Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Ths- Luat học-Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hônnhân và gia đình của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.93 KB, 122 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Chủ trương này của Đảng lần đầu tiên được đề cấp tới
tại Nghị quyết Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII (năm 1993), được
ghi nhận chính thức tại Đại hội Đảng lần thứ IX và được thể chế hoá tại điều
2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi): Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân… quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối
hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Với đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, bộ máy Nhà nước
phải luôn được củng cố, tăng cường để đáp ứng những nhiệm vụ mà thời kỳ
đổi mới đặt ra đó là tinh giản, gọn nhẹ và đặc biệt hoạt động có hiệu quả theo
đúng chức năng, nhiệm vụ của mình đã được pháp luật quy định. Chính vì
vậy, cùng với việc đề ra các nhiệm vụ để cải cách các cơ quan lập pháp và
hành pháp, tại các Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7
(khoá VIII) cũng đã chỉ rõ: “Tiếp tục cải cách Tư pháp là yêu cầu cấp bách”
và ngày 02 tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08/NQTƯ về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”.
Trong đó, đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm cải cách tổ chức, nâng cao chất
lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng
hệ thống pháp luật đồng bộ, ngày 24 tháng 5 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 48/NQ-TƯ về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và ngày
02 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 49/NQ-TƯ về
“chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Mục đích của cải cách tư pháp
là nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công


2


lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Phương hướng và nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam là tiến hành
cải cách tư pháp khẩn trương đồng bộ; hồn thiện chính sách pháp luật hình
sự, dân sự… phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, vì
nhân dân; hồn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân
chủ công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; tổ chức các
cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại
về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc. Trong đó, xác định Tồ
án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hoá mạnh mẽ
hoạt động bổ trợ tư pháp; xây dựng đội ngũ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là
cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng nâng cao quyền hạn trách nhiệm,
tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, chun mơn; phát huy vai trị giám sát của các
cơ quan dân cử của công dân và nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đổi mới
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Toà án năm
2002, nhiệm vụ trọng tâm của Toà án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động và giải quyết các việc khác
theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, hoạt động trọng tâm của Toà án là
một hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và
các vụ án hơn nhân và gia đình nói riêng, được tiến hành theo một quá trình
gồm nhiều giai đoạn. Các giai đoạn của áp dụng pháp luật có mối liên hệ mật
thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo
với mục đích là giải quyết một vụ án được chính xác, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
Thực tế hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc trong
những năm gần đây cho thấy các vụ án Hôn nhân và gia đình ngày càng gia



3
tăng và thể hiện rõ tính chất phức tạp đối với loại án này, mỗi vụ án có nội
dung đa dạng và phức tạp khác nhau. Thực trạng trên đòi hỏi trách nhiệm hết
sức nặng nề đối với ngành Toà án nói chung và Tồ án nhân ở tỉnh Vĩnh Phúc
nói riêng để góp phần làm ổn định quan hệ trong hơn nhân và gia đình, giữ
gìn kỷ cương pháp luật, ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội. Trong những
năm qua, quá trình giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Tồ án nhân
dân ở tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được những kết quả nhất định góp phần giải
quyết mâu thuẫn bất hồ trong hơn nhân, gia đình; bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp của đương sự, góp phần tăng cường nền pháp chế xã hội chủ nghĩa trên
toàn tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời, hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết
các vụ án hơn nhân và gia đình, ngồi việc đấu tranh với các hành vi trái pháp
luật nảy sinh trong lĩnh vực hơn nhân, gia đình, cịn mang tính phổ biến tuyên
truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, từ sự hiểu biết pháp luật, nhân
dân sẽ tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, tố giác những hành vi
vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân, gia đình. Bên cạnh đó, qua thực
tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình sẽ
phát hiện ra những thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi các
điều, khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng
giai đoạn cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, thông qua hoạt động xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm của Toà án nhân dân Tối cao đã phát hiện những thiếu
sót, hạn chế nhất định với nhiều nguyên nhân khác nhau mà hoạt động xét xử
của các Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc đã mắc phải như: để quá thời hạn
chuẩn bị xét xử, Thẩm phán nghiên cứu văn bản chưa đầy đủ dẫn đến đánh
giá chứng cứ thiếu khách quan, tồn diện, bản án tun khơng rõ ràng gây khó
khăn cho cơng tác thi hành án dân sự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
nên Toà án cấp trên phải huỷ hoặc sửa bản án của Toà án cấp dưới. Đặc biệt,



4
có một số vụ án hơn nhân và gia đình (cụ thể là tranh chấp chia tài sản trong
vụ án hơn nhân và gia đình) cịn kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của công dân. Mặc dù, số bản án bị sửa, huỷ
không nhiều nhưng đây cũng là nhược điểm lớn nhất mà ngành Tồ án nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc ln trăn trở và đã tập trung mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến
độ, nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc, đặc biệt là vụ án hơn nhân và
gia đình nhằm bảo đảm đúng thời hạn chuẩn bị xét xử, hạn chế đến mức thấp
nhất các vụ án bị sửa, huỷ; tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng thống
nhất các quy định của pháp luật; tiếp tục củng cố và nâng cao trình độ chun
mơn, phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán
từ cấp huyện đến cấp tỉnh. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
của các Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang đặt ra những yêu cầu
vừa cấp bách, vừa lâu dài để không ngừng nâng cao chất lượng xét xử và đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và cải cách tư pháp hiện nay.
Từ sự phân tích trên cho thấy, về mặt lý luận và thực tiễn có nhiều vấn
đề đặt ra để nghiên cứu, đánh giá thực tế, tìm hiểu từ nhiều góc độ khác nhau
để có những căn cứ khoa học về vấn đề áp dụng pháp luật trong hoạt động xét
xử của Toà án nhân dân nói chung và áp dụng pháp luật trong giải quyết các
vụ án hơn nhân và gia đình nói riêng. Chính xuất phát từ những lý do đó, việc
chọn đề tài nghiên cứu: “Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn
nhân và gia đình của Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc” là cần thiết và có
ý nghĩa to lớn trong lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Bởi vậy tôi
đã chọn đề tài này để làm luận văn thạc sĩ luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và áp dụng
pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng đã được
giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm công tác xét xử
của ngành Tồ án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều bài viết, cơng trình



5
nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh khác nhau về những vấn đề liên quan
đến đề tài như:
- Nguyễn Văn Cừ (2005) “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hơn
nhân và gia đình Việt Nam” Luận án tiến sĩ, Trường đại học Luật Hà Nội;
- Hà Thành Đê (2004), “Thực hiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong
đồng bào dân tộc ít người ở tỉnh Yên Bái”, Luận văn thạc sĩ Luật, Viện Nhà
nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh;
- Lê Thu Hà (1999), “Án dân sự bị kéo dài- vài nguyên nhân và giải
pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01;
- Thuỷ Nguyên (2005), “Áp dụng Luật hơn nhân gia đình khi giải
quyết vụ án có yếu tố nước ngồi”, Tạp chí Tồ án số 17;
- Đặng Quang Phương (1999), “Thực trạng của các bản án hiện nay và
một số kiến nghị nhằm hồn thiện các bản án”, Tạp chí Tồ án số 7,8;
- Lê Xuân Thân (2004), “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
của Toà án nhân dân ở Việt nam hiện nay” Luận án tiến sĩ;
- Chu Đức Thắng (2004), “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các
vụ án dân sự của Toà án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ Luật, Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh;
- Bùi Văn Thuấn (2002), “Phụ nữ và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với tài sản riêng và chung”, Luận văn thạc sĩ Luật học
Ngồi ra, trên các tạp chí khác như: Tạp chí Luật học; Tạp chí Kiểm
sát; Tạp chí Dân chủ; Tạp chí Nhà nước và Pháp luật… cũng có nhiều bài viết
nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật.
Các bài viết và các cơng trình trên nói chung đã làm rõ một số khía
cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc áp dụng pháp luật trong giải quyết
các vụ án Hơn nhân và gia đình làm tiền đề tư liệu vật chất quan trọng cho

việc nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, các bài viết trên hoặc nghiên cứu chung về


6
việc áp dụng pháp luật của Toà án nhân dân hoặc nghiên cứu một khía cạnh
nào đó của hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân
và gia đình. Đến nay, chưa có một cơng trình nào phân tích một cách tồn
diện, đầy đủ có hệ thống dưới góc độ Lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp
luật trong giải quyết các vụ án Hơn nhân và gia đình của Tồ án nhân dân ở
tỉnh Vĩnh Phúc. Đó cũng chính là một trong những lý do khiến học viên chọn
chủ đề này làm đề tài luận văn Cao học Luật của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nghiên cứu cơ sở lý luận của việc
áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án Hơn nhân và gia đình; đánh giá
thực trạng của hoạt động này trong những năm qua của Toà án nhân dân ở
tỉnh Vĩnh Phúc, trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giải quyết các các vụ án nói chung và các vụ án Hơn nhân
và gia đình nói riêng của Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của hệ thống Toà án nước ta.
- Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Một là, Phân tích cơ sở lý luận của việc áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân đối với các vụ án hôn nhân và gia đình, cụ
thể tại tỉnh Vĩnh Phúc;
Hai là, Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết các các
vụ án hơn nhân và gia đình của Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh phúc từ năm
2005 đến nay, rút ra những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của
những hạn chế đó;
Ba là, Làm sáng tỏ những quan điểm và luận chứng cho các giải pháp

chủ yếu nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân
và gia đình của Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


7
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp
luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình, nghiên cứu thực trạng áp
dụng pháp luật, nguyên nhân và những bất cập trong việc áp dụng pháp luật
của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc từ đó đưa ra những giải pháp đảm bảo
cho áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình của
Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận trong giải quyết các vụ án
hôn nhân và gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc, khơng đề cập đến việc áp dụng pháp
luật trong giải quyết các việc dân sự liên quan đến hơn nhân và gia đình, các
loại án khác tại Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và tại các địa phương khác.
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ và liên quan đến mốc thời điểm có
hiệu lực của Luật hơn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 và Bộ luật dân sự năm 2005 nên phạm vi nghiên cứu của luận văn được
xác định từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là quan điểm của Đảng chỉ đạo
về cải cách tư pháp trong thời gian tới.
- Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử Mác xít, chú trọng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Bên cạnh đó, cịn


8
sử dụng các phương pháp phổ biến và hiện đại khác như thống kê luật học, so
sánh… trong quá trình nghiên cứu để giải quyết vấn đề một cách toàn diện.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu việc áp dụng pháp
luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Tồ án nhân dân ở
tỉnh Vĩnh Phúc. Vì vậy, có thể đóng góp khoa học mới ở những góc độ sau:
- Nêu, phân tích và làm rõ được khái niệm, đặc điểm và các giai đoạn
áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình;
- Đánh giá thực trạng và chỉ ra được những hạn chế, bất cập cảu áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Tồ
án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời, phân tích làm rõ được nguyên nhân
của những hạn chế, bất cập đó;
- Đề xuất, phân tích được những quan điểm và các giải pháp có tính
khả thi nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật có hiệu quả trong giải quyết các vụ
án hơn nhân và gia đình của Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về áp
dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn
nhân và gia đình của Tồ án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, làm sáng tỏ
những đặc thù của loại án này ở tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời, luận văn cung cấp
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, tài liệu tham khảo cho những người trực tiếp
làm công tác áp dụng pháp luật hơn nhân và gia đình trong hoạt động xét xử.
Bên cạnh đó, có thể sử dụng luận văn làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên Luật và

không chuyên Luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng…
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương 7 mục.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TỒ ÁN NHÂN DÂN

1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn
nhân và gia đình của Tồ án nhân dân
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Nhà nước ra đời đồng thời Nhà nước sử dụng cơng cụ của mình là pháp
luật bằng cách ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh, quản
lý các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hố, giáo dục,
an ninh quốc phòng, khoa học kỹ thuật... Tuy nhiên, để pháp luật thực sự đi
vào cuộc sống thì ngoài yếu tố như sự phù hợp của hệ thống quy phạm pháp
luật với các điều kiện kinh tế, lịch sử, trình độ phát triển của xã hội, Nhà nước
cịn phải quan tâm không kém phần quan trọng đến hoạt động tổ chức thực
hiện và áp dụng pháp luật một cách nghiêm minh. Bởi lẽ, cho dù có ban hành
ra những văn bản pháp luật hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các quy định của
những văn bản đó khơng thực hiện được trên thực tế thì mục đích điều chỉnh
pháp luật vẫn chưa đạt được mà chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật trong đời sống thực tế.
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách

quan của quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều
nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ cơng tác quản lý nhà nước
kém hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt
động có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thực hiện pháp luật là hành vi của con người phù hợp với những quy
định của pháp luật. Nói cách khác, đó là hành vi không trái, không vượt quá


10
phạm vi các quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho Nhà nước và cho
bản thân các cá nhân. Hành vi hợp pháp rất đa dạng và phong phú, chúng có
thể được thực hiên phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể
chỉ phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Hành vi hợp pháp của các chủ thể có
thể được thực hiện xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự tự giác của bản
thân chủ thể; do ảnh hưởng của dư luận xung quanh hoặc là kết quả của việc
áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật rất phong phú
nên hình thức thực hiện chúng cũng được tiến hành theo nhiều cách khác
nhau. Khoa học pháp lý đã xác định có bốn hình thức thực hiện pháp luật sau:
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành động mà pháp
luật ngăn cấm.
Thứ hai, chấp hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực.
Thứ ba, sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật sử dụng các quyền năng pháp lý để bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của mình.

Thứ tư, áp dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó Nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ
chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc
tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm
phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Như vậy, trong bốn hình thức thực hiện pháp luật nêu trên thể hiện: nếu
như tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những


11
hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật
là hình thức ln ln có sự tham gia của Nhà nước - là một hình thức thực
hiện pháp luật đặc biệt. Bởi, nếu chỉ thơng qua các hình thức thực hiện pháp
luật như: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật thì
pháp luật có lúc khơng được thực hiện triệt để vì các chủ thể khơng tự giác
thực hiện. Các hình thức này chỉ do các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện mà
khơng có cự bắt buộc thực hiện của Nhà nước. Đối với áp dụng pháp luật thì
mục đích trực tiếp là đảm bảo cho những quy phạm pháp luật được thực hiện
trong thực tế đời sống, phát huy được hiệu lực trong hoạt động thực tế của các
chủ thể pháp luật. Thực tế đã cho thấy, có những trường hợp nếu khơng có sự
can thiệp của Nhà nước thì nhiều quy phạm pháp luật sẽ không được thực
hiện hoặc thực hiện không đúng.
Áp dụng pháp luật là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
hoặc các tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền trong việc tổ chức, tạo
điều kiện cho các chủ thể pháp luật thực thiện các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp
luật, vừa là cách thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật.
Nghiên cứu áp dụng pháp luật cho thấy áp dụng pháp luật có một số
đặc điểm đặc thù sau:
Một là, áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do những cơ quan nhà nước

có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định các cơ quan nhà nước khác nhau có
thẩm quyền áp dụng pháp luật khác nhau. Ngoài ra, trong một số trường hợp cá
biệt, pháp luật trao cho các tổ chức xã hội thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Hai là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.
Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp
dụng pháp luật theo ý chí đơn phương, khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể
bị áp dụng. Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và
được bảo đảm bởi sức mạnh cưỡng chế nhà nước.


12
Ba là, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tiến hành theo các thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định.
Bốn là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Nghĩa là,
khn khổ của pháp luật cho phép người áp dụng pháp luật phải vận dụng tri
thức khoa học của mình để áp dụng pháp luật sáng tạo trên cơ sở có ý thức
pháp luật cao, có kiến thức tổng hợp, kinh nghiệm cuộc sống phong phú mà
khơng rập khn, máy móc.
Áp dụng pháp luật thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bằng những chế tài thích
hợp đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Tồ án áp dụng pháp luật để ra một bản án đối với người có hành
vi phạm tội.
- Khi các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể khơng tự phát sinh
nếu khơng có sự tác động của nhà nước.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham
gia các quan hệ pháp luật mà họ không tự giải quyết được.
Ví dụ: Tồ án áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên tham gia hợp đồng.
- Trong trường hợp nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra,

giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc nhà nước xác nhận
sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.
Ví dụ: Việc chứng nhận đăng ký kết hơn…
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về áp dụng pháp luật như
sau: Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà
nước, được thực hiện thơng qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc
các tổ chức xã hội, các cá nhân được Nhà nước trao quyền căn cứ vào các
quy định của pháp luật để ban hành ra văn bản áp dụng pháp luật làm phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.


13
1.1.1.2. Khái niệm vụ án hơn nhân và gia đình
Để hiểu về khái niệm vụ án hôn nhân và gia đình, trước tiên chúng ta
cần hiểu thế nào là hơn nhân và gia đình:
- Hơn nhân: Là hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa người đàn ông và
người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống
với nhau. Sự liên kết đó phát sinh, hình thành do việc kết hơn và được biểu
hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng.
Quan hệ này là quan hệ giới tính, thực chất và ý nghĩa của nó là biểu hiện
trong việc sinh đẻ, ni nấng, giáo dục con cái, đáp ứng những nhu cầu về
tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Trong mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử, giai cấp thống trị bằng pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân cho
phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phù hợp với lợi ích giai cấp mình,
xã hội nào thì có hình thái hơn nhân đó và tương ứng với chế độ hôn nhân
nhất định. Chẳng hạn, xã hội phong kiến có hình thức hơn nhân phong kiến,
mang bản chất của hôn nhân phong kiến. Trong xã hội tư bản có hình thức
hơn nhân tư sản mang bản chất của xã hội tư sản. Xã hội xã hội chủ nghĩa có
hình thức của hơn nhân xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta hiện nay, hôn nhân theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam

là sự liên kết giữa một người đàn ơng và một người đàn bà trên ngun tắc
hồn tồn tự nguyện, bình đẳng theo quy định của pháp luật để chung sống
với nhau suốt đời, xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hồ thuận và bền
vững. Khoản 6, điều 8 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 giải thích: “Hơn
nhân là quan hệ giữa người vợ và chồng sau khi đã kết hơn”.
- Gia đình: Tại khoản 10, điều 8 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000
quy định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hơn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ
và quyền giữa họ với nhau” [31, tr.13].


14
Điều đó thể hiện, gia đình có thể gồm vợ chồng, con cái, anh chị em,
cha mẹ, ông bà... cùng chung sống với nhau, có quan hệ huyết thống hoặc
quan hệ ni dưỡng. Trong q trình chung sống phát sinh các quyền và nghĩa
vụ đối với nhau.
Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội mà ln ln được
các nhà triết học, xã hội học, sử học, luật học... nghiên cứu. Hơn nhân là cơ sở
của gia đình, cịn gia đình là tế bào của xã hội, mà trong đó kết hợp chặt chẽ,
hài hồ lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chứng minh một cách khoa học rằng: Hôn nhân và gia đình là phạm trù
phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có
mối liên quan trực tiếp và chặt chẽ. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và Nhà nước” (1884), Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: Chế độ
gia đình trong xã hội phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thống trị trong xã hội đó
và bước chuyển hình thái gia đình này lên gia đình khác cao hơn suy cho cùng
được quyết định bởi những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Bằng tác
phẩm đó, Ph.Ăngghen đã làm thay đổi quan điểm trước đây về hình thái hơn
nhân và gia đình trong lịch sử.
Như vậy, hơn nhân gia đình là một lĩnh vực có thể nói là rất phức tạp,

liên quan đến nhiều cá nhân, nhiều thế hệ (ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái)
và mọi sự biến động liên quan đến gia đình đều làm phát sinh hàng loạt các
vấn đề pháp lý phức tạp, “chồng chéo” lên nhau. Khi trong gia đình phát sinh
những mâu thuẫn, bất đồng quan điểm về một hay các mối quan hệ liên quan
đến hơn nhân (tình cảm, con chung, tài sản chung...) mà các thành viên trong
gia đình khơng thể tự thoả thuận, dàn xếp được với nhau dẫn đến phải khởi
kiện ra tồ án thì được gọi là vụ án về hơn nhân và gia đình.
Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, những
tranh chấp về hơn nhân gia đình sau đây sẽ do tịa án giải quyết thông qua đơn
khởi kiện của các đương sự là vụ án hơn nhân và gia đình.


15
1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
5. Tranh chấp về cấp dưỡng.
6. Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Với phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: vụ án hơn nhân và gia đình là
thuật ngữ chung dành để chỉ những tranh chấp giữa các đương sự liên quan
đến lĩnh vực hơn nhân gia đình, được tịa án xem xét giải quyết theo trình tự
và thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.
1.1.1.3. Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và
gia đình của Tồ án nhân dân
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, mặc dù không quy định rõ Toà
án là cơ quan xét xử, nhưng trên tinh thần của Hiến pháp chúng ta cũng có thể
hiểu Tịa án là cơ quan xét xử. Sau đó, Hiến pháp năm 1959, 1980 và Hiến

pháp 1992 đã quy định rõ về chức năng xét xử của Toà án. Tại Điều 127 của
Hiến pháp 1992 đã quy định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân
địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là cơ quan xét
xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [30, tr.171]. Trên cơ sở
Hiến pháp, Điều 1 Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định về chức năng xét
xử của Toà án: “Tồ án xét xử những vụ án về hình sự, dân sự, hơn nhân và
gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy
định của pháp luật” [32, tr.7].
Trong quá trình giải quyết các vụ án, Toà án phải áp dụng pháp luật để
giải quyết. Đối với quan hệ hơn nhân và gia đình, khi có tranh chấp xảy ra,


16
các đương sự khơng tự mình giải quyết được thì theo quy định của pháp luật,
đương sự có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tồ án nhân dân có thẩm quyền để
đề nghị giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004, khi đương sự gửi đơn
khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình đến Tồ án nhân dân cấp có thẩm quyền
giải quyết, Tòa án xem xét nếu thấy đủ điều kiện thì sẽ thụ lý vụ án và giải
quyết theo trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự quy định từ khâu thu thập tài
liệu chứng cứ liên quan đến vụ án, lựa chọn quy phạm pháp luật điều chỉnh để
ra bản án hoặc quyết định buộc các đương sự thi hành bằng các hình thức tự
nguyện hoặc có sự cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì Tồ án là cơ quan
tiến hành tố tụng chủ yếu trong việc áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án
dân sự nói chung, vụ án hơn nhân và gia đình nói riêng. Ngồi ra, cịn có sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong việc kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị ,
kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc
dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Đồng thời, Viện kiểm sát tham gia phiên toà

đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại,
các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự
mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tồ án [33, tr.16].
Như vậy, có thể định nghĩa: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ
án hơn nhân và gia đình là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà
nước, được thực hiện thông qua hoạt động của Thẩm phán (trong trường hợp
giải quyết vụ án khơng phải mở phiên tồ xét xử ) hoặc Hội đồng xét xử (sau
khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử) căn cứ vào các quy định của pháp luật
hơn nhân và gia đình, các quy định khác của pháp luật để ra một quyết định
cá biệt hoặc một bản án làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ
pháp luật về hôn nhân và gia đình.


17
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn
nhân và gia đình của Tồ án nhân dân
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của
Tịa án nhân dân là sự biểu hiện của áp dụng pháp luật nói chung, nó mang
đầy đủ đặc điểm của áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, do tính chất riêng biệt của
các quan hệ hơn nhân và gia đình cùng với trình tự, thủ tục giải quyết các vụ
án hôn nhân và gia đình của pháp luật tố tụng dân sự trong giải quyết các vụ
án hơn nhân và gia đình của Tồ án cho nên áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án hơn nhân và gia đình có những đặc điểm riêng sau:
- Thẩm quyền giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Tồ án nhân
dân: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình chỉ do
Tồ án nhân dân có thẩm quyền tiến hành, Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình.
Thẩm quyền giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Tòa án được
quy định rất rõ tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, quy định về thẩm quyền
giải quyết của Tòa án giúp cho việc giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình

của Tồ án được thuận lợi, tạo điều kiện cho đương sự cũng như đáp ứng
được yêu cầu theo quy định của pháp luật nói chung.
Khoản 2, Điều 32 Luật tổ chức Tồ án nhân dân năm 2002 quy định:
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ
thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định: Toà án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại; yêu cầu về dân sự, hơn nhân gia đình. Đối với tranh chấp về hơn
nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện
tại điểm a, khoản 1, Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự quy định Tồ án nhân dân
cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục những tranh chấp về hôn
nhân và gia đình quy định tại Điều 27 của Bộ luật tố tụng dân sự.


18
Về thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh, tại Điều 28
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định thẩm quyền nói chung của
Tồ án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo đó Tồ án nhân
dân cấp tỉnh có các thẩm quyền sau:
1. Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
2. Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng.
3. Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực thi hành luật của Tồ án nhân dân cấp dưới bị kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng.
4. Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định Toà án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục

sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật tố tụng dân sự,
trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp
huyện quy định tại khoản 1 Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự và theo khoản 2 Điều
33 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tồ án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết
những tranh chấp hơn nhân và gia đình mà đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài
hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài,
cho Toà án nước ngoài; giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều
33 của Bộ luật tố tụng dân sự mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
Căn cứ vào quy định trên thì Tồ án nhân dân cấp huyện có đầy đủ
thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm các vụ án hơn nhân và gia đình,
trừ những vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh.


19
Tồ án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các vụ án hơn nhân và gia
đình theo các trình tự cơ bản. Cụ thể, Tồ dân sự (Tịa chuyên trách) giải
quyết các vụ án hôn nhân và gia đình theo trình tự sơ thẩm và phúc thẩm; Ủy
ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm đối với những bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp
huyện đã có hiệu lực pháp luật.
- Thủ tục giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Toà án nhân
dân: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình được
tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng dân sự và các quy
phạm pháp luật của Luật hơn nhân và gia đình quy định. Khi tiến hành giải
quyết một vụ án hơn nhân và gia đình, các trình tự xây dựng hồ sơ từ khâu thụ
lý, điều tra, thu thập chứng cứ đến khi ra quyết định hoặc đưa vụ án ra xét xử
đều phải tuân theo các bước như đã quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự
nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.

- Nguyên tắc áp dụng luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia
đình của Toà án nhân dân: Toà án là cơ quan thụ lý và giải quyết các vụ án
hôn nhân và gia đình, nhân danh Nhà nước ra các phán quyết nhằm đảm bảo
quyền lợi ích của các đương sự. Chính vì vậy, đòi hỏi khi Tòa án áp dụng
pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình Toà án phải tuân
theo những nguyên tắc cơ bản của luật hơn nhân và gia đình, của Bộ luật tố
tụng dân sự cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đến việc áp dụng
pháp luật giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình.
1.2. CÁC GIAI ĐOẠN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án
hôn nhân và gia đình
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án Hơn nhân và gia đình của
Tồ án nhân dân là sự biểu hiện cụ thể của áp dụng pháp luật nói chung. Tuy


20
nhiên, do tính đa dạng của tranh chấp Hơn nhân gia đình và những quy định
về thủ tục tố tụng khi giải quyết các vụ án do pháp luật quy định nên việc áp
dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình được chia ra
các giai đoạn sau:
Một là, phân tích những tình tiết thực tế khách quan của vụ án hơn
nhân và gia đình và các đặc trưng pháp lý của nó.
Đây là hoạt động đầu tiên trong các giai đoạn áp dụng pháp luật giải
quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của Toà án nhân dân. Trong hoạt động
này, Toà án phải xác định loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tồ án cấp nào
giải quyết, hoặc thơng báo cho các đương sự quyền được lựa chọn Toà án. Do
vậy, trước khi thụ lý vụ án Toà án phải xem xét đơn khởi kiện có thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tồ án khơng, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết Tồ án

sẽ tiến hành thụ lý đơn khởi kiện và thu thập các thông tin liên quan đến vụ án
như: Đơn khởi kiện, đăng ký kết hơn, xác định nơi có hộ khẩu cư trú hoặc nơi
cư trú cuối cùng của đương sự, nguyện vọng của các đương sự lựa chọn Toà
án giải quyết và các giấy tờ, tài liệu khác liên quan để xác định thẩm quyền
giải quyết của Toà án.
Để làm rõ được các tình tiết khách quan và nội dung của vụ án hơn
nhân và gia đình thì Tồ án phải tiến hành điều tra xác minh, thu thập chứng
cứ, đánh giá các tình tiết của vụ án trên cơ sở tài liệu chứng cứ đã thu thập.
Tuy nhiên, có những trường hợp Tồ án khơng nhất thiết phải tiến hành điều
tra xác minh mà xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt và nghĩa vụ
chứng minh của các bên đương sự tự xuất trình chứng cứ, các đương sự tự
thoả thuận được với nhau về các quan hệ trong vụ án hơn nhân và gia đình, thì
vụ án cũng không phải tiến hành tất cả các hoạt động điều tra, đây cũng là đặc
điểm riêng của vụ án hơn nhân và gia đình.
Như vậy, đây là giai đoạn đầu của quá trình áp dụng pháp luật trong
giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình. Ở giai đoạn này, địi hỏi khơng chỉ


21
xác định những tình tiết, sự kiện của vụ án mà còn phải đánh giá tầm quan
trọng về mặt pháp lý của nó. Địi hỏi khi áp dụng pháp luật để giải quyết vụ
án hơn nhân và gia đình phải nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ tất
cả các tình tiết của vụ án, xác định đặc trưng pháp lý của vụ án, tuân thủ tất cả
các quy định mang tính thủ tục gắn với vụ án hơn nhân và gia đình.
Hai là, lựa chọn các quy định pháp luật tương ứng để giải quyết vụ án
hôn nhân và gia đình
Trên cơ sở phân tích những tình tiết khách quan và làm rõ đặc trưng
của vụ án hôn nhân và gia đình, thì trong giai đoạn này, trước tiên Tòa án phải
lựa chọn các quy phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình, về dân sự, tố tụng
dân sự và các văn bản có liên quan đến vụ án để áp dụng.

Việc lựa chọn các quy phạm pháp luật để áp dụng được tiến hành theo
ý chí đơn phương của Tịa án có thẩm quyền, khơng phụ thuộc vào ý chí của
chủ thể bị áp dụng. Tuy nhiên, một số trường hợp có thể trong khi giải quyết
vụ án các đương sự có thể thực hiện quyền của mình theo pháp luật quy định
sẽ thay đổi quan điểm, nên dẫn đến vụ án không phải tiếp tục điều tra, xét xử
mà có thể ra một trong các quyết định theo hướng khác phụ thuộc vào ý chí
của các chủ thể bị áp dụng pháp luật như Quyết định đình chỉ vụ án (khi
nguyên đơn rút đơn khởi kiện) hay Quyết định công nhận sự thoả thuận của
các đương sự (khi các đương sự hoà giải thành được với nhau về nội dung vụ
án), Quyết định công nhận thuận tình ly hơn (khi các bên tự nguyện ly hôn và
đã thoả thuận về việc chia tài sản, con chung) nhưng lựa chọn các quy phạm
pháp luật vẫn là do Toà án thực hiện.
Ba là, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp luật hôn
nhân và gia đình và các quy phạm pháp luật khác có liên quan khi đưa ra áp
dụng đối với vụ án hơn nhân và gia đình.
Làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp luật hôn nhân và
gia đình cũng như các quy phạm pháp luật có liên quan nhằm mục đích bảo


22
đảm áp dụng đúng đắn pháp luật vào giải quyết vụ án hơn nhân và gia đình.
Đây là q trình Thẩm phán giải quyết vụ án phải vận dụng tổng hợp các tri
thức chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là các tri thức pháp lý.
Để làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung các quy phạm pháp luật đưa ra áp
dụng, đòi hỏi Thẩm phán giải quyết vụ án phải biết giải thích pháp luật thơng
qua các phương pháp như phương pháp lơgic, phương pháp giải thích về mặt
lịch sử, phương pháp giải thích về mặt văn phạm, phương pháp giải thích hệ
thống và một số phương pháp khác để nhận thức đầy đủ và đúng đắn pháp
luật đưa ra áp dụng đối với vụ án hôn nhân và gia đình.
Bốn là, ra bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ án hơn nhân và gia

đình
Đây là giai đoạn thể hiện kết quả của ba giai đoạn trên. Ở giai đoạn này,
Tồ án có thẩm quyền, cụ thể là Thẩm phán và Hội đồng xét xử ra quyết định
hoặc bản án để quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các đương sự
trong vụ án hơn nhân và gia đình. Quyết định hoặc bản án này thể hiện rất rõ
trình độ và năng lực của Thẩm phán cũng như của Hội đồng xét xử khi áp
dụng pháp luật. Bởi vì, trong giai đoạn này, các phán quyết cuối cùng thể hiện
tính pháp lý chính là việc vận dụng các quy định pháp luật về lĩnh vực hơn
nhân và gia đình để giải quyết vụ án hơn nhân và gia đình.
Khi ra quyết định hay bản án, Thẩm phán hay Hội đồng xét xử không
thể xuất phát từ ý muốn chủ quan hoặc tình cảm cá nhân của mình mà quyết
định hay bản áp áp dụng pháp luật được ban hành phải phù hợp với quy phạm
pháp luật đưa ra áp dụng. Nội dung của quyết định, bản án phải rõ ràng, chính
xác, nêu rõ được các quan hệ tranh chấp cần giải quyết và tuân thủ đúng quy
định của Luật tố tụng dân sự và pháp luật liên quan.
1.2.2. Nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hôn
nhân và gia đình của Tồ án nhân dân


23
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình của
Tồ án nhân dân được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
như sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong thụ lý, điều tra, đình chỉ và tạm đình
chỉ vụ án hơn nhân và gia đình:
- Áp dụng pháp luật trong thụ lý vụ án:
Theo quy định tại Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự thì cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp khởi kiện
vụ án tại Tồ án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình [33, tr.114]. Như vậy, theo quy định trên thì cá nhân, cơ quan, tổ

chức do Bộ luật tố tụng dân sự có quyền khởi kiện về việc hơn nhân và gia
đình tại Tồ án nhân dân có thẩm quyền. Cụ thể hơn về quyền yêu cầu Tồ án
giải quyết việc ly hơn, tại khoản 1, Điều 85 Luật hơn nhân và gia đình năm
2000 quy định: vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tồ án giải
quyết việc ly hơn.
Điều 27 và 28 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định những vụ việc hơn
nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án như sau:
Tại Điều 27 quy định về những tranh chấp về hơn nhân và gia đình
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án gồm:
- Ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ;
- Tranh chấp về cấp dưỡng;
- Các tranh chấp khác về hơn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Tại Điều 28 quy định những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tồ án gồm:
- Yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật;


24
- u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, ni con, chia tài sản khi ly hôn;
- Yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con
sau khi ly hôn;
- Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc
quyền thăm nom con sau khi ly hôn;
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về
hơn nhân và gia đình của Tồ án nước ngồi hoặc không công nhận bản án,
quyết định về hôn nhân và gia đình của Tồ án nước ngồi mà khơng có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam;

- Các yêu cầu khác về hơn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Như vậy, với quy định tại Điều 27 và 28 của Bộ luật tố tụng dân sự trên
thì chỉ những tranh chấp về hơn nhân và gia đình được quy định tại Điều 27
Bộ luật tố tụng dân sự được gọi là vụ án hôn nhân và gia đình, cịn những quy
định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự là những yêu cầu về hôn nhân và gia
đình mặc dù vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhưng là yêu cầu
giải quyết việc dân sự theo quy định tại Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự.
Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức xét thấy cần khởi kiện vụ án về tranh
chấp hôn nhân và gia đình đối với một trong các tranh chấp quy định tại Điều
27 Bộ luật tố tụng dân sự đến Tồ án nhân dân có thẩm quyền để u cầu bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình thì sẽ làm đơn khởi kiện gửi kèm theo
những tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Tồ án
tiến hành thủ tục nhận đơn khởi kiện do đương sự gửi đến. Trong thời hạn
năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, nếu thấy vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình thì Toà án tiến hành các thủ tục thụ lý vụ án,
cụ thể như thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ
tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.


25
Tịa án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho
người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày
kể từ ngày nhận được giấy báo của Tồ án về việc nộp tiền tạm ứng án phí,
người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Tồ án sẽ thụ lý vụ án khi
người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp
người khởi kiện được miễn hoặc khơng phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí
thì Tồ án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo [33, tr.120].
Như vậy, thụ lý vụ án là hoạt động đầu tiên trong áp dụng pháp luật
trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình. Điều kiện để thụ lý vụ án hơn

nhân và gia đình địi hỏi trước khi thụ lý Toà án phải xem xét nhiều vấn đề
liên quan như chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án, thẩm quyền theo vụ việc,
thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo cấp xét xử, xem xét người khởi
kiện có quyền khởi kiện hay khơng, có đủ năng lực hành vi dân sự khơng...
sau khi có đầy đủ các điều kiện để thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật tố
tụng thì Tồ án phải thụ lý vụ án đúng thời hạn của Bộ luật tố tụng dân sự đã
quy định.
- Áp dụng pháp luật trong điều tra vụ án:
Điều tra vụ án là giai đoạn quan trọng và khó khăn nhất trong q trình
giải quyết vụ án, bởi chỉ khi thu thập chứng cứ đầy đủ, khách quan thì Tồ án
mới có thể ra được phán quyết chính xác và đúng pháp luật. Do đó, địi hỏi
Thẩm phán giải quyết vụ án phải thận trọng khi điều tra thu thập chứng cứ.
Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán được Chánh án Tồ án phân cơng giải
quyết vụ án tiến hành các công việc như: Thông báo thụ lý vụ án; yêu cầu
đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án; thực hiện một số biện pháp thu
thập chứng cứ theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự thì ngun tắc
chung các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và


×