Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

ThS luat học áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của toà án nhân dân cấp huyện ở tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.26 KB, 124 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự ra đời của Nhà nước, Pháp luật của Nhà nước ta là pháp
luật xã hội chủ nghĩa, là phương tiện để thể chế hố đường lối chính sách của
Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy
mơ tồn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội,
nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình. Tuy nhiên, pháp luật chỉ có thể phát huy vai trị và những giá trị của
mình khi nó được tơn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.
Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp
luật là các hình thức thực hiện pháp luật. Trong đó, áp dụng pháp luật (ADPL)
là một hình thức quan trọng của thực hiện pháp luật chỉ do các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước thực hiện. Hoạt động
xét xử của Toà án thực chất là hoạt động ADPL, thể hiện quyền lực nhà nước
thơng qua một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định nhằm cá biệt
hoá những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân,
tổ chức cụ thể. Do đó, chất lượng ADPL là một trong những yếu tố đặc biệt
quan trọng, quyết định chất lượng hoạt động xét xử của Toà án.
Theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, hiện nay
hệ thống toà án ở nước ta được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ bao
gồm: Toà án nhân dân (TAND) tối cao; các TAND cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương; các TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và các tồ án qn sự. Trong đó chỉ có TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh là
có thẩm quyền giải quyết, xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự. TAND cấp
huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm hầu hết các vụ việc dân
sự thuộc thẩm quyền của toà án (trừ một số vụ việc phức tạp hoặc có nhân tố
nước ngồi thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh).


2


Là một Thẩm phán của TAND cấp huyện trực tiếp giải quyết, xét xử sơ
thẩm các loại vụ án và qua theo dõi, nắm bắt công tác tổng kết kinh nghiệm
xét xử của ngành, tác giả nhận thấy: Trong những năm gần đây, các vụ án
tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động
do tồn ngành Tồ án trong cả nước nói chung và ngành TAND tỉnh Nam
Định nói riêng giải quyết, xét xử có chiều hướng gia tăng với tính chất, mức
độ ngày càng phức tạp, đa dạng và nghiêm trọng. Tuy vậy, các đơn vị TAND
trong tồn ngành nói chung và ở tỉnh Nam Định nói riêng đã có nhiều cố gắng
để hồn thành tốt nhiệm vụ của mình. Hầu hết các vụ án đều được giải quyết,
xét xử đúng pháp luật, cơng bằng, khách quan, dân chủ đã góp phần tích cực
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN); tăng cường pháp chế XHCN; bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; tạo điều kiện
vững chắc cho ổn định trật tự và sự phát triển chung của toàn xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số vụ án chất lượng giải
quyết chưa cao, nhất là các vụ án dân sự do TAND cấp huyện giải quyết, xét
xử như: Có khơng ít vụ án tồn đọng, bị kéo dài thời hạn giải quyết, hoặc đã
giải quyết nhưng khơng thi hành án được; có khơng ít vụ án bị sửa, huỷ theo
thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm do có sai lầm nghiêm trọng trong
ADPL, trong đó có một số vụ bị hủy nhiều lần, qua nhiều cấp xét xử, kéo dài
trong nhiều năm do những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau gây
ảnh hưởng khơng nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và niềm
tin của công dân vào công lý. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khố X tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ
rõ “Cải cách tư pháp cịn chậm, chưa đồng bộ. Cơng tác điều tra, giam giữ,
truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác, án tồn đọng, án bị
huỷ, bị cải sửa còn nhiều” [14, tr.172].


3


Trước yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN thực sự của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI; tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” với yêu cầu “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn
thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân... Đổi mới việc tổ chức phiên
toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân
chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên toà
xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”[3]. Bên cạnh đó,
trong lộ trình cải cách tư pháp, ngày 19/02/2011 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
khoá XII đã ban hành pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số Điều của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tồ án nhân dân; ngày 29/3/2011, Quốc hội khố XII
đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự số
24/2004/QH11 (sau đây gọi là BLTTDS sửa đổi, bổ sung) có rất nhiều vấn đề
mới cần phải được nghiên cứu, triển khai trong thực tiễn. Theo quy định của
Bộ luật này thì hầu hết các vụ việc dân sự đều do TAND cấp huyện giải quyết,
trừ những vụ việc có liên quan đến nhân tố nước ngoài thuộc thẩm quyền giải
quyết của TAND cấp tỉnh. Do vậy, nhiệm vụ của TAND cấp huyện (tương lai
gần đây sẽ được thay thế bằng Toà án khu vực) ngày càng thêm nặng nề hơn.
Từ thực trạng, nguyên nhân và những yêu cầu nêu trên, cùng với những
kinh nghiệm thực tiễn tích luỹ được trong thời gian làm Thẩm phán TAND
cấp huyện. Tác giả chọn đề tài “Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án
dân sự của Toà án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Nam Định” làm luận văn thạc


4


sĩ luật học với hy vọng góp phần đáp ứng được tính cấp thiết và có giá trị về
lý luận cũng như thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu áp dụng pháp luật trong lĩnh vực giải quyết vụ án dân sự là
vấn đề hết sức phức tạp nên trong thực tiễn những cơng trình nghiên cứu về
lĩnh vực này khơng nhiều và thiếu tính tồn diện. Mặt khác, trước khi Quốc
hội ban hành BLTTDS năm 2004, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được
quy định trong các Pháp lệnh: thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế và thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Do đó,
những cơng trình nghiên cứu có liên quan trong thời gian trước đây phần lớn
chỉ tập trung nghiên cứu việc áp dụng các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự vào công tác giải quyết các vụ án dân sự của TAND
các cấp như: “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân
ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Thân năm
2004; “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Toà án
nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Chu Đức Thắng năm 2004;…
Sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành, có một số cơng trình đã nghiên
cứu có liên quan như: “Áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ của
Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên”, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Hoàng Văn Hạnh năm 2006; “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ
án dân sự của Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”, Luận văn
thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Thuỳ Giang năm 2009; “Áp dụng
pháp luật trong giải quyết các tranh chấp kinh tế của Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc”, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Vũ năm 2010...
Cơng trình khoa học lĩnh vực nhà nước và pháp luật liên quan đến công
tác giải quyết, xét xử vụ án tại địa phương có: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và



5

thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tồ hình sự sơ
thẩm”, Đề tài khoa học cấp tỉnh của TAND tỉnh Nam Định năm 2010; “Áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Toà án nhân dân ở tỉnh
Nam Định”, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Văn Kiểm năm 2010.
Một số cuốn sách chuyên khảo có liên quan như: “Pháp luật tố tụng
dân sự và thực tiễn xét xử”, cuốn sách chuyên khảo của tác giả Tưởng Duy
Lượng, Nxb Chính trị quốc gia năm 2009; “Giao dịch về quyền sử dụng đất
vô hiệu - Pháp luật & thực tiễn xét xử”, cuốn sách chuyên khảo của TS, Thẩm
phán Nguyễn Văn Cường và TS. Nguyễn Minh Hằng, Nxb thông tin và
truyền thơng năm 2011... và nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan khác.
Các cơng trình nói trên đã nghiên cứu, đề cập đến vấn đề ADPL nói
chung và ADPL tố tụng dân sự trong một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống đến
ADPL trong giải quyết vụ án dân sự của TAND cấp huyện ở tỉnh Nam Định.
Dù vậy, những tài liệu đã được cơng bố nêu trên là nguồn tài liệu có giá trị
cho tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở lý luận về ADPL trong giải
quyết vụ án dân sự tại TAND cấp huyện; đồng thời vận dụng cơ sở lý luận đó
vào việc đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng ADPL trong giải quyết vụ án dân sự của TAND
cấp huyện ở tỉnh Nam Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ khái niệm, phân tích các đặc điểm, vai trị, các giai đoạn và
các tiêu chí đánh giá việc ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND
cấp huyện;



6

- Phân tích, đánh giá kết quả đã đạt được, những hạn chế, bất cập của
việc ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Nam Định, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó;
- Đề xuất và luận chứng những quan điểm, các giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp
huyện ở tỉnh Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống những quy định về ADPL
trong giải quyết vụ án dân sự của TAND cấp huyện và thực tiễn ADPL trong
giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp huyện ở tỉnh Nam Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Việc nghiên cứu toàn diện về ADPL trong giải quyết vụ án dân sự của
TAND cấp huyện là rất rộng. Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả
tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất về lý luận ADPL trong giải
quyết các vụ án dân sự tại TAND cấp huyện và áp dụng cơ sở lý luận đó vào
thực tiễn giải quyết vụ án dân sự của các đơn vị TAND cấp huyện ở tỉnh Nam
Định trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, pháp chế xã hội chủ
nghĩa và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật, về
cơng tác xét xử nói chung và giải quyết, xét xử các vụ án dân sự nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả tuân thủ việc vận dụng cơ sở
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy



7

vật lịch sử và những nguyên tắc của phép biện chứng lơgic như: tính khách quan,
tính tồn diện, tính lịch sử cụ thể.
Bên cạnh đó, tác giả cịn sử dụng một số phương pháp cụ thể để nghiên
cứu thực hiện luận văn như: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương
pháp trừu tượng khoa học; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp
thống kê; phương pháp so sánh và phương pháp hệ thống. Ngồi ra, tác giả
cịn lựa chọn, sử dụng một số vụ án đã được TAND cấp huyện ở tỉnh Nam
Định giải quyết để minh hoạ và tham khảo số liệu thống kê của ngành để
phản ánh đúng thực trạng cũng như việc nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc
hơn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Đây là đề tài khoa học được nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta ở cấp
độ thạc sỹ luật học.
- Trên cơ sở các khái niệm khoa học, quy định của pháp luật hiện hành,
các Nghị quyết của Đảng và yêu cầu chung của xã hội. Tác giả đã tổng hợp và
phân tích các tiêu chí đánh giá chất lượng ADPL trong giải quyết các vụ án
dân sự; đồng thời tìm ra nguyên nhân những hạn chế, bất cập về ADPL trong
giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Thơng qua luận văn, tác giả phân tích một số quy định mới của
BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 có liên quan trực tiếp đến hoạt động giải
quyết vụ án của TAND cấp huyện; mặt khác nêu rõ những quy định của pháp
luật dân sự nước ta cịn có những ý hiểu khác nhau, cần có hướng dẫn của cấp
có thẩm quyền để áp dụng thống nhất và đề xuất hướng bổ sung, sửa đổi
những quy định cịn thiếu hoặc khơng phù hợp với thực tiễn trong giải quyết
vụ án dân sự tại TAND cấp huyện.



8

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần hệ thống và làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về
ADPL trong giải quyết vụ án dân sự và góp phần xây dựng cơ sở khoa học
trong việc tiếp tục nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp
luật liên quan đến công tác giải quyết vụ án dân sự trong thời gian tới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả chất
lượng công tác ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự đối với các Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân (HTND), Thư ký và cán bộ nghiệp vụ của TAND
cấp huyện ở tỉnh Nam Định nói riêng và có thể tham khảo vận dụng cho các
địa phương khác. Ngoài ra cịn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
việc học tập, nghiên cứu về pháp luật dân sự và tố tụng dân sự.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết và các tiểu mục nhỏ.


9

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN.


1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân
sự của Toà án nhân dân cấp huyện.
1.1.1.1. Khái niệm vụ án dân sự
Nhu cầu sinh tồn và phát triển đã buộc con người trong cuộc sống phải
tham gia vào rất nhiều các mối quan hệ xã hội khác nhau để đáp ứng những
nhu cầu vật chất, văn hoá, tinh thần của mỗi người, nhóm người, cộng đồng
và xã hội. Trong các mối quan hệ xã hội thì quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng)
bao gồm quan hệ pháp luật dân sự, hơn nhân và gia đình (HN&GĐ), kinh
doanh thương mại và lao động luôn diễn ra sôi động, đa dạng, phong phú, ở
mọi nơi, mọi lúc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gắn liền với bất cứ
chủ thể nào. Các chủ thể tham gia quan hệ dân sự bao giờ cũng hướng tới
những mục tiêu, lợi ích nhất định về mặt vật chất hoặc tinh thần. Các hoạt
động xã hội ngày càng mở rộng cùng với sự đan xen về mặt lợi ích cũng như
tính mn màu mn vẻ của các quan hệ dân sự làm phát sinh các tranh chấp
dân sự là điều không thể tránh khỏi. Khi xảy ra tranh chấp dân sự, các chủ thể
có thể thỏa thuận với nhau để giải quyết tranh chấp. Trường hợp các chủ thể
không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và u cầu
Tịa án giải quyết thì tranh chấp đó được giải quyết thơng qua Tịa án là cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động của Tồ án trong việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự được gọi là vụ án dân sự.
Thuật ngữ “vụ án dân sự” là một thuật ngữ pháp lý chuyên ngành,
được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành nhưng chưa có khái


10

niệm khoa học thống nhất. Hiện nay, trong các cuốn từ điển của Việt Nam
đang lưu hành cũng không đề cập đến thuật ngữ “vụ án dân sự”, mà chỉ đưa ra
khái niệm “vụ án” như: “Vụ án là vụ phạm pháp hoặc tranh chấp cần được
đưa ra xét xử trước Toà án” (Từ điển tiếng Việt) [49,tr.5]; hoặc “Vụ án - Một

vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật mang tính chất hình sự hoặc tranh chấp
giữa các chủ thể pháp luật được đưa ra toà án hoặc cơ quan trọng tài thương
mại giải quyết...” (Từ điển luật học) [4,tr.860]. Duy nhất chỉ có cuốn Từ điển
giải thích thuật ngữ luật học do Trường đại học Luật Hà Nội biên soạn có đưa
ra giải thích về thuật ngữ “vụ án dân sự” như sau:
Vụ án dân sự là việc phát sinh tại Toà án, thuộc thẩm quyền xét xử
về dân sự của Toà án, do cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức xã hội khởi kiện, Viện kiểm sát khởi tố yêu cầu Toà án
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, của tập thể
hay của người khác. Các vụ án dân sự có tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ dân sự giữa các đương sự gọi là việc kiện dân sự. Các vụ
án dân sự khơng có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các đương
sự, trong đó người khởi kiện chỉ yêu cầu Toà án xác định sự kiện
pháp lý thơng qua đó làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ
giữa các đương sự được gọi là việc dân sự. Các vụ án dân sự chủ
yếu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hơn
nhân và gia đình. Một số vụ án dân sự có thể phát sinh từ quan hệ
pháp luật hành chính hoặc quan hệ pháp luật khác [31].
Trong lịch sử Nhà nước và pháp luật ở nước ta, mặc dù vấn đề bảo vệ
quyền, lợi ích cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự đã được quan
tâm từ rất sớm. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử nên pháp luật về dân sự và tố
tụng dân sự chậm được hoàn thiện, nhất là trong một giai đoạn dài sau khi đất
nước mới giành độc lập, pháp luật dân sự nước ta cịn bị ảnh hưởng của pháp
luật chính quyền cũ, tản mạn, thiếu đồng bộ, hiệu lực thấp. Cho đến khi đất
nước bước vào thời kỳ đổi mới, năm 1989 Nhà nước ban hành Pháp lệnh thủ


11

tục giải quyết các vụ án dân sự thì thuật ngữ “vụ án dân sự” mới chính thức

được sử dụng một cách tương đối thống nhất ở nước ta trong một văn bản
pháp luật có hiệu lực cao. Tuy vậy, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự cũng không đưa ra khái niệm “vụ án dân sự”; đồng thời, nội dung của Pháp
lệnh cũng chỉ quy định Tồ án có thẩm quyền giải quyết một số loại tranh
chấp, yêu cầu về dân sự, HN&GĐ và gọi chung đó là “vụ án dân sự”. Cho
nên, những tranh chấp và yêu cầu về kinh doanh, thương mại và lao động sau
này tiếp tục được điều chỉnh bằng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm
1996.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được ban hành đã thống nhất ba loại
thủ tục tố tụng về dân sự, kinh tế và lao động thành một thủ tục tố tụng dân sự
chung, các loại vụ việc được giải quyết theo thủ tục này được gọi là vụ việc
dân sự. Theo Điều 1 của BLTTDS quy định phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ
của BLTTDS thì:
Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ
án về tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương
mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ
tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động (sau đây gọi
chung là việc dân sự)… [23, tr.8].
Như vậy, mặc dù BLTTDS cũng khơng chính thức đưa ra khái niệm
“vụ án dân sự”, nhưng đã phân biệt một cách khá đầy đủ về “vụ án dân sự” và
“việc dân sự”. Theo đó, “vụ án dân sự” phải là những tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên đương sự, còn những yêu cầu của đương sự chỉ nhằm
xác nhận một sự kiện pháp lý mà khơng có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
thì khơng phải là “vụ án dân sự” mà đó là “việc dân sự”. Đồng thời, BLTTDS
cũng đã quy định khá đầy đủ “vụ án dân sự” bao gồm những tranh chấp phát



12

sinh từ quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng. Tức là, nó khơng chỉ bao
gồm những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, HN&GĐ (theo
nghĩa hẹp như quan niệm trước đây) mà còn bao gồm cả những tranh chấp
phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại và lao động.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm vụ án dân sự như sau: Vụ án
dân sự là việc đương sự khởi kiện để Toà án giải quyết các tranh chấp về dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động.
Theo quy định tại Mục 1 Chương III của BLTTDS về những vụ việc
dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án thì “vụ án dân sự” gồm có
những tranh chấp quy định tại các Điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS. Cụ thể bao
gồm: (i) Những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự (Điều 25)
có: tranh chấp giữa cá nhân và cá nhân về quốc tịch Việt Nam; tranh chấp về
quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về hợp đồng dân sự; tranh chấp về quyền sở
hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ nhưng khơng có mục đích lợi nhuận; tranh
chấp về thừa kế tài sản; tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của
pháp luật về đất đai; tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí
theo quy định của pháp luật. (ii) Những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp
luật HN&GĐ (Điều 27) có: ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; tranh chấp về
xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ; tranh chấp về cấp
dưỡng. (iii) Những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanh,
thương mại (Điều 29) có: tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có
mục đích lợi nhuận về mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại
diện, đại lý, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn kỹ thuật, vận
chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa,

vận chuyển hàng hố, hành khách bằng đường hàng khơng, đường biển, mua


13

bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác, đầu tư tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, thăm dị khai thác; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển
giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức của cơng ty. (iiii) Những
tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật lao động (Điều 31) có: (1) tranh
chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà
Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ quan quản lý
nhà nước về lao động cấp huyện hồ giải khơng thành hoặc khơng giải quyết
trong thời hạn pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây khơng phải hồ
giải tại cơ sở, đó là: về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về
trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, về bồi thường thiệt
hại giữa người lao động và người sử dụng lao động, về trợ cấp khi chấm dứt
hợp đồng lao động, giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động,
về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động và về bồi thường
thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao động; (2) tranh
chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động đã
được Hội đồng trong tài lao động cấp tỉnh giải quyết mà tập thể người lao
động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của hội đồng
trọng tài lao động, gồm: về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền
lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về việc thực hiện thoả ước
lao động tập thể, về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn [23].
Ngoài những tranh chấp nêu trên, theo quy định của BLTTDS sửa đổi,
bổ sung năm 2011 thì từ ngày 01/01/2012, Tồ án cịn có thẩm quyền giải

quyết những tranh chấp: Về dân sự có tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên
bố văn bản công chứng vô hiệu, tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế
để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, tranh chấp
về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh tốn phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu


14

giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; về lao động, bổ sung
tranh chấp về tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng. Điểm 2 nêu trên được sửa đổi là “Tranh chấp lao động tập thể
về quyền giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động theo quy định của
pháp luật về lao động đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao
động không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không giải quyết”.
Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung bổ sung một điều luật mới về
thẩm quyền của Toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan tổ chức
(Điều 32a), đó là:
1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tồ án có quyền huỷ quyết định cá
biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự mà Tồ án có nhiệm vụ giải quyết. Trong trường hợp
này, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó
có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng;
2. Trường hợp vụ, việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt bị
yêu cầu huỷ quy định tại khoản 1 Điều này, thì quyết định cá biệt
đó được Tồ án xem xét trong cùng vụ việc dân sự. Thẩm quyền
của cấp Tồ án giải quyết vụ việc dân sự đó được xác định theo quy

định tại Điều 29 và Điều 30 của Luật tố tụng hành chính” [24].
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
của Toà án nhân dân cấp huyện.
a) Khái niệm áp dụng pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, pháp luật XHCN là hệ
thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước XHCN ban hành và bảo đảm


15

thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước trên cơ sở giáo dục và
thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện [30,tr.336].
Hình thức thể hiện của pháp luật XHCN chính là các quy phạm pháp
luật được các chủ thể có thẩm quyền ban hành với các loại văn bản có tên gọi
và hiệu lực pháp lý khác nhau. Các quy phạm pháp luật sau khi được ban
hành địi hỏi phải được tơn trọng, tn thủ và thi hành trong đời sống xã hội.
Cho nên, thực hiện pháp luật khơng chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà cịn là trách
nhiệm đạo đức của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội
và mọi cơng dân. Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện
thực hố các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Các quy
phạm pháp luật rất phong phú cho nên cách thức thực hiện chúng cũng rất
phong phú và khác nhau, cách thức thực hiện pháp luật của mỗi loại chủ thể
pháp luật khác nhau thì khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực
hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia thực hiện pháp luật thành
những hình thức cụ thể, đó là: Tn thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật [30,tr.468]. Trong đó,
- Tuân thủ pháp luật (hay tuân theo pháp luật), là hình thức các chủ thể
pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm.

- Thi hành pháp luật (hay chấp hành pháp luật), là hình thức các chủ
thể quan hệ pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động
tích cực.
- Sử dụng pháp luật, là hình thức trong đó các chủ thể pháp luật sử
dụng quyền chủ thể của mình (thực hiện các hành vi mà pháp luật cho phép).
Do vậy, chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc khơng thực hiện các quyền, tự
do đó theo ý chí của mình chứ khơng bắt buộc phải thực hiện.
Chủ thể thực hiện hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử
dụng pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ
chức, cá nhân và mọi công dân trong xã hội.


16

- Áp dụng pháp luật (ADPL), là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
Nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự
mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh,
thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trường hợp
này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can
thiệp của Nhà nước.
Như vậy, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng
pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện,
kết quả thực hiện chính là mong muốn, là ý chí của chủ thể thực hiện thì
ADPL là hình thức ln có sự tham gia của Nhà nước thông qua các cơ quan
hoặc nhà chức trách có thẩm quyền và kết quả của hình thức ADPL là hồn
tồn theo ý chí của Nhà nước.
Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, vào cuộc sống đạt hiệu quả
cao nhất khi tất cả những quy định của nó đều được thực hiện chính xác, triệt
để. Nhưng nếu chỉ thơng qua các hình thức tn thủ pháp luật, thi hành pháp

luật và sử dụng pháp luật thì sẽ có rất nhiều quy phạm pháp luật khơng được
thực hiện. Lý do có thể là các chủ thể khơng muốn thực hiện hoặc không đủ
khả năng thực hiện nếu thiếu sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Do đó, hoạt động ADPL cần phải được tiến hành trong các trường hợp
sau:
Thứ nhất là, khi cần các biện pháp cưỡng chế Nhà nước, hoặc áp dụng
các chế tài pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ hai là, khi các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc
nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
Thứ ba là, khi xảy ra tranh chấp về quyền của chủ thể và nghĩa vụ pháp
lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó khơng tự giải quyết
được. Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật đã phát sinh, nhưng quyền và
nghĩa vụ của các bên không được thực hiện và có sự tranh chấp.


17

Thứ tư là, trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết
phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan
hệ đó, hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một số việc, sự
kiện thực tế.
ADPL là một trong những hình thức quan trọng của thực hiện pháp
luật. Đó chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước có
thẩm quyền tổ chức thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể pháp luật
thực hiện được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định của pháp
luật. Thơng qua đó, hoạt động ADPL bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng,
thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể được thực hiện
và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm được
xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ xã hội XHCN đã và đang
được thiết lập. Có thể nói, hoạt động ADPL gắn liền với quyền lực nhà nước

trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp nên nó có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc thực thi quyền lực nhà nước. Trong lĩnh vực hành pháp, việc ADPL
thường do cơ quan được giao quyền hoặc người có thẩm quyền tiến hành theo
thủ tục hành chính như: Cấp giấy phép đăng ký kinh doanh; quyết định giao
đất hoặc thu hồi đất; cấp giấy đăng ký kết hôn; ban hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính... Trong hoạt động tư pháp, ADPL thường được Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, HTND... tiến hành theo một thủ tục nhất
định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết của vụ án
nhằm xác định sự thật khách quan của sự việc; truy cứu trách nhiệm pháp lý;
xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật.
Như vậy, áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó Nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức
trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp
luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định
áp dụng pháp luật vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội
[15,tr.500].


18

b) Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân cấp huyện.
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các loại vụ án của Toà án là một nội
dung cụ thể, đặc biệt và quan trọng của hình thức ADPL nói chung. Điều 127
Hiến pháp năm 1992 của nước ta quy định: “Toà án nhân dân tối cao, các
Toà án nhân dân địa phương và các Toà án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam...”[16]. Như vậy,
ở nước ta TAND là cơ quan duy nhất được giao quyền xét xử các vụ án hình
sự, dân sự, hành chính. Hoạt động xét xử của TAND chính là hoạt động
ADPL trong lĩnh vực giải quyết các loại vụ án hình sự, dân sự, hành chính khi

TAND tiến hành thụ lý theo quy định của pháp luật. Thẩm phán và HTND là
những chức danh quan trọng nhất hợp thành Hội đồng xét xử của Toà án, có
quyền nhân danh Nhà nước cộng hồ XHCN Việt Nam để ra những phán
quyết thực hiện công lý XHCN theo những nguyên tắc và trình tự nhất định.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm
2002 thì “Tồ án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm
quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng”[26]. Do đó,
TAND cấp huyện chỉ thụ lý và giải quyết sơ thẩm các loại vụ án, trong đó có
vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm, là một giai đoạn độc lập của quá trình tố
tụng theo nguyên tắc hai cấp xét xử (cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm). Do đó,
việc ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp huyện cần được
tiếp cận dưới các góc độ sau đây:
- Với tính chất là một giai đoạn tố tụng, ADPL trong giải quyết các vụ
án dân sự của TAND cấp huyện bắt đầu từ khi Toà án thụ lý sơ thẩm vụ án và
kết thúc bằng bản án hay quyết định sơ thẩm của Toà án. Việc thụ lý vụ án
dân sự do Tồ án có thẩm quyền thực hiện khi có đầy đủ các điều kiện thụ lý
(khác với việc thụ lý vụ án hình sự là hồ sơ vụ án do VKS chuyển sang). Thời
điểm kết thúc giai đoạn sơ thẩm vụ án dân sự thông thường được xác định từ
thời điểm Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên xong bản án hoặc ra quyết định đình


19

chỉ vụ án, quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự tại phiên toà.
Tuy nhiên, thời điểm kết thúc giai đoạn sơ thẩm vụ án dân sự cũng có thể sớm
hơn khi trong thời gian chuẩn bị xét xử hoặc q trình hồ giải, ngun đơn
rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận; các đương sự đã thoả thuận với
nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án... Khi đó, Tồ án ra quyết định đình chỉ
vụ án hoặc ra quyết định cơng nhận sự thoả thuận của các đương sự.
- Với tính chất là các hoạt động tố tụng, ADPL trong giải quyết các vụ

án dân sự của TAND cấp huyện được thực hiện trong các hoạt động tố tụng
như: Nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, hoà giải và chuẩn bị xét xử
vụ án dân sự và các hoạt động tố tụng tại phiên tồ sơ thẩm.
- Với tính chất là một chế định của pháp luật tố tụng dân sự, ADPL
trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp huyện bao gồm hoạt động
ADPL để xác định nhiều vấn đề như: Thẩm quyền giải quyết của Toà án; các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; năng lực hành vi dân sự,
năng lực pháp luật tố tụng dân sự, năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương
sự; các chủ thể khác khi tham gia tố tụng...
Từ những phân tích trên, có thể rút ra: Áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện là hoạt động mang
tính quyền lực của Nhà nước, được thực hiện bởi Thẩm phán được phân công
làm chủ toạ phiên toà và Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử theo trình
tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự quy định, nhằm áp dụng các quy định
của pháp luật dân sự vào trong quá trình giải quyết vụ án dân sự để ra các
phán quyết xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ cho các đương sự trong vụ án.
1.1.2. Đặc điểm của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ
án dân sự của Toà án nhân dân cấp huyện
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự là một hình thức
cụ thể của ADPL nói chung, nên trong khi thực hiện, người ADPL phải tuân
theo những nguyên tắc chung và quy trình chung. Bên cạnh đó, hoạt động


20

ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp huyện có những đặc
điểm riêng biệt. Do vậy, có thể nêu lên một số đặc điểm cơ bản sau đây:
1.1.2.1. Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân cấp huyện là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước, do
Tòa án nhân dân cấp huyện tiến hành, được thực hiện thông qua Thẩm

phán và Hội thẩm nhân dân được phân công giải quyết vụ án.
Theo quy định của Hiến pháp, ở nước ta TAND là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền giải quyết, xét xử các loại vụ án; chỉ có Tồ án mới có quyền
ADPL để ban hành các bản án, quyết định giải quyết các tranh chấp, xác định
rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự.
Do các bản án, quyết định được ban hành có liên quan trực tiếp đến
danh dự, tài sản của công dân; đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự nói
riêng; đến uy tín và lợi ích của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nói
chung; đồng thời, cịn có ý nghĩa thể hiện và minh chứng tính ưu việt của chế
độ chính trị, về bản chất của Nhà nước XHCN và vì lợi ích chung của quốc
gia, lợi ích chung của dân tộc... Nên bản án không nhân danh người tiến hành
tố tụng, cơ quan tố tụng; không nhân danh HĐXX mà nhân danh Nhà nước
cộng hoà XHCN Việt Nam để phân xử và phán quyết. Tính quyền lực của
Nhà nước cịn được thể hiện ở chỗ bản án, quyết định do Toà án ban hành có
hiệu lực pháp luật phải được các tổ chức, cá nhân tôn trọng, nghiêm chỉnh
chấp hành, trong trường hợp cần thiết sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức
mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Chủ thể trực tiếp ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND
cấp huyện là Thẩm phán và HTND. Trước khi đưa vụ án dân sự ra xét xử, vụ
án do Thẩm phán tiến hành và tại phiên toà là HĐXX: “ Hội đồng xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong
trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán
và ba Hội thẩm nhân dân” [23,tr.36,43]. Đối với sự tham gia của VKSND,
theo quy định của BLTTDS thì mặc dù tại phiên tồ, Kiểm sát viên có quyền


21

đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, nhưng hoạt động
của VKSND cũng chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp chứ

không được trực tiếp tham gia việc ADPL hoặc ra các phán quyết để giải
quyết vụ án.
1.1.2.2. Áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự là hoạt
động điều chỉnh có tính cá biệt, cụ thể hố những quy phạm pháp luật dân
sự vào một vụ án cụ thể, đồng thời phải tuân thủ nguyên tắc quyền quyết
định và tự định đoạt của các đương sự.
Xuất phát từ đặc điểm đặc thù của vụ án dân sự là Nhà nước tôn trọng
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Khi có tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ giữa các chủ thể, mặc dù Tồ án có thể hoàn toàn biết và nắm bắt
đầy đủ nội dung tranh chấp, thì Tồ án cũng khơng thể tự mình ban hành văn
bản để điều chỉnh mối quan hệ đó. Tồ án chỉ thụ lý và giải quyết vụ án khi
đương sự có đơn khởi kiện, có đầy đủ các điều kiện khởi kiện và có các
chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ. Cũng
xuất phát từ đặc điểm trên, trong toàn bộ hoạt động giải quyết vụ án của Toà
án từ khi thụ lý cho đến khi mở phiên toà, song song với việc thu thập chứng
cứ để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án thì Tồ án ln áp dụng các biện
pháp như hoà giải, tạo điều kiện để các đương sự nắm bắt đầy đủ các yêu cầu,
các chứng cứ đã cung cấp của nhau… để các đương sự tự thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án. Tồ án chỉ chính thức nhân danh Nhà nước ban hành
bản án trên cơ sở thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp
luật tố tụng, trong đó áp dụng các quy phạm pháp luật cụ thể để giải quyết vụ
án đó khi các đương sự khơng thể tự mình thoả thuận được với nhau. Như
vậy, hoạt động của Tòa án trong việc giải quyết, xét xử vụ án dân sự là một
dạng của điều chỉnh xã hội có tổ chức, có mục đích. Đó là một q trình thực
hiện sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội thông qua một hệ thống
quy trình pháp lý của Nhà nước, nhằm thực hiện những nhiệm vụ và mục đích
của Nhà nước đặt ra. Bản án của Toà án là văn bản ADPL mang tính quyền


22


lực Nhà nước cá biệt hoá các quyền, nghĩa vụ cho các đương sự cụ thể trong
vụ án. Các quyền và nghĩa vụ mà bản án ghi nhận, có giá trị bắt buộc để các
đương sự thực hiện không thể khác biệt về nội dung so với những quy định
trong các quy phạm pháp luật.
1.1.2.3. Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân cấp huyện phải tuân theo những quy định chặt chẽ về trình tự
thủ tục do BLTTDS quy định.
Điều 3 của BLTTDS quy định “Mọi hoạt động tố tụng dân sự của
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này” [23,tr.10].
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng bảo đảm pháp chế XHCN
trong tố tụng dân sự. Để giải quyết một vụ án dân sự cụ thể, TAND cấp huyện
phải tuân theo những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục theo quy định của
BLTTDS. Đây là điều kiện bắt buộc bảo đảm cho các bước tiến hành tố tụng
được chính xác, khách quan làm tiền đề cho việc áp dụng các quy phạm pháp
luật nội dung để ra phán quyết cuối cùng là bản án, quyết định đúng pháp luật.
Thông thường, khi giải quyết một vụ án dân sự, TAND cấp huyện phải
thực hiện các thủ tục theo trình tự: Nhận đơn khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự,
hoà giải và chuẩn bị xét xử, mở phiên toà xét xử vụ án dân sự và kết quả cuối
cùng là ra bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Trong mỗi thủ tục nêu trên, Toà án
phải thực hiện rất nhiều cơng việc, nhưng các thủ tục đó nhất thiết phải tuân
theo một trình tự được quy định trong BLTTDS. Trường hợp thực hiện không
đúng hoặc không đầy đủ các thủ tục quy định tại BLTTDS thì có thể sẽ bị coi
như là vi phạm thủ tục tố tụng, bản án, quyết định có thể phải được xem xét
lại theo thủ tục tố tụng khác như phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
1.1.2.4. Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân cấp huyện được tiến hành chủ yếu tại phiên toà.
Trong giai đoạn từ khi nhận đơn khởi kiện, thụ lý vụ án và chuẩn bị xét
xử, hoạt động ADPL của TAND chủ yếu là để xác định chính xác, đầy đủ mối



23

quan hệ pháp luật tranh chấp và thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự để làm cơ sở, căn cứ cho việc giải quyết vụ án
chứ chưa chính thức ban hành các phán quyết. Phiên toà dân sự sơ thẩm được
tổ chức công khai, là nơi biểu hiện tập trung cao nhất hoạt động ADPL của
TAND để giải quyết một vụ án dân sự. Tại phiên toà, HĐXX áp dụng các quy
định của BLTTDS để điều hành các thủ tục tại phiên toà; trên cơ sở toàn bộ
các chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra tại phiên toà và kết quả tranh luận tại
phiên toà, tiến hành lựa chọn các quy định của pháp luật phù hợp với nội
dung của vụ án để áp dụng, ban hành các phán quyết giải quyết toàn bộ các
tranh chấp, xác định quyền, nghĩa vụ cụ thể cho các đương sự trong vụ án.
Áp dụng pháp luật tại phiên toà hoàn toàn khác với việc ADPL của các
cơ quan hành chính khác. Bởi tại phiên toà, mọi hoạt động ADPL của Toà án
mà trực tiếp là Thẩm phán chủ toạ phiên toà và HTND trong HĐXX đều được
sự theo dõi, nhận xét, giám sát của cơng luận và đơng đảo quần chúng nhân
dân. Có thể nói rằng, để giải quyết xong một vụ án, có nghĩa là để ban hành
được một bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự, người Thẩm phán và
HTND phải tuân theo những thủ tục nghiêm ngặt, đồng thời phải luôn lao
động một cách sáng tạo, dự liệu và xử lý các tình huống trong một điều kiện
đặc biệt riêng có của phiên tồ. Chính vì vậy, để hồn thành tốt cơng tác xét
xử địi hỏi người Thẩm phán và HTND phải có tinh thần tích cực, nghiêm túc
trong lao động, bản lĩnh vững vàng, tinh thông nghề nghiệp, sự hiểu biết xã
hội sâu sắc và đặc biệt là phải có đạo đức nghề nghiệp; đồng thời phải tích
cực học tập, tu dưỡng, trau dồi nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của xã hội.
1.1.3. Vai trò của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án
dân sự của Toà án nhân dân cấp huyện

Pháp luật của Nhà nước ta là pháp luật XHCN, là phương tiện để thể
chế hố đường lối chính sách của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
được thực hiện có hiệu quả trên quy mơ tồn xã hội; là phương tiện để Nhà


24

nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện để nhân dân phát huy
dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. ADPL nói
chung và ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp huyện nói
riêng chính là q trình tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào đời
sống. Vì vậy, ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của TAND cấp huyện
có vai trị đặc biệt quan trọng, được thể hiện rõ nét ở một số lĩnh vực sau:
Thứ nhất, vai trò của ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự được thể
hiện trong việc góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, xây
dựng xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Vụ án dân sự là những tranh chấp
phát sinh trong trong các tổ chức, trong gia đình, trong cộng đồng dân cư mà
họ khơng thể tự giải quyết được nên họ phải khởi kiện để yêu cầu Toà án giải
quyết. Việc Toà án giải quyết nhanh, chính xác, bảo vệ được quyền, lợi ích
cho họ sẽ có tác dụng thiết thực làm giảm dẫn đến xố đi những mâu thuẫn
giữa các đương sự; uy tín của Tồ án, của Nhà nước được tăng cường; an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; xã hội ngày càng dân chủ, văn
minh. Ngược lại, nếu như Tồ án giải quyết khơng kịp thời hoặc ADPL khơng
chính xác sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa các đương sự kéo dài, ngày thêm trầm
trọng gây bức xúc cho những người có liên quan trong vụ án. Chính từ sự bức
xúc đó có thể dẫn đến việc các đương sự khơng kiềm chế được, có những
hành động bột phát như khiếu nại lên các cơ quan cấp trên, các cơ quan lãnh
đạo Đảng và Nhà nước; xô xát, mắng chửi, đâm chém nhau gây mất trật tự an
ninh khu vực, thậm chí dẫn đến hành vi phạm tội.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự góp phần

xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung và các quy phạm pháp
luật dân sự nói riêng. Thơng qua thực tiễn giải quyết vụ án dân sự, các quy
phạm pháp luật hiện hành được kiểm nghiệm về tính đúng đắn, phù hợp hay
chưa phù hợp với yêu cầu của cuộc sống, tính đồng bộ, tính tồn diện hay cịn
phiến diện, chưa đầy đủ hoặc phát hiện ra những quy phạm còn chung chung,
khái quát nên cách hiểu để áp dụng khác nhau dễ tạo ra sự tuỳ tiện trong áp


25

dụng pháp luật. Cũng qua hoạt động ADPL, Toà án còn phát hiện ra những
quy phạm pháp luật đã quá lỗi thời, khơng cịn phù hợp với cuộc sống hiện tại
cần loại bỏ, hoặc phát hiện ra những tình huống mới trong quan hệ xã hội cần
phải có pháp luật để điều chỉnh… Như vậy, ADPL trong giải quyết các vụ án
dân sự có vai trị tích cực trong việc phát hiện, đề nghị loại bỏ những quy
phạm pháp luật trùng lặp, mâu thuẫn, lạc hậu hoặc sửa đổi, bổ sung những
quy phạm pháp luật mới để phù hợp và đáp ứng với thực tiễn cuộc sống.
Thứ ba, áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự góp phần
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Thông qua việc xét
xử công khai, HĐXX trực tiếp giải thích pháp luật khơng chỉ cho các đương
sự mà còn cả những người dân đến theo dõi phiên toà hiểu rõ các quy định
của pháp luật đối với vụ án đang giải quyết, cũng như đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Bằng sự việc cụ thể, con người cụ thể
nên việc giải thích pháp luật của Toà án tại phiên toà rất sinh động, tác động
trực tiếp vào tâm trí của những người tham dự, từ đó giúp họ tránh xa những
hành động xâm phạm đến quyền, lợi ích của người khác hoặc tự giải quyết
đối với những sự việc tương tự, sống và làm việc theo pháp luật.
Tóm lại, áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tịa
án nhân dân có vai trị rất quan trọng trong xã hội, nó khơng chỉ trực tiếp giải
quyết những tranh chấp trong nội bộ quần chúng nhân dân mà còn bảo đảm

thực hiện quyền lực Nhà nước, thể hiện bản chất, ý chí của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được cụ thể hoá vào pháp luật; bảo
đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh, thống nhất; thiết thực xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, nghiêm minh; góp phần xây dựng và
bảo vệ nền pháp chế XHCN và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.


×