Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

ThS luat vai trò của viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh bắc giang trong việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.27 KB, 130 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là vốn quí của tự nhiên và xã hội. Quyền con người ngày
càng được khẳng định, thừa nhận như một hệ giá trị cao siêu nhất của nhân
loại. Vì hế, quyền con người vừa là "quyền tự nhiên", rằng: "con người ta sinh
ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc". Đồng thời quyền con
người có tính lịch sử, hình thành qua các cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ
sung qua các thời đại khác nhau. Từ khi nhà nước và pháp luật ra đời đến nay,
quyền con người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ mỗi con người đều được
hưởng và bình đẳng với nhau. Bảo đảm quyền con người bằng nhà nước thực
chất là bảo đảm quyền tự do dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân. Đó là mục tiêu của các Nhà nước dân chủ, tiến bộ và cũng là mục tiêu
mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Vì vậy, việc bảo đảm thực hiện các quyền con người cũng là một
lẽ tự nhiên; là nội dung cơ bản, quan trọng, chủ yếu, không thể thiếu được
trong các quy định của hệ thống pháp luật của Nhà nước nói chung và trong
lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Tố tụng hình sự là quá trình phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Do đó, tố tụng hình sự chính là cơng
cụ sắc bén của Nhà nước và xã hội trong đấu tranh phòng và chống tội phạm,
bảo vệ cuộc sống bình yên và những giá trị vật chất, tinh thần chân chính của
con người và xã hội. Xét trên bình diện ấy, hoạt động tố tụng hình sự có tính
nhân văn sâu sắc. Nhưng để Tịa án ra được phán quyết một con người là
“người phạm tội” phải trải qua một trình tự và thủ tục tố tụng hình sự chặt
chẽ, nghiêm ngặt. Q trình đó các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng áp dụng các biện pháp bảo đảm cho quá trình tố tụng đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, nhưng không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền


2


cơ bản của con người. Đặc biệt là người chưa thành niên bị tạm giữ, tạm
giam, bị can, bị cáo. Việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hóa....trong đó Nhà nước
bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm việc thực thi
pháp luật có hiệu quả là cực kỳ quan trọng.
Bảo vệ quyền con người nói chung và của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo nói riêng là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tiến hành tố tụng. Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: Khi tiến
hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó
Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải tơn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, thường
xun kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đó áp dụng,
kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp
luật hoặc khơng cịn cần thiết nữa. Mỗi cơ quan tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ
của mình mà có những phương thức bảo vệ quyền con người khác nhau.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có vai trị
trực tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người
trong các vụ án hình sự. Thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự trong những năm
vừa qua ở tỉnh Bắc Giang cho thấy, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung
và người chưa thành niên phạm tội nói riêng đã đạt được những thành tựu
nhất định. Các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân về cơ bản đã được bảo
đảm, đã hạn chế được tình trạng oan, sai. Tuy nhiên thực tế vẫn cịn có nhiều
trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng chưa bảo đảm thực hiện đầy đủ các
quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng hình sự.
Đặc biệt đối với những vụ án có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên phạm tội, bị các cơ quan tố tụng và những người tiến hành tố



3
tụng lạm dụng việc bắt giữ, thậm chí có những trường hợp bị khởi tố, bắt tạm
giam sau đó phải đình chỉ điều tra do khơng phạm tội. Ngun nhân dẫn đến
tình trạng này, có phần trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân chưa thực
hiện được đầy đủ vai trị trách nhiệm của mình trong hoạt động tố tụng hình
sự.
Về mặt lý luận, vấn đề nghiên cứu quyền con người trong tố tụng hình
sự đã có một số cơng trình khoa học cơng bố, bài viết, bài nghiên cứu trên các
sách báo chuyên ngành ở những góc độ nhất định. Tuy nhiên, những cơng
trình này mới chỉ đề cập đến một số vấn đề có liên quan đến vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong từng giai đoạn tố tụng hình sự; về vấn đề bảo đảm
quyền con người của người chưa thành niên hoặc quyền con người nói chung
trong từng giai đoạn tố tụng; về thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội... chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện trên cả mặt lý luận và thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên là người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Hơn nữa, việc nâng cao vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự nhằm
góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị đã đề ra. Đó là mục tiêu “Xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị), đồng
thời cũng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì



4
dân. Mặt khác, có những nghiên cứu đã thực hiện ở trước thời điểm Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003. Do đó, việc nghiên cứu đề tài về vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự có tính chất
thời sự, cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân ở tỉnh Bắc Giang trong việc bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quyền con người và bảo đảm quyền con người đang trở thành vấn đề
trung tâm của thời đại. Nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đã
tham gia và cam kết thực hiện các Công ước Quốc tế về quyền con người.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vấn đề quyền con người và bảo đảm quyền
con người nói chung và quyền con người của người chưa thành niên nói riêng
đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học như: Triết
học, chính trị học, xã hội học và luật học (cả ở trong và ngồi nước).
Trong các cơng trình nghiên cứu ở nước ta về quyền con người của
người chưa thành niên trong TTHS có liên quan đến đề tài, có thể kể đến các
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Học viện Tư pháp, 2008 đã
làm rõ các quy định pháp luật và áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án
hình sự có người chưa thành niên phạm tội; Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự (1988), Viện Khoa học Pháp lý và Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, PGS,TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb Công an nhân
dân, năm 2004. Các cuốn sách trên đều quan tâm đến tội phạm và người chưa
thành niên; Nghiên cứu đánh giá, phân tích tình hình người chưa thành niên vi



5
phạm pháp luật và hệ thống xử lý tại Việt Nam, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp, 2004; Luận án tiến sĩ: Thủ tục tố tụng hình sự với người chưa thành niên
của Đỗ Thị Phượng, 2008; Tác giả Nguyễn Mạnh Hà với đề tài “Trách nhiệm
của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Viêt
Nam hiện nay”; Tác giả Trần Thúy An với đề tài “Vai trò của Kiểm sát viên
trong phiên tòa xét xử án hình sự theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước tịa án ở Việt Nam”; Tác giả Nguyễn Minh Hải với đề tài “Vai trò của
kiểm sát viên Viện kiểm sát qn sự trong phiên tịa hình sự sơ thẩm”; Tác giả
Phạm Hồng Phong với đề tài “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
hình sự của Toà án nhân dân tỉnh hậu Giang”; tác giả Nguyễn Thu Thủy với đề
tài “Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Việt Nam”; Tác giả Trương Thị Hương Mai với đề tài “Bảo đảm quyền trẻ em
trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân”; Tác giả
Đỗ Thị Ngọc Tuyết với đề tài “Người chưa thành niên phạm tội- Thực trạng,
nguyên nhân và các giải pháp phòng ngừa”; Tác giả Nguyễn Văn Nông với đề
tài “Công tác kiểm sát điều tra những vụ án do người chưa thành niên thực
hiện”; Tác giả Đỗ Thị Phượng với đề tài "Thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo
là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam"; Tác giả
Phạm Thị Khánh Toàn với "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là
người chưa thành niên - một số vấn đề lý luận và thực tiễn"; tác giả Nguyễn Tiến
Đạt với đề tài “Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam”.
Nhìn tổng thể, các cơng trình khoa học, bài viết nêu trên đã đạt được một
số kết quả nhất định về lý luận cũng như thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân và về vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo nói chung hoặc là người chưa thành niên nói riêng trong trong từng
giai đoạn tố tụng hình sự. Do đó có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chưa



6
có một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và tồn diện
về Vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người
của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự và Luận văn này không trùng lặp với bất cứ một cơng trình nào khác.
Tuy nhiên để thực hiện luận văn, tác giả có thể lựa chọn, kế thừa và phát triển
các kết quả nghiên cứu nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
- Mục đích của luận văn: Luận văn nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về quyền con người của người chưa thành niên bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, luận chứng vai trò của Viện kiểm sát trong bảo đảm quyền
con người của người chưa thành niên. Trên cơ sở khảo sát thực tiễn xác định
quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
- Phù hợp với mục đích trên, Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như Nguyên
tắc bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; cơ sở xác
định vai trò của Viện kiểm sát nhân dân và các điều kiện bảo đảm vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc đảm bảo quyền con người đối với người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự.
+ Phân tích thực trạng, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc
Giang trong việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sau khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế trong đó có những vướng mắc, bất cập
của một số quy định pháp luật và vướng mắc, bất cập trong thực tiễn quá trình
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện vai trò bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tụng hình sự những
năm vừa qua.



7
+ Đề xuất và luận chứng các giải pháp chung và giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con
người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con
người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu Luận văn của tác giả chỉ dừng lại ở việc phân
tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Luận văn
cũng khơng có tham vọng trình bày tất cả mọi vấn đề có liên quan đến vai trị
của Viện kiểm sát nhân dân nói chung mà chỉ dừng lại ở vấn đề vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
- Việc đưa ra các giải pháp trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá
thực trạng vai trị của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc Giang trong việc bảo
đảm quyền con người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự. Từ đó nhằm nâng cao vai trị của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự, phù hợp với tiến
trình dân chủ trong giai đoạn đổi mới tồn diện, mà trước mắt là góp phần tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách tư pháp, hoạt động tố tụng hình sự
bảo đảm tính dân chủ, khách quan góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.



8
- Về thời gian Luận văn nghiên cứu: Những vấn đề thực tiễn liên quan
đến đề tài gắn với quá trình thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
- Về cơ sở khoa học: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người, các quan điểm
của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác - Lênin (cả chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử), trực tiếp sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ
thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, Luận văn cũng sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp lôgic,
các phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê, phương pháp đàm thoại trực
tiếp ...
6. Đóng góp mới về khoa học của Luận văn
Luận văn đề cập và giải quyết một cách hệ thống, tồn diện vấn đề vai
trị của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
mà từ trước đến nay chưa được giải quyết một cách triệt để hoặc chỉ giải
quyết ở một khía cạnh nào đó của vấn đề. Góp phần làm rõ nguyên tắc bảo
đảm quyền con người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự; cơ sở xác định vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc bảo đảo quyền con người của người chưa thành niên là người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; phân tích và đánh giá thực
trạng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc Giang trong việc bảo đảm
quyền con người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo



9
trong tố tụng hình sự và đưa ra các giải pháp tồn diện nhằm nâng cao hơn
nữa vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người
của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thực tế
hoạt động tố tụng hình sự hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Từ thực tiễn trong hoạt động tố tụng hình sự và thực trạng vai trị của
Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc Giang, trong việc tham gia bảo đảm quyền
con người đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên
rất phong phú và đa dạng; qua nghiên cứu, tác giả đưa ra những kiến nghị
nhằm nâng cao hơn nữa vai trị của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và ở
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang nói riêng trong việc bảo đảm quyền
con người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự một cách có hiệu quả nhất. Những kiến nghị mà tác giả đưa ra
vừa có ý nghĩa như một đề xuất mang tính khoa học góp phần hồn thiện chế
định về vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con
người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự ở Việt Nam, vừa có giá trị thực tiễn góp phần vào việc thực hiện
thắng lợi Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị (khóa IX)
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã đề ra.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
Luận văn gồm có 3 chương, 9 tiết.


10

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN LÀ NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. QUAN NIỆM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ
CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1.1. Quan niệm về quyền con người nói chung
Con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên “quyền con
người” luôn luôn trở thành nội dung quan trọng thu hút được sự quan tâm cả
về phương diện lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia,
của từng khu vực và mang tính tồn cầu. Mãi đến sau này (thế kỷ 18) “quyền
con người” mới được khẳng định, nhưng những ý tưởng về nó lại ra đời rất
sớm cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước. Từ
thời cổ đại những tư tưởng và yêu sách về các quyền, mà trước hết yêu sách
về các quyền con người (quyền được sống, quyền tự do….) đã được phát sinh
ở vùng Địa Trung Hải là nơi có nền văn minh, kinh tế phát triển rực rỡ nhất
lúc bấy giờ. Sau khi các quyền con người được triển khai ở các quốc gia trong
vùng và khu vực xung quanh rồi mới xâm nhập vào xã hội châu Âu cổ đại và
châu Âu mới.
Xã hội càng phát triển, các trường phái triết học, pháp luật dần hình
thành, lớn mạnh. Các trường phái này đi vào nghiên cứu giải thích các vấn đề
tự nhiên, xã hội, con người. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18 trường phái pháp
luật tự nhiên với các đại diện như: Spinoda, Hobbes, Kant... đã mở ra một
trang mới cho sự phát triển tư tưởng bảo vệ quyền cá nhân chống lại sự vi
phạm từ phía quyền lực nhà nước, tức là bảo vệ các quyền hiển nhiên, có sẵn



11
của con người (quyền tự nhiên), không phải quyền do Nhà nước, pháp luật
ban phát. Tư tưởng này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật đổ chế độ
phong kiến tàn bạo, thiết lập Nhà nước mà ở đó con người với những giá trị
đích thực của nó được nâng lên một bước - công dân của xã hội Nhà nước chứ
không phải thần dân của ông vua.
Khi bàn đến quyền con người Jaeque Mourgeon (giáo sư đại học khoa
học xã hội Toulouse) đã cho rằng:
Quyền con người trước hết được hiểu là những đặc quyền tự
nhiên mà con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách
nhiệm nhất là tự bảo vệ. Nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên)
chưa phải là quyền con người. Mà để đạt đến cái gọi là “quyền” thì phải
có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các
đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật
mới trở thành quyền con người [30, tr. 131].
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học coi con người vừa là sản
phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm xã hội, Chủ Nghĩa Mác-Lênin cho rằng vấn
đề quyền con người: "Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội".
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là "động vật xã hội" [18, tr.
855], con người là động vật cao cấp nhất trong quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt
này quyền con người trước hết được hiểu là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con
người không phải là một "tặng vật", do giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà
nước mà quyền con người trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất
tự nhiên, được thể hiện ở quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo,
phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng đáng với con người.
Xét về mặt xã hội theo quan niệm này, khi con người tiến hóa trở
thành động vật cao cấp, con người đã sống thành bầy đàn và trở thành sản
phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cương thứ VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho
rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những quan



12
hệ xã hội" [17, tr. 21]. Như vậy, con người mặc dù vẫn là thực thể tự nhiên
sinh học, là bộ phận của tự nhiên, nhưng bên cạnh đó, để được gọi là người nó
cịn phải tồn tại trong cộng đồng xã hội, và biến đổi cùng với cộng đồng xã hội
của mình. Bằng khả năng của mình, con người tác động vào tự nhiên, xã hội làm
biến đổi tự nhiên và xã hội để phục vụ nhu cầu tự tồn tại, phát triển của mình.
Do đó xét về khía cạnh xã hội, thì "quyền con người, ngay từ khi có xã hội lồi
người, bên cạnh bản tính tự nhiên cịn in đậm bản tính xã hội" [19, tr. 13]. Vì
vậy, Mác khẳng định: "Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người
mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người" [19, tr. 14].
Trên cơ sở các quan niệm về quyền con người, năm 1776 lần đầu tiên
trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã khẳng định: "...
mọi người sinh ra đều bình đẳng và Đấng tạo hóa dành cho họ một số quyền
khơng thể bị tước đoạt, trong các quyền đó có quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc" [12, tr.7]. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã
cho rằng: Nước Mỹ - đó là nơi "lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về một nước
cộng hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã
được công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng châu Âu
thế kỷ XVIII" [19, tr. 65]. Như vậy, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 có
thể được xem là sự xác nhận chính thức, đầu tiên về mặt nhà nước về quyền
con người. Sau đó, quyền con người từng bước đã được các quốc gia khác
thừa nhận và qui định trong pháp luật của nước mình, như trong Tun ngơn
nhân quyền và dân quyền Pháp (năm 1791)….
Những hậu quả tàn phá, của thế chiến thế giới thứ nhất và thế chiến
thứ hai nhấn mạnh nhu cầu cần thiết cả về bảo vệ cá nhân con người khỏi sự
độc đoán trong thực thi quyền lực Nhà nước và về thúc đẩy tiến bộ xã hội,
điều kiện sống tốt hơn với quyền tự do rộng rãi hơn. Do vậy, vấn đề quyền
con người ngày càng trở nên bức xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của
cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó, ngày 24-10-1945 tổ chức Liên Hợp Quốc



13
ra đời và đã thông qua bản "Hiến chương Liên Hợp Quốc với mục đích chính
là tuyên bố chính thức về quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Tiếp đến,
tháng 12-1948 Liên Hợp Quốc đã công bố bản "Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền". Trên cơ sở này, hàng loạt văn kiện quốc tế về nhân quyền được tuyên
bố, ký kết và trở thành luật pháp quốc tế về quyền con người, như: Năm 1966,
Liên hiệp quốc thông qua Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị;
Cơng ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hố (Việt Nam tham
gia hai cơng ước này năm 1982) …
Theo từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: “Quyền con
người là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia
phải tôn trọng” [14, tr.338]. Theo quan niệm chung hiện nay, “Quyền con
người là những giá trị, năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người với tư
cách là thành viên của cộng đồng nhân loại được thể chế hóa bằng pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [35, tr. 26].
Quyền con người là giá trị thắng lợi chung của nhân loại, tuy nhiên do
điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội ở các châu lục, các khu vực, các quốc gia
phát triển không giống nhau nên ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu
cầu của mỗi thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế - chính tri- xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Vì vậy,
quyền con người ở các quốc gia được thể hiện thành quyền công dân và được
đảm bảo thực hiện bởi hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia đó.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này, khoa học pháp lý đã
chia quyền con người thành các nhóm theo các lĩnh vực hoạt động của đời
sống con người như:
- Nhóm các quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: Quyền bầu cử,
ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng
nam nữ; quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí; quyền được thơng tin; quyền tự

do tín ngưỡng.


14
- Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: Quyền tự do
đi lại và cư trú trong nước; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an tồn và bí mật về thư tín, điện thoại,
điện báo, quyền khiếu nại, tố cáo....
- Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, bao gồm: Quyền lao động; quyền
tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp về thừa kế; quyền học tập; quyền
nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền được
bảo vệ hơn nhân và gia đình; quyền trẻ em...
Khác với các Nhà nước phong kiến và tư bản phương tây, Nhà nước
phong kiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn mang
tính hà khắc. Mặc dù vậy, ở thời kỳ đó "phép vua" và "lệ làng" vẫn mang tính
dân tộc, nhân đạo, tiến bộ và được thể hiện rõ nét trong Quốc triều Hình luật
hay cịn gọi là Bộ luật Hồng Đức được ban hành năm 1477 dưới thời Vua Lê
Thánh Tơng có kế thừa, bổ sung những luật lệ được ban hành từ rất nhiều
năm trước. Điều đó được nhiều Bộ luật, luật sau này tiếp thu những tư tưởng
tiến bộ. Trong suốt các triều đại phong kiến Việt Nam, vua mệnh danh là con
trời, cai trị trên nền tảng tư tưởng nho giáo bị các triết lý nho giáo điều chỉnh
hành vi của mình. Nhưng do Vua là cha mẹ của dân, nên buộc phải thích cái
dân thích, ghét cái dân ghét bởi "ý trời là lịng dân". Chính vì vậy, vương quyền
của vua bị hạn chế, dân cũng có được một số yếu tố về các quyền (quyền công
dân) dù cịn nhỏ nhặt mang tính cộng đồng. Chỉ đến khi Cách mạng Tháng
Tám thành công, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 mới là sự kiện đánh dấu bước
ngoặt quan trọng cho thời kỳ phát triển mới về quyền con người trên đất nước
ta.
Trước đây ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) vấn đề

quyền con người ít được nói đến, nên mặc nhiên được hiểu rằng quyền con


15
người và quyền công dân là đồng nhất. Trong các văn kiện pháp lý (Hiến
pháp, luật) chỉ tồn tại thuật ngữ quyền công dân. Ở Việt Nam, trong các Hiến
pháp năm 1946, năm 1959, 1980 đều chỉ đề cập đến quyền và nghĩa vụ của
công dân mà không đề cập đến vấn đề quyền con người. Chỉ đến Hiến pháp
năm 1992, vấn đề quyền con người mới chính thức được đề cập đến.
Khi nghiên cứu vấn đề "quyền con người" và đặc biệt là vấn đề về
"Bảo đảm quyền con người", ta phải xem xét đầy đủ cả hai khái niệm quyền
con người - quyền công dân. Đây là hai khái niệm cơ bản, có mối quan hệ
biện chứng, mật thiết với nhau, nhưng cũng có sự độc lập nhất định với nhau
và cần được phân biệt rõ khi tiếp cận vấn đề này.
Nhận xét về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân,
C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng:
Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có nội dung và ý
nghĩa khác nhau, nhưng khơng thể tách biệt đến mức đối lập, mà về thực chất
chúng thống nhất với nhau. Quyền con người phải "thu hút" được quyền cơng
dân vào nội dung của nó, vì chúng nằm trong một chỉnh thể thống nhất, phản
ánh tổng thể nhu cầu của con người hiện thực trong điều kiện cịn tồn tại Nhà
nước [19, tr. 14].
Và "Vì vậy, Mác - Ăngghen đã sử dụng cả hai khái niệm Quyền con
người và Quyền công dân" [19, tr. 14].
- Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền cơng dân là: "Quyền của
người công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền
về kinh tế - văn hóa xã hội" [51, tr. 1384]
- Quan điểm của tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc thì cho rằng: "quyền cơng
dân - đó là sự thể chế hóa về mặt nhà nước bằng pháp luật địa vị con người
trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận, trong chừng mực mà nhà nước

chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong nhà nước” [11, tr. 75].


16
Từ những quan điểm, quan niệm nêu trên ta có thể hiểu một cách cô
đọng nhất quyền con người, quyền công dân như sau:
- Quyền con người: là các quyền tự nhiên vốn có của con người, được
pháp luật quốc tế, quốc gia cùng với cộng đồng nhân loại công nhận và bảo vệ.
- Quyền công dân: là các quyền tự nhiên vốn có của con người, được
pháp luật một quốc gia công nhận và bảo vệ đối với mọi cơng dân của quốc
gia đó.
Như vậy, khái niệm quyền con người, là khái niệm rộng hơn so với khái
niệm quyền cơng dân. Nó khơng chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà
nước mà còn thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân con người với cộng đồng xã hội.
Do đó, trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, quyền con người bao gồm toàn
bộ những quyền tự nhiên được xác định từ khi họ sinh ra và tồn tại trong suốt
cuộc đời của họ. Thạc sĩ Vũ Cơng Giao cho rằng, quyền con người đóng vai trị
"là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con người, khả năng độc
lập của con người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân" [10, tr. 21].
Trong quan hệ với cộng đồng nhân loại, quyền con người bao gồm
những nhu cầu, lợi ích của con người được ghi nhận và bảo vệ bằng cả pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế. Phạm vi tồn tại của nó khơng chỉ trong mối quan
hệ với một nhóm, một dân tộc, một quốc gia mà còn tồn tại trong mối quan hệ
với cả cộng đồng nhân loại. Nó thể hiện sự bình đẳng khơng chỉ những người có
chung quốc tịch, mà cịn biểu hiện sự bình đẳng của mọi người trong cả cộng
đồng người. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nó ngày càng trở thành yếu tố quan
trọng.
Từ phân tích trên cho thấy, khái niệm quyền con người, quyền cơng
dân tuy có mối quan hệ gần gũi, mật thiết nhưng không đồng nhất cả về chủ
thể lẫn nội dung. Tuy nhiên, hồn tồn khơng có sự đối lập giữa quyền con

người và quyền cơng dân. Trong mối quan hệ giữa hai vấn đề này thì quyền
con người là khái niệm rộng hơn bao hàm cả quyền cơng dân, cịn quyền cơng


17
dân là một thành tố, một bộ phận thiết yếu cơ bản của nó. Quyền con người
khơng thể thay thế quyền công dân, đồng thời quyền công dân không thể chứa
đựng hết dung lượng của quyền con người. Về chủ thể, chủ thể quyền con
người cũng rộng hơn chủ thể quyền cơng dân vì ngồi những cá nhân là cơng
dân, chủ thể quyền con người còn bao gồm cả những người khơng phải là
cơng dân như người nước ngồi, người không quốc tịch.
Như vậy, so với khái niệm quyền con người thì khái niệm quyền cơng
dân mang tính xác định hơn. Vì thế, nội dung, số lượng, chất lượng quyền
cơng dân của mỗi quốc gia là khác nhau, và tùy thuộc vào thể chế chính trị
vào giai cấp cầm quyền trong xã hội và điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội của
mỗi quốc gia quy định.
Tại Điều 50 Hiến pháp 1992 nước ta qui định: "ở nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hố và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định
trong Hiến pháp và luật" [23, tr. 30,31].
1.1.2. Quyền con người của người chưa thành niên là người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự theo pháp luật Việt Nam và các
điều ước quốc tế
* Khái niệm về người chưa thành niên:
Người chưa thành niên theo cách hiểu chung hiện nay là những người
chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân
cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật quốc
tế và ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Tại Điều 1 Công ước về quyền trẻ em Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
(LHQ) thơng qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi của Cơng ước này,

trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với
trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [37, tr. 26]. Quy tắc tiêu chuẩn
tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên


18
(còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 2911-1985 nêu rõ: "Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo
từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức
khác với việc xét xử người lớn" (Quy tắc số 2.2 mục a) [31]. Quy tắc tối thiểu
phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do thông
qua ngày 14-12-1990 nêu cụ thể: "Người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không
được tước quyền tự do của người chưa thành niên" (Quy tắc 2.1 mục a) [31].
Như vậy, trong các văn bản quốc tế và các chương trình của LHQ về vấn
đề trẻ em sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự, Bộ luật hình sự (BLHS) năm
1999, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, Bộ luật Lao động, Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên
là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người
chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Điều 18 Bộ luật dân sự qui định:
"...người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên" [28, tr.13].
Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam năm
2004 qui định, trẻ em "là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi" [15, tr.1]. Như
vậy, theo pháp luật Việt Nam người chưa thanh niên là người chưa đủ 18 tuổi.
Người chưa thành niên dưới 16 tuổi được gọi là trẻ em.
Theo giải thích trong cuốn Thuật ngữ tư pháp người chưa thành niên thì:
"Người chưa thành niên được coi là người chưa trưởng thành đầy đủ cả về thể
chất và tinh thần. Do vậy, theo qui định của pháp luật họ không thể tự quyết định

và hoặc tự mình tham gia vào một số quan hệ xã hội nhất định" [34, tr. 72].
Như vậy, về người chưa thành niên được hiểu là: Người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần,


19
tâm sinh lý và nhân cách, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như
người đã thành niên.
* Quyền con người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung là những tên gọi khác
nhau của người bị tình nghi thực hiện tội phạm từ khi họ có các quyết định
tố tụng có tính chất pháp lý của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng có
thẩm quyền làm thay đổi vị trí pháp lý của người đó trong các giai đoạn tố
tụng hình sự. Theo qui định tại Khoản 1 các Điều 48, 49, 50 Bộ luật luật tố
tụng hình sự năm 2003 nước ta xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
như sau:
- Người bị tạm giữ: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người
phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Người bị bắt
trong các trường hợp khẩn cấp, quả tang, tự thú... nhưng chưa có quyết định
tạm giữ của người có thẩm quyền thì chưa được gọi là người bị tạm giữ. Khác
với bị can, bị cáo, người bị tạm giữ là người chưa bị khởi tố về hình sự (trừ
trường hợp là người bị bắt theo quyết định truy nã).
- Bị can: Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Một người từ khi đã
có quyết định khởi tố bị can thì được gọi là bị can. Bị can có thể là người bị
tạm giữ có quyết định khởi tố bị can hoặc những người không bị bắt giữ
nhưng bị khởi tố bị can để tiến hành điều tra.
- Bị cáo: Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Từ khi
có quyết định của Tịa án đưa vụ án ra xét xử đối với bị can đã được Viện

kiểm sát có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng. Vì vậy, nếu chưa có quyết
định của Tịa án đưa ra xét xử thì bị can vẫn chưa được gọi là bị cáo, mặc dù hồ
sơ vụ án cùng bản cáo trạng quyết định truy tố người đó đã chuyển cho Tịa án.


20
Theo pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) nước ta, cũng như pháp luật
TTHS nhiều nước trên thế giới, thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ là
những người bị tình nghi thực hiện tội phạm chưa phải là tội phạm nên họ đều
bị hạn chế và tước một số quyền công dân cũng như quyền con người nhất
định tùy vào vị trí pháp lý của họ khi tham gia tố tụng. Vì vậy, những quyền
cơng dân, quyền con người của họ nếu không bị pháp luật hạn chế và tước bỏ
thì vẫn phải được quan tâm và bảo vệ.
Theo Điều 12 BLHS năm 1999 nước ta qui định:
"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng” [29, tr.53].
Với qui định này thì, người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi. Như vậy, cũng có nghĩa người chưa thành niên là người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả xâm phạm, nó thể
hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực TTHS. Quyền con
người TTHS lại là quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương nhất và hậu quả để
lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự
do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Tố tụng hình sự với tư cách là quá
trình nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị coi là tội
phạm luôn thể hiện đậm đặc tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế
nhà nước. Chính vì vậy, hoạt động tố tụng hình sự, trong bất cứ nhà nước nào

đều được xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi nói đến vấn đề bảo vệ quyền con
người.


21
Phát hiện, xử lý tội phạm là công việc của bất kỳ nhà nước nào nhằm
bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, của cá nhân trong xã hội đó. Tuy
nhiên, con người khi sinh ra ai cũng có quyền sống trong mơi trường an tồn
trong đó có sự an tồn về pháp lý. Vì vậy, việc ghi nhận những quyền con
người vào trong hệ thống pháp luật TTHS của mình là u cầu địi hỏi khách
quan mà mỗi quốc gia cần thực hiện. Quyền con người trong TTHS là những
giá trị thiêng liêng chỉ dành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật
TTHS mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và
đảm bảo thực hiện trên thực tế. Việc ghi nhận này không phải là sự ban phát
từ phía nhà nước mà bắt nguồn từ nhiều yếu tố trong đó có việc thừa nhận
những giá trị cao quý nhân loại đã thừa nhận chung, đó cũng là kết quả của
cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của cả nhân loại mới đạt được.
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng, có nhiều điều ước quốc tế đề cập
đến vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người nói chung, trong
đó có người chưa thành niên (cũng là trẻ em theo pháp luật quốc tế). Trong số
đó, có 4 văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng liên quan trực tiếp đến việc bảo
vệ quyền của người chưa thành niên nói chung (trong đó có trẻ em) trong
TTHS mà nước ta là thành viên. Đó là:
Thứ nhất: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (1948) quy định
những quyền cơ bản của con người cần được bảo vệ trong tố tụng hình sự bao
gồm các quyền như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 5); quyền
không bị bắt bớ, giam cầm, đầy ải một cách vô cớ (Điều 9); quyền được xét
xử công bằng, cơng khai bởi một Tịa án độc lập và khơng thiên vị (Điều 10);
quyền được suy đốn vơ tội (Điều 11); quyền bất khả xâm phạm về đời tư, gia
đình, nhà cửa, thư tín, danh dự, uy tín cá nhân (Điều 12).

Thứ hai: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966),
các Điều 7, 9, 10, 14, 15, 17, 26 và đặc biệt là Khoản 3 Điều 14 của Công ước
đã quy định những bảo đảm tối thiểu trong việc quyết định về một tội hình sự


22
đối với một người, bao gồm: quyền được thông báo không chậm trễ về bản
chất và lý do buộc tội; quyền bào chữa; quyền được xét xử nhanh chóng;
quyền được có mặt trong khi xét xử; quyền đối chất nhân chứng; quyền được
giúp đỡ về phiên dịch miễn phí; quyền khơng bị buộc phải chứng minh chống
lại mình hoặc bị buộc phải tự thú.
Thứ ba: Những quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về việc áp dụng
pháp luật đối với người chưa thành niên (Các Quy tắc Bắc Kinh- 1985). Qua
nghiên cứu, chúng tơi thấy có 12 quy tắc liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ
quyền của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự, đó là các quy tắc: 6,
7, 8, 10, 13, 14, 15, 16, 17, 20, 22 và 23. Một số nội dung cơ bản của các qui
tắc như: quyền được suy đốn vơ tội; quyền được thông báo về những vi
phạm tội danh; quyền được giữ im lặng; quyền được có luật sư bào chữa cho
mình; quyền được tham gia của bố mẹ hay người giám hộ; quyền đối chất và
đưa ra chứng cứ; quyền kháng cáo lên một cơ quan có thẩm quyền cao hơn;
quyền không được công bố những thông tin có thể dẫn đến việc người chưa
thành niên phạm tội bị nhận dạng; quyền được thông báo ngay về sự bắt giữ
đó, trong trường hợp khơng thể thơng báo ngay thì cha mẹ hay người giám hộ
đó phải được thơng báo trong một thời gian ngắn nhất sau khi bị bắt....
Thứ Tư: Công ước của LHQ về quyền trẻ em (1989) là một Công ước
riêng về việc bảo vệ quyền của trẻ em (với nghĩa là quyền của người dưới 18
tuổi mà theo pháp luật nước ta là người chưa thành niên). Trong đó, các Điều 37
và Điều 40 của Công ước trực tiếp qui định các nội dung liên quan đến việc bảo
vệ quyền con người của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự. Cụ thể
như:

Điều 37 của Công ước quy định:
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng:
(a) Không trẻ em nào bị tra tấn hay bị đối xử hay trừng phạt tàn tệ
vô nhân đạo hay làm mất phẩm giá. Không được xử tử hình hay tù chung thân


23
mà khơng có khả năng phóng thích vì những hành động phạm pháp do những
người dưới 18 tuổi gây ra.
(b) Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc
tuỳ tiện. Việc bắt, giam giữ hay bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo luật
pháp và chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn
thích hợp ngắn nhất... [12, tr. 201].
Điều 40 của Công ước qui định:
"1. Các quốc gia thành viên công nhận quyền của mọi trẻ em bị coi là,
bị tố cáo hay bị công nhận là đã vi phạm luật hình sự được đối xử theo cách
thức phù hợp với việc cổ vũ ý thức của trẻ em về phẩm cách và phẩm giá vốn
làm tăng cường lịng tơn trọng của trẻ em đối với những quyền con người và
tự do cơ bản của người khác, mà cũng phải tính đến lứa tuổi của trẻ em và
điều mong muốn làm sao thúc đẩy sự tái hoà nhập và việc đảm đương một vai
trò xây dựng của trẻ em trong xã hội
2. Nhằm mục đích và xét đến những điều khoản thích hợp trong các
văn kiện quốc tế, các quốc gia thành viên phải đặc biệt đảm bảo rằng:
(a) Không một trẻ em nào bị coi là, bị tố cáo hay bị công nhận là đã vi
phạm luật hình sự vì những hành động hay khiếm khuyết mà luật pháp quốc
gia và quốc tế không cấm và thời điểm xảy ra.
(b) Mọi trẻ em bị coi là hay bị tố cáo là đã vi phạm luật hình sự được có
ít nhất những điều đảm bảo sau đây:
(i) Được giả định vô tội cho tới khi chứng minh rằng đã phạm tội theo
luật pháp.

(ii) Được thông báo nhanh chóng và trực tiếp về những điều bị buộc tội và
nếu thích hợp thơng báo qua cha mẹ hay người giám hộ pháp lý, được giúp đỡ
về pháp lý hoặc những giúp đỡ thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày sự bảo
vệ của mình... [12, tr. 202- 203].


24
Cho đến nay, Việt Nam chúng ta đã tham gia phần lớn và cam kết thực
hiện ở cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn
kiện về quyền con người. Điều đó được thể hiện xuyên suốt nhất quán và
thống nhất trong luật TTHS của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong các
quy định có tính ngun tắc cơ bản của luật TTHS và trong các Điều luật cụ
thể. BLTTHS năm 2003, ngoài việc qui định các quyền con người nói chung
(trong đó có quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) trên cơ sở
qui định ở các nguyên tắc cơ bản tố tụng hình sự như: Bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật (Điều 5); Bảo đảm quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của cơng dân (Điều 6); Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (Điều 7); Xét xử cơng khai (Điều
18); Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tồ án (Điều 19)... Với ngun tắc
"Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật" nên pháp luật TTHS còn qui định cụ thể cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo nhiều quyền trong các giai đoạn tố tụng được qui định tại Khoản 2
các Điều 48, 49, 50 Bộ luật tố tụng hình sự. Mục đích của những quy định
này chính là những yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tiến hành tố tụng trong mọi hoạt động tố tụng phải thận trọng, vô tư và
đề cao tinh thần trách nhiệm làm rõ các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội,
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt
người phạm tội, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân.
Qua nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS nước ta cho thấy, từ

trước đến nay chưa có một văn bản pháp lý nào hay bất cứ một Điều luật nào
qui định, tập hợp đầy đủ về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo họ bị hạn chế hay
bị tước bỏ những quyền công dân hay quyền con người nào. Việc hạn chế
hoặc tước bỏ quyền công dân, quyền con người của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo được qui định chủ yếu trong luật tố tụng hình sự, đồng thời cũng qui


25
định ở một số luật hoặc các văn bản qui phạm pháp luật khác nhau. Tuy nhiên,
việc bị tước bỏ hay hạn chế quyền công dân, quyền con người nào còn phụ
thuộc vào việc các cơ quan tiến hành tố tụng có áp dụng đúng pháp luật hay
khơng áp dụng đúng pháp luật các biện pháp tố tụng nhất định đối với họ. Ví
dụ: Nguyễn Văn A và Trần Văn B là 2 bị can đồng phạm trong 1 vụ án "trộm
cắp tài sản", A bị bắt tạm giam còn B thì bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm
đi khỏi nơi cư trú. Trong trường hợp này thì rõ ràng cùng là bị can nhưng A bị
tước quyền tự do, B thì bị hạn chế quyền tự do đi lại; Theo luật bầu cử Hội
đồng nhân dân thì cả A và B đều khơng có quyền ứng cử nhưng B thì có
quyền bầu cử cịn A thì lại khơng có quyền bầu cử...
Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi, quyền con người của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự: là tất cả các quyền con người,
quyền công dân theo qui định của pháp luật và quyền của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo được qui định trong Bộ luật tố tụng hình sự khơng bị pháp luật
nói chung hạn chế và tước bỏ.
Ở Việt Nam, BLTTHS năm 2003 đã kế thừa các nguyên tắc cơ bản đã
được pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ lâu qui định, phù hợp với đường
lối đổi mới của Đảng, đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của các chuẩn mực
quốc tế về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. BLTTHS năm 2003
là Bộ luật bảo đảm quyền con người, bảo đảm quyền công dân, bảo đảm dân
chủ trong tố tụng hình sự. Đặc biệt là đã quan tâm bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của người chưa thành niên thông qua việc trao cho người chưa

thành niên những quyền tố tụng để có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình, đồng
thời có những quy định nhằm bảo đảm cho họ thực hiện được các quyền tố
tụng của mình cũng như bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự được khách quan, tồn diện và đúng pháp luật, khơng bỏ lọt tội phạm
nhưng cũng tránh làm oan người vơ tội.
Ngồi những qui định về các quyền nói chung như những người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo khác, thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa


×