện cho họ làm ăn, sinh sống lương thiện; khi họ có đủ
điều kiện do luật định thì xố án”.
Điều 59 Bộ luật quy định về nguyên tắc cơ bản xử lý những hành vi
phạm tội của người chưa thành niên, quy định: Việc xử lý hành vi phạm tội
của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Đối với
người chưa thành niên phạm tội, Viện kiểm sát và Toà án áp dụng chủ yếu
những biện pháp giáo dục, phịng ngừa; gia đình, nhà trường và xã hội có
trách nhiệm tham gia tích cực vào việc thực hiện những biện pháp ấy. Viện
kiểm sát có thể quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa
thành niên phạm tội nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại khơng
lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình và tổ chức xã hội nhận

trách nhiệm giám sát, giáo dục. Chỉ đưa người chưa thành niên phạm tội ra
xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ trong những trường hợp cần thiết, căn
cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về
nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa. Án đã tuyên đối với người phạm


13
tội khi chưa đủ 16 tuổi thì khơng tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm
nguy hiểm.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1999 đến nay
Giai đoạn này các chế định về người chưa thành niên vi phạm pháp luật
và tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật đã
tương đối đầy đủ và hoàn thiện.
Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng quy định cần xây
dựng các chương trình đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho phạm nhân sau
khi được trả tự do để giúp đỡ họ nhanh chóng tái hồ nhập cộng đồng. Chỉ thị
số 53/CT-TW ngày 21 tháng 3 năm 2000 của Bộ Chính trị quy định một số
nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan tư pháp cũng chỉ rõ: “cần nâng cao vai trò
và trách nhiệm của gia đình phạm nhân, chính quyền các cấp, mặt trận tổ
quốc và các tổ chức đoàn thể, các tổ chức đảng và cộng đồng dân cư trong
việc trợ giúp, quản lý, giáo dục và hỗ trợ người được ra tù hoà nhập cộng
đồng. Việc giao trách nhiệm cho từng cơ quan, và đoàn thể xã hội (Đoàn
thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nơng dân, Cơng đồn, Mặt
trận tổ quốc) các cấp trợ giúp cho phạm nhân được ra tù sẽ được coi là một
tiêu chí đánh giá các kết quả hàng năm.”
Các nguyên tắc xử lý hình sự và hành chính đối với người chưa thành
niên vi phạm pháp luật đều hướng tới việc cải tạo, giáo dục nhiều hơn là
trừng phạt các em. Đây cũng là một trong những thiết chế thể hiện bản chất
nhân đạo của Nhà nước ta và nhằm giúp các em có cơ hội tái hịa nhập
cộng đồng thành cơng. Khoản 1 Điều 69 Luật Hình sự Việt Nam 1999 quy

định "Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có
ích cho xã hội".
Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho người chưa thành niên vi phạm
pháp luật tái hoà nhập cộng đồng, pháp luật đã có các quy định về đào tạo


14
nghề, dạy văn hóa; đảm bảo mối liên hệ thường xuyên giữa các em với gia
đình và cộng đồng, cụ thể:
Điều 308 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 quy định "Người
chưa thành niên bị kết án phải được học nghề hoặc học văn hoá trong thời
gian chấp hành hình phạt tù",
Theo Khoản 2 Điều 22 và Khoản 1 Điều 25 Nghị định số 113/2008/NĐCP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành Quy chế trại giam quy định
phạm nhân là người chưa thành niên được phổ cập tiểu học. Căn cứ vào điều
kiện cụ thể của trại giam. Giám thị trại giam sắp xếp thời gian học văn hóa
cho phạm nhân là người chưa thành niên, mỗi tuần học 3 buổi, mỗi buổi học 4
giờ trong thời gian làm việc. Tất cả phạm nhân đều được nghe phổ biến thời
sự, chính sách, được học các chương trình giáo dục công dân vào thứ bảy
hàng tuần (mỗi buổi học 4 giờ). Phạm nhân được học nghề phù hợp với điều
kiện cụ thể của trại giam. Việc dạy nghề cho phạm nhân là người chưa thành
niên là bắt buộc. Thời gian học nghề được tính vào thời gian lao động.
Điều 8 Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện
pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt
tù quy định: các phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù được giáo dục, hỗ
trợ các thủ tục pháp lý, được tư vấn, trợ giúp về tâm lý nhằm định hướng và
nâng cao khả năng tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc của bản thân khi
chấp hành xong án phạt tù; được định hướng nghề nghiệp, nâng cao khả năng
tìm kiếm việc làm.
Riêng đối với phạm nhân là người chưa thành niên sắp chấp hành xong án

phạt tù thì được ưu tiên bố trí học nghề, nâng cao tay nghề để có điều kiện thuận
lợi tái hịa nhập cộng đồng (Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 80/2011/NĐ-CP).
Khoản 19 Điều 1 Nghị định số 66/2009/NĐ-CP ngày 01/8/2009 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày
24/11/2003 quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong trường


15
giáo dưỡng quy định học sinh trường giáo dưỡng được học văn hóa theo
chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc học văn hóa đối với học
sinh chưa phổ cập giáo dục là bắt buộc. Đối với những học sinh khác thì
tùy theo khả năng và điều kiện thực tế của trường mà tổ chức học tập. Đối
với học sinh trường giáo dưỡng, trước khi vào trường đã bỏ học, khơng có
hồ sơ, học bạ thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phối hợp với Phòng giáo
vụ cấp huyện nơi trường giáo dưỡng đóng tổ chức kiểm tra kiến thức hai
mơn văn và tốn bằng hình thức kiểm tra viết. Căn cứ vào kết quả kiểm tra
kiến thức, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng quyết định xếp lớp học văn hóa
cho phù hợp. Quyết định này thay cho học bạ những năm trước đã mất để
xét tốt nghiệp cho học sinh.
Ngồi việc học văn hóa, học sinh phải được học tập chương trình giáo
dục cơng dân, giáo dục hướng nghiệp, học nghề và các chương trình giáo dục
khác do Bộ Cơng an quy định. Trường giáo dưỡng có trách nhiệm tổ chức cho
học sinh thi học kỳ, kết thúc năm học, chuyển cấp, thi tuyển chọn học sinh
giỏi, thi vào lớp chuyên và cấp chứng chỉ hoặc bằng tốt nghiệp tương ứng với
chương trình học cho học sinh theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Sổ điểm, học bạ, hồ sơ và các biểu mẫu liên quan đến việc giảng dạy và
học tập ở trường giáo dưỡng phải theo mẫu chung thống nhất của Bộ Giáo
dục và Đào tạo và Bộ Công an. Văn bằng, chứng chỉ học văn hóa, học nghề
trong các trường giáo dưỡng có giá trị như văn bằng, chứng chỉ của các
trường phổ thơng.

Nghị định này cũng quy định ngồi giờ học văn hóa, học nghề, lao
động, trường giáo dưỡng phải tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao, đọc sách, báo, xem truyền hình và các hoạt động vui chơi giải
trí khác cho học sinh. Mỗi trường giáo dưỡng được thành lập một thư viện,
mỗi phân hiệu của trường được thành lập một phòng đọc sách, báo, khu vui
chơi, nhà luyện tập thể dục, thể thao, sân thể thao để học sinh rèn luyện thể


16
lực; được trang bị hệ thống truyền thanh, truyền hình cáp nội bộ. Mỗi phòng ở
tập thể được trang bị một vơ tuyến truyền hình màu 21 inches, được phát một
tờ báo thanh niên và một báo hoa học trò (Khoản 20 Điều 1 Nghị định số
66/2009/NĐ-CP).
Nghị định số 81/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định chế độ ăn, mặc,
chăm sóc và quản lý học sinh trường giáo dưỡng trong đó quy định “Chế độ
chăm sóc, quản lý học sinh trường giáo dưỡng thực hiện theo quy định tại các
Điều 25 Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 quy định
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và quy
định các khoản 17, 18, 19, 20, điểm 1 khoản 21, khoản 23 Điều 1 Nghị định
số 66/2009/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2009 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 quy định
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và quy
định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 118/2010/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm
2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định về áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng” và Bãi bỏ các Điều 17,
18 và 19 Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 8 năm 2001 về hướng
dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa người vào trường giáo dưỡng.
Điều 42, 43 và Điều 44 Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004
của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa
bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm

hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự
nguyện vào cơ sở chữa bệnh quy định: người chưa thành niên trong Trung
tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội được học văn hố theo chương
trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc học văn hoá đối với người chưa phổ
cập giáo dục tiểu học là bắt buộc; đối với những đối tượng khác thì tùy thuộc
khả năng và điều kiện thực tế của Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao
động xã hội mà tổ chức học tập theo quy định của pháp luật. Trung tâm phối


17
hợp với cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo tại địa phương tổ chức thi học
kỳ, kết thúc năm học, chuyển cấp, tuyển chọn học sinh giỏi và cấp văn bằng
chứng chỉ học văn hoá, học nghề theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Sổ điểm, học bạ, hồ sơ và các biểu
mẫu liên quan đến việc giảng dạy và học tập ở Trung tâm Chữa bệnh - Giáo
dục - Lao động xã hội phải theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Ngoài giờ học tập, chữa bệnh, người chưa thành niên phải tham gia lao động
trị liệu do Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội tổ chức. Trung
tâm có trách nhiệm sắp xếp cơng việc lao động trị liệu phù hợp với lứa tuổi và
sức khoẻ của người chưa thành niên để bảo đảm sự phát triển bình thường về
thể chất, trí tuệ và đạo đức của người chưa thành niên.
Pháp luật cũng quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành hữu quan
như: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội trong cơng tác đào tạo nghề, giáo dục
văn hố cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật trong các trường giáo
dưỡng và cơ sở giam giữ (Điều 23 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù; các Điều
47, 48, 49, 50 Nghị định số 142/2003/NĐ-CP; các Điều 28, 29 Nghị định số
52/2001/NĐ-CP. Khoản 26 Điều 1 Nghị định số 66/2009/NĐ-CP).
Để chuẩn bị cho các em đã hết hạn ở trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ
trở về với gia đình và cộng đồng, pháp luật đã có những quy định về liên hệ

với gia đình và chính quyền địa phương, trách nhiệm của cơ quan thi hành án
phạt tù và của chính quyền địa phương, sự tham gia, phối hợp của gia đình
phạm nhân trong việc hỗ trợ, giáo dục, tạo điều kiện để người chưa thành niên
tái hòa nhập vào cộng đồng xã hội sau khi ra khỏi trại giam, trại tạm giam
hoặc trường giáo dưỡng.
Điều 308 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 23 Điều 1 Nghị định số
66/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/
NĐ-CP ngày 24/11/2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử


18
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng; Điều 21, 23 Nghị định số
52/2001/NĐ-CP; Điều 58 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; các
Điều 23, 25, 30, 32 và 33 của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù. Các quy định
này được cụ thể hoá tại Khoản 3 Điều 14, Điều 27, 28 Nghị định số
113/2008/NĐ-CP.
Điều 308 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 quy định "Đối với
người chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt tù, Ban giám thị trại giam
phải phối hợp với chính quyền và tổ chức xã hội ở xã, phường, thị trấn để
giúp người đó trở về sống bình thường trong xã hội".
Điều 58 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định "Trẻ em vi
phạm pháp luật đã bị xử lý bằng biện pháp hành chính, hình sự cách ly khỏi
cộng đồng trong một thời gian nhất định, khi trở về gia đình được Uỷ ban
nhân dân cấp xã phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện, giúp
đỡ tiếp tục học văn hố, học nghề và hỗ trợ tìm việc làm. Trường hợp trẻ em
đã chấp hành xong thời hạn giáo dục hoặc hình phạt mà khơng có nơi nương
tựa thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đưa vào cơ sở trợ giúp trẻ em có hồn cảnh
đặc biệt, tạo điều kiện để được học nghề và có việc làm".
Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 của
Chính phủ ban hành Quy chế trại giam quy định “Hai tháng trước khi phạm

nhân hết hạn chấp hành hình phạt tù, Giám thị trại giam thông báo trước bằng
văn bản về kết quả thi hành án và những thông tin cần thiết khác về phạm
nhân cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức đơn vị nơi phạm
nhân trở về sinh sống để có điều kiện sắp xếp, tạo lập cuộc sống bình thường
cho họ. Đối với phạm nhân là người nước ngồi, Giám thị trại giam phải gửi
thơng báo các nội dung nói trên bằng văn bản cho cơ quan lãnh sự của Bộ
Ngoại giao Việt Nam để thông báo cho cơ quan đại diện của nước mà phạm
nhân mang quốc tịch. Trường hợp người chấp hành xong hình phạt tù khơng
rõ q qn, khơng cịn người thân thích hoặc cơ quan, đơn vị cũ khơng tiếp


19
nhận và bản thân họ khơng có chỗ ở khác thì Giám thị liên hệ với chính
quyền địa phương, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội … hoặc trại có thể tiếp
nhận họ sinh sống và lao động theo nguyện vọng”.
Ngày 16/9/2011, Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2011/NĐ-CP
quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người
chấp hành xong án phạt tù. Nghị định này quy định cụ thể các điều kiện,
biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong
án phạt tù; trách nhiệm của các Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc bảo đảm tái hòa nhập cộng
đồng cho người chấp hành xong án phạt tù. Nghị định này áp dụng đối với
phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam,
nhà tạm giữ; người được đặc xá, người chấp hành xong án phạt tù đã trở về
cộng đồng (gọi chung là người chấp hành xong án phạt tù) và tổ chức, cá
nhân có liên quan đến việc bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho người
chấp hành xong án phạt tù.
Khoản 1 Điều 4 Nghị định này quy định người chấp hành xong án phạt
tù có quyền: được chính quyền địa phương và cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân tạo điều kiện giúp đỡ để tái hòa nhập cộng đồng; được đăng ký thường

trú, tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú; được quyền u cầu Tịa án
có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận xóa án tích khi có đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật và được đề nghị cấp Phiếu lý lịch tư pháp khi có nhu cầu.
Đối với người chấp hành xong án phạt tù thì được thơng tin, truyền
thơng giáo dục về hịa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù;
được giáo dục, giúp đỡ tái hòa nhập cộng đồng; dạy nghề, giải quyết việc làm
trợ giúp về tâm lý và hỗ trợ các thủ tục pháp lý và các biện pháp hỗ trợ khác.
Riêng đối với người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù thì
được ưu tiên học văn hóa, học nghề, giải quyết việc làm và hỗ trợ vay vốn để


20
học tập, tìm kiếm việc làm ổn định cuộc sống (khoản 2 Điều 14 Nghị định số
80/2011/NĐ-CP).
Đối với người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người đã chấp hành
xong quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh có trách nhiệm phối hợp với Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tiếp tục quản lý, giáo dục, tạo
điều kiện để người đó có việc làm và ổn định cuộc sống, tái hoà nhập cộng
đồng (Khoản 3 Điều 68 Nghị định số 135/2004/NĐ-CP).
Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để tái hoà nhập cộng đồng cho
người chưa thành vi phạm pháp luật thành công.
Pháp luật quy định Uỷ ban nhân dân địa phương, các tổ chức đoàn thể,
và người trong gia đình có trách nhiệm giúp đỡ người chưa thành niên tái
hòa nhập. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thường xuyên hướng
dẫn và chỉ đạo cho Uỷ ban nhân dân cấp huyện và xã trong việc khuyến
khích những người trở về từ trại giam và trường giáo dưỡng tiếp tục học tập
hoặc tìm việc làm ở cộng đồng. Gia đình có trách nhiệm phối kết hợp với
các cơ quan có liên quan từ khi người bị kết án chấp hành hình phạt cho đến
khi họ trở về cộng đồng. Bên cạnh đó, luật pháp Việt Nam còn chú trọng đến

trách nhiệm của nhà trường với các đối tượng này; tất cả các văn bản có liên
quan đến tái hòa nhập đều quy định nhà trường cần phối hợp với các cơ
quan có liên quan trong cơng tác giáo dục đạo đức, văn hố và pháp luật cho
người chưa thành niên.
Trong các trường hợp trẻ em vi phạm pháp luật đã đáp ứng được các
yêu cầu giáo dục hoặc đã chấp hành xong hình phạt nhưng khơng có nhà để
quay về, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải đưa những em này vào các cơ sở
dành cho trẻ em có hồn cảnh đặc biệt để các em được tạo các điều kiện học
nghề và tìm việc làm.


21
1.3. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ QUY ĐỊNH VỀ TÁI HÒA NHẬP
CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT

Quy tắc của Liên hợp quốc về đối xử với người chưa thành niên bị tước
quyền tự do quy định tất cả người chưa thành niên trong các cơ sở quản lý
giáo dục tập trung cần được chuẩn bị để giúp các em trở về với xã hội, cuộc
sống gia đình, đi học và tìm việc làm sau khi các ra khỏi các cơ sở quản lý
giáo dục. Cần xây dựng các thủ tục, trong đó có trả tự do sớm và các tòa án
đặc biệt để thực hiện được mục tiêu này.
Sau khi được trả tự do, cơ quan có thẩm quyền phải cung cấp hoặc đảm
bảo các dịch vụ trợ giúp cho người chưa thành niên tái hoà nhập xã hội và
giảm bớt định kiến với các em. Ở mức độ cho phép, các dịch vụ này cần đảm
bảo người chưa thành niên được cung cấp nơi cư trú, công ăn việc làm, quần
áo phù hợp, và đủ các phương tiện hỗ trợ bản thân. Cần tham khảo ý kiến đại
diện của các cơ quan cung cấp dịch vụ này và người chưa thành niên cần tiếp
cận với các dịch vụ này khi các em còn ở các cơ sở giáo dục tập trung với
mục đích trợ giúp các em trở về với cộng đồng.
Quy tắc của Liên hợp quốc về việc bảo vệ người chưa thành niên bị

tước quyền tự do 1991 - “Quy tắc 1991”. Quy tắc 1991 đưa ra các nguyên
tắc hướng dẫn về điều kiện và việc đối xử với người chưa thành niên bị
tước quyền tự do một cách đầy đủ và toàn diện. Các quy tắc này được áp
dụng với tất cả người chưa thành niên bị đưa vào các cơ sở quản lý giáo
dục tập trung (trại giam, trại cải tạo, trung tâm giáo dục, bảo vệ hoặc phục
hồi) theo lệnh của bất kỳ cơ quan tư pháp, hành chính hoặc cơ quan cơng
quyền nào.
Trọng tâm của Quy tắc 1991 là nhằm bảo đảm việc tước quyền tự do
không dẫn đến việc vi phạm hoặc tước các quyền khác mà những người dưới
18 tuổi được hưởng theo Công ước về quyền trẻ em. Các quy tắc này nhấn
mạnh: người chưa thành niên có quyền hưởng sự giáo dục và được đào tạo


22
nghề để chuẩn bị cho mình có việc làm trong tương lai. Tại bất cứ nơi nào có
điều kiện, sự giáo dục đó cần được thực hiện ở các trường thuộc cộng đồng
nằm ngoài cơ sở giam giữ. Trong bất kỳ trường hợp nào, người chưa thành
niên có quyền lựa chọn ngành nghề mà các em học, và công tác đào tạo nghề
cần được thiết kế để chuẩn bị cho các loại hình cơng việc mà cộng đồng đang
có nhu cầu. Người chưa thành niên cần được hỗ trợ khi các em trở về với gia
đình và xã hội, được ưu tiên đi học và tìm việc làm sau khi chấp hành xong
biện pháp giáo dục. Nên áp dụng việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành
phần thời gian còn lại tại các cơ sở quản lý giáo dục tập trung, hỗ trợ và giám
sát người chưa thành niên ở cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp này.
Chính quyền các cấp phải cung cấp và đảm bảo các dịch vụ hỗ trợ cho người
chưa thành niên khi trở về cộng đồng và giảm bớt các định kiến đối với các
em. Đại diện của cơ quan cung cấp các dịch vụ này cần được tiếp cận với
người chưa thành niên khi các em bị giam giữ nhằm hỗ trợ các em khi trở về
cộng đồng.
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về quản lý tư pháp (Quy

tắc Bắc Kinh 1985) quy định các nước thành viên cần cung cấp các cơ sở bán
giam giữ như “nhà mở”, cơ sở giáo dục, trung tâm đào tạo ban ngày và các cơ
sở phù hợp khác có thể giúp người chưa thành niên hòa nhập phù hợp với xã
hội. Quy tắc nhấn mạnh cần có nhiều cơ sở và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu
khác nhau của người chưa thành niên khi các em về với cộng đồng, hướng
dẫn và hỗ trợ các em tái hòa nhập xã hội thành công.
Người chưa thành niên vi phạm pháp luật có thể gặp phải rất nhiều thử
thách khi các em cố gắng để chuyển đổi từ một cơ sở khép kín, có tổ chức cao
về với cuộc sống bình thường tại cộng đồng.
Sau khi có "tiền án, tiền sự", rồi được đưa vào sống chung với hàng
trăm người chưa thành niên khác cùng có tiểu sử vi phạm pháp luật như các
em, nhiều em đơn giản là đã học được cách để trở thành kẻ phạm tội kỹ xảo


23
hơn. Môi trường được tổ chức và quản lý chặt chẽ của một cơ sở tập trung,
trên nhiều phương diện, không chuẩn bị cho người chưa thành niên sống một
cuộc sống độc lập địi hỏi phải có kỷ luật với bản thân và có động cơ. Thời
hạn phạt tù càng dài thì càng làm tăng cảm giác bị cơ lập và mặc cảm đã từng
bị đưa vào cơ sở giam giữ của người chưa thành niên cũng như càng làm
giảm mối liên hệ của các em với gia đình và cộng đồng.
1.4. CÁC MƠ HÌNH TÁI HỊA NHẬP CỘNG ĐỒNG HIỆU QUẢ Ở VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

1.4.1. Mơ hình tái hịa nhập cộng đồng hiệu quả ở Việt Nam
Mơ hình 1: Mơ hình phịng ngừa, quản lý, giáo dục
trẻ em vi phạm pháp luật tại cộng đồng của Uỷ ban
nhân dân xã Yên Nam, Duy Tiên, Nam Hà
Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã xác định cơng tác phịng ngừa, giáo dục
và quản lý trẻ em vi phạm pháp luật “là một nhiệm vụ quan trọng, phải làm

thường xuyên và lâu dài.”
Một chiến lược được đưa ra là:
- Cấp Uỷ lãnh đạo và chỉ đạo chính quyền địa phương từ xã đến thơn
xóm đã tiến hành tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ đảng và nhân
dân về chủ trương, biện pháp, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của cơng tác
này bằng nhiều hình thức như in ấn các tài liệu liên quan đến cơng tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em.
- Cơng an xã phối hợp với các ban, ngành, đồn thể, thơn xóm khảo sát
tồn bộ tình hình trẻ em để nắm chắc và phát hiện trẻ em có biểu hiện vi phạm.
- Đánh giá, phân loại từng em để có biện pháp quản lý, giáo dục số trẻ
em có biểu hiện làm trái pháp luật.
- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm của từng em để có
biện pháp quản lý, giáo dục phù hợp.


24
- Đẩy mạnh các phong trào thi đua học tập và tổ chức các nhóm giúp
bạn ở các trường tiểu học và trung học cơ sở.
- Tổ chức phong trào văn hoá, thể thao, vui chơi để thu hút thanh thiếu
niên tham gia, đặc biệt trong các dịp hè.
- Đẩy mạnh công tác quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, phòng ngừa
đấu tranh trấn áp tội phạm, đẩy lùi tệ nạn xã hội, bảo đảm tốt tình hình an
ninh trật tự không để tội phạm và tệ nạn xã hội xâm hại đến trẻ em.
- Tổ chức gặp gỡ, vận động giao trách nhiệm cho từng gia đình có con
em vi phạm pháp luật để nâng cao trách nhiệm của những người làm bố, làm
mẹ trong việc dạy dỗ, chăm sóc con cái.
- Phân cơng trách nhiệm cho từng đồn thể nhận giúp đỡ, giáo dục
những em có biểu hiện vi phạm.
Các công việc được tiến hành như sau:
- Công an xã khảo sát và lập danh sách 16 em trong đó 9 em vi phạm

pháp luật (trộm cắp tài sản công dân, gây gổ đánh nhau, gây thương tích,
cưỡng đoạt tài sản, trêu chọc phụ nữ; số cịn lại bỏ học, bỏ nhà lêu lổng, la cà
hàng quán).
- Công an đánh giá phân loại mức độ vi phạm và nguyên nhân dẫn đến
vi phạm của từng trường hợp (hiện nay, liên quan đến những hành vi vi phạm
pháp luật; phạm tội của người chưa thành niên, công an là những người chịu
trách nhiệm chính, họ chính thức làm việc với người chưa thành niên. Cán bộ
các đoàn thể chỉ là lực lượng hỗ trợ trong việc giáo dục các em).
- Cơng an phối hợp với chính quyền địa phương (tổ trưởng tổ dân
phố/trưởng thơn) và cán bộ đồn thể (đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh, hội
phụ nữ…). Thực hiện nhiều biện pháp giáo dục, thuyết phục, động viên, cảm
hóa như: đến nhà gặp gỡ, nói chuyện như là một hình thức tư vấn cho các em;
nêu những tấm gương tốt của các bạn ở địa phương, động viên và tạo điều
kiện cho các em quay lại trường học bình thường hoặc đến các lớp học tình


25
thương (nếu có ở địa phương). Đối với trường hợp các em lớn tuổi (trên 15
tuổi) giới thiệu các em đến các lớp học nghề hoặc vào các cơ sở lao động thủ
cơng. Trong thời gian này có những người giám sát các em (theo kết quả
nghiên cứu ở Hải Phịng).
- Giáo dục bằng các hình thức kết hợp chặt chẽ gia đình, nhà trường, xã
hội (các đồn thể xã hội)
Kết quả:
- Bước đầu 6 trong 9 em đã có sự tiến bộ rõ rệt. Từ học sinh cá biệt,
nhiều em đã trở thành học sinh khá, giỏi, nhiều em làm cán bộ đội, cán bộ
lớp, các em không chơi bời lêu lổng, ngồi giờ học cịn giúp đỡ gia đình tham
gia các hoạt động thể thao, văn nghệ.
- Nhận thức và trách nhiệm làm cha, làm mẹ của nhiều người được
nâng cao.

- Sau hai năm thực hiện mơ hình ở xã đã đạt được những thành tích
đáng kể: các đồn thể quần chúng, các ngành và gia đình đã tích cực tham
gia, nhận thức tốt hơn và có trách nhiệm cao hơn trong giáo dục con cái. Trẻ
em trong xã không nghiện ma tuý, không tham gia buôn bán ma t. Chín em
được quản lý và giúp đỡ khơng tái phạm.
Mơ hình 2: Mơ hình giáo dục trẻ em chưa ngoan, vi phạm pháp luật
Đây là mơ hình quản lý trẻ em chưa ngoan, vi phạm pháp luật của công
an phường Nguyễn Du, thành phố Nam Định và phường Trại Cau, Quận Lê
Chân, thành phố Hải phịng. Mục đích chính của mơ hình này là phối hợp
chặt chẽ giữa công an và các tổ chức xã hội, theo dõi và hỗ trợ từng cá nhân
trong cộng đồng để có kế hoạch giáo dục thích hợp đối với từng em. Lực
lượng công an chịu trách nhiệm giáo dục và theo dõi những em có biểu hiện
vi phạm pháp luật.
Đối với người chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt, thông tin
về các em sẽ được đưa vào hồ sơ của cơng an: tên, giới tính, tuổi, nghề


×