Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NHƢ QUỲNH

B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
CñA nh÷ng NG¦êI BÞ H¹N CHÕ QUYÒN Tù DO
TRONG luËt Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NHƢ QUỲNH

B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
CñA nh÷ng NG¦êI BÞ H¹N CHÕ QUYÒN Tù DO
TRONG luËt Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐỨC PHÚC

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Nhƣ Quỳnh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, sơ đồ

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ............................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài ....................................................... 5
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu ............................................. 5

6. Đóng góp khoa học của luận văn .................................................................. 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 6
8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ....................................................................... 7
1.1. Nhận thức về quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do
trong tố tụng hình sự................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm và phân loại quyền con người ....................................... 7
1.1.2. Khái niệm quyền tự do và người bị hạn chế quyền tự do trong tố
tụng hình sự Việt Nam ............................................................................ 10
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền
tự do trong tố tụng hình sự ...................................................................... 15


1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời
bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự ........................................ 18
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền
tự do trong tố tụng hình sự ...................................................................... 18
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự
do trong tố tụng hình sự .......................................................................... 20
1.2.3. Vai trò của việc bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế
quyền tự do trong tố tụng hình sự ........................................................... 37
1.3. Bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do ở một
số nƣớc trên thế giới và những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam .... 39
1.3.1. Quy định về quyền con người ở một số nước trên thế giới .......... 39
1.3.2. Những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam về bảo đảm quyền con
người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự .............. 41
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 45
Chƣơng 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM

QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................... 46
2.1. Quy định pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời của
ngƣời bị hạn chế quyền tự do ................................................................... 46
2.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 liên quan tới bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền
tự do ......................................................................................................... 46
2.1.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ khi ban hành bộ
luật tố tụng hình sự 2003 liên quan tới bảo đảm quyền con người của
người bị hạn chế quyền tự do .................................................................. 49
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền
tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam ..................................................... 60


2.2.1. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thông
qua áp dụng các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự ......................... 60
2.2.2. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong
áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam............................. 63
2.2.3. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ........................................ 67
2.2.4. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thông
qua áp dụng các quy định về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng hình sự ..... 75
2.3. Nhận xét, đánh giá chung về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời
bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam ....................... 77
2.3.1. Ưu điểm của bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế
quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam .......................................... 77
2.3.2. Một số hạn chế trong bảo đảm quyền con người của người bị hạn
chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam .................................... 79
2.3.3. Nguyên nhân của một số hạn chế trong bảo đảm quyền con người

của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam ........ 80
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 85
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................... 86
3.1. Quan điểm nhằm tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời
bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam ....................... 86
3.2. Giải pháp tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn
chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam ................................... 91
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến việc bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do . 91


3.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán và Hội thẩm ..................................................................................... 98
3.2.3. Tăng cường hướng dẫn áp dụng bộ luật tố tụng hình sự, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân ............................ 100
3.2.4. Tăng cường xử lý vi phạm, khắc phục kịp thời các hậu quả của vi
phạm quyền con người do hoạt động tố tụng hình sự gây ra ................ 103
3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong tố tụng hình sự nhằm
bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do .............. 106
3.2.6. Tăng cường vai trò của người bào chữa nhằm bảo đảm quyền con người
của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự .............................. 109

3.2.7. Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan tiến hành tố tụng,
các tổ chức, cá nhân trong bảo đảm quyền con người của người bị hạn
chế quyền tự do trong tố tụng hình sự................................................... 109
3.2.8. Tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh nghiệm lập pháp
hình sự về bảo vệ quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do .. 109
Kết luận Chƣơng 3 ...................................................................................... 111

KẾT LUẬN .................................................................................................. 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 113
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 117


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐTT:

Hoạt động tố tụng

QCN:

Quyền con người

TAND:

Tòa án nhân dân

THTT:

Tiến hành tố tụng


TTHS:

Tố tụng hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Số hiệu
bảng, sơ đồ

Tên bảng, sơ đồ

Trang

Bảng 2.1: Tình hình bắt, tạm giữ, tạm giam

126

Bảng 2.2: Tình hình khởi tố

126

Bảng 2.3: Số bị cáo Tòa án tuyên không tội


126

Bảng 2.4: Số bị cáo Tòa án tuyên không tội VKS đã kháng nghị

127

Bảng 2.5: Tình hình điêu tra của CQĐT

127

Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

124

Sơ đồ 2.2: Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân

125


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Trong
xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế, giao lưu hợp tác nhiều mặt đang luôn được mở
rộng, QCN ở mỗi quốc gia có giá trị chung giống nhau và là mục đích hướng tới
của nhân loại. Đảm bảo QCN là một trong những nội dung quan trọng, nhằm mục
đích xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hiện nay, Đất
nước ta đang trên đường đổi mới để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó, một yêu cầu đặt ra

đối với pháp luật là phải bảo đảm QCN, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân trong đó đặc biệt bảo đảm QCN đối với nhóm yếu thế trong tố tụng hình
sự - người bị hạn chế quyền tự do.
Theo tinh thần Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. quyền con
người, quyền công dân chỉ có thế bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [39, Điều 14].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng
cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc
bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo
vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và vi phạm [3].
Việc tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự bao giờ cũng tiềm ẩn trong nó
1


ít nhất hai loại nguy cơ. Nguy cơ thứ nhất là sự xung đột lợi ích giữa một bên là
lợi ích của số đông mà đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng, và bên kia là lợi
ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những người bị tình nghi là đã thực hiện
hành vi phạm tội. Nguy cơ thứ hai là nguy cơ lạm dụng quyền lực của những cơ
quan và cá nhân được pháp luật giao cho rất nhiều quyền hành và công cụ. Chính
vì vậy, vấn đề bảo vệ QCN cơ bản của các đối tượng bị hạn chế quyền tự do là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng, trao cho họ những quyền
năng tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình thông qua việc đòi hỏi một sự phán xét

công minh từ phía Nhà nước là một vấn đề hết sức được chú trọng trong các văn
kiện quốc tế quan trọng nhất về QCN cũng như trong pháp luật TTHS của đa số
các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên quan chặt
chẽ với QCN. Hoạt động TTHS là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp
dụng phổ biến nhất; vì vậy là nơi QCN của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là người bị hạn
chế quyền tự do có nguy cơ dễ bị xâm hại. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong
những năm qua cho thấy rằng cũng còn nhiều trường hợp vi phạm QCN đối với người
bị hạn chế quyền tự do trong quá trình tiến hành tố tụng.
Vì vậy, có thể nói nghiên cứu việc bảo đảm QCN đối với người bị hạn chế quyền
tự do trong TTHS từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò quan trọng
trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói
chung, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta nói riêng. Với lý do trên, tôi đã lựa chọn đề
tài “Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa
của nhân loại và được bảo vệ trong bất cứ hoàn cảnh nào, trên bất kỳ lĩnh vực nào
của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực pháp lý. Vì vậy, vấn đề bảo đảm QCN nói
chung, QCN trong hoạt động TTHS đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ
và với các mức độ khác nhau.

2


Ở góc độ nghiên cứu về bảo đảm QCN nói chung trong Nhà nước pháp
quyền, đã có các công trình "Quyền con người trong thế giới hiện đại" của nguyên
Giám đốc trung tâm QCN Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh GS.TS. Hoàng
Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; công trình "Triết học chính trị về Quyền con người "
của Nguyễn Văn Vĩnh; công trình " Quyền con người, quyền công dân trong Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường; bài
báo "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm Quyền con
người " của TS. Tường Duy Kiên; chuyên khảo "Quyền lực Nhà nước và Quyền con
người " của PGS. TS. Đinh Văn Mậu; các công trình của GS. TSKH Lê Văn Cảm
về Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm QCN trong Nhà nước pháp quyền; giáo trình
“Lý luận và pháp luật về Quyền con người” của PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung,
ThS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng đồng chủ biên.
Góc độ pháp luật chuyên ngành nghiên cứu những đảm bảo QCN trong hoạt
động tư pháp cũng như trong hoạt động tố tụng sự có các công trình nghiên cứu sau:
Cấp độ luận án tiến sỹ luật học có các đề tài: "Bảo đảm Quyền con người
trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Huy Hoàn, 2005.
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình
sau: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Đại học quốc gia “ Bảo vệ Quyền con
người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đọan xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc
Chí, TS. Trịnh Quốc Tỏan đồng chủ trì; báo cáo "Bảo đảm Quyền con người trong
tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam" tại Hội thảo về QCN trong TTHS (do VKSND tối cao và Ủy ban nhân
quyền Australia tổ chức tháng 3-2010) của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc; chuyên
khảo "Bảo vệ Quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam"
của TS. Trần Quang Tiệp; chuyên khảo "Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự Việt Nam" của PGS.TS. Hòang Thị Sơn và TS. Bùi Kiên Điện; các bài báo
của GS.TSKH Lê Văn Cảm "Những vấn đề lý luận về bảo vệ Quyền con người
bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự"; bài báo “Thực hiện dân chủ trong

3


tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của PGS.TS
Nguyễn Mạnh Kháng; bài báo "Nguyên tắc suy đoán vô tội" của PGS. TS. Nguyễn

Thái Phúc; v.v.
Ngoài ra, một số tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, trong đó phải kể
đến: chuyên khảo “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” của
Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu
tội phạm học và Tư pháp hình sự, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có
một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực tiếp về bảo đảm QCN nói chung, bảo
đảm QCN trong hoạt động tư pháp. Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau về các quy định của pháp luật áp dụng (luật nội dung)
đối với một số đối tượng bị hạn chế quyền tự do, nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm QCN của người bị hạn
chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam. Ðiều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn nữa để từng bước hoàn thiện quy định của pháp
luật TTHS Việt Nam để bảo vệ quyền cho người bị hạn chế quyền tự do là việc làm
cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận bảo đảm QCN trong TTHS nói
chung từ đó đánh giá một cách khách quan thực trạng quy định pháp luật cũng như
thực tiễn hoạt động TTHS trong bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do.
Làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng
cường bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn
cần giải quyết những vấn đề sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về QCN, bảo đảm QCN và bảo đảm QCN của
người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS;

4



- Phân tích quy định của Bộ luật TTHS Việt Nam liên quan đến bảo đảm
QCN của người bị hạn chế quyền tự do và thực tiễn áp dụng các quy định đó; tìm ra
những hạn chế và bất cập về bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
- Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam và tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
hoạt động TTHS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Ðối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo
đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu phạm vi cả nước liên quan đến bảo đảm
QCN của người bị hạn chế quyền tự do.
- Phạm vi thời gian: Thực tiễn tố tụng từ năm 2010 đến tháng 6/2015.
- Phạm vi nội dung: Tập trung chủ yếu vào bảo đảm QCN của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo. Nội dung đảm bảo quyền tập trung vào bảo đảm pháp lý, bao
gồm các quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về QCN của người bị
hạn chế quyền tự do trong TTHS.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu các bảo đảm khác như bảo đảm về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
5. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng và
chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm QCN
của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-


5


Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm QCN. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý
luận chung về QCN nói chung và từ góc độ TTHS nói riêng. Các phương pháp
nghiên cứu: Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, thống kê, so
sánh pháp luật, xã hội học.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn
diện về vấn đề bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS ở Việt
Nam hiện nay. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa học mới sau:
- Trên cơ sở hệ thống hoá, phân tích khái niệm QCN, làm rõ thêm khái niệm,
đặc trưng của QCN trong TTHS.
- Phân tích khái niệm, đặc trưng của bảo đảm QCN.
- Phân tích, làm rõ khái niệm, nội dung đảm bảo QCN của những người bị
hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS.
- Luận văn đánh giá toàn diện tìm ra những nguyên nhân tồn tại thiếu sót của
thực trạng đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do theo quy định của luật
TTHS ở Việt Nam, đề xuất những quan điểm, giải pháp tăng cường đảm bảo QCN
của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật và đảm bảo QCN. Ngoài ra luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho việc tăng cường bảo đảm QCN trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của Luận văn gồm 03 chương 8 tiết.


6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức về quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do
trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm và phân loại quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quan niệm về quyền con người, trong lịch sử chính trị- tư tưởng của nhân
loại, thuật ngữ QCN (nhân quyền) thường được sử dụng, nhưng cho đến nay
chưa có quan niệm thống nhất. Ngay từ thời cổ đại đã có sự bàn luận về các
quyền. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVII, XVIII, quyền con người mới được các
nhà tư tưởng bàn đến như một học thuyết.
Khi bàn đến QCN, Jaeque Mourgeon trong cuốn "Các QCN" đã cho rằng:
QCN trước hết được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà con người có. Đó là khả
năng hành động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự bảo vệ. Nhưng bản thân đặc quyền
(quyền tự nhiên) chưa phải là QCN. Mà để đạt đến cái gọi là "quyền" thì phải có yếu
tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân
mới trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật và như vậy mới trở thành QCN.
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, C. Mác đã xác
định con người là một thực thể thống nhất, một “sinh vật – xã hội”. Do đó, QCN là
sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ
con người mới có) và “quyền xã hội” – sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm
điều chính các mối quan hệ xã hội. Vì vậy trong điều kiện ngày nay, việc đưa ra
khái niệm đúng đắn về QCN phải giải quyết được các quan hệ giữa cá nhân với xã
hội, giữa tính nhân loại với tính giai cấp, giữa các giá trị đạo đức với pháp luật và

quyền lực, giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia, giữa khả năng và nhu cầu tự
nhiên với những nỗ lực chủ quan.

7


Năm 1776, lần đầu tiên các QCN được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập
của Mỹ: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu
cầu hạnh phúc". Năm 1791, trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp,
QCN tiếp tục được xác định: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và
phải được tự do bình đẳng về quyền lợi"... Từ đó các tiêu chí về QCN từng bước
được các quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật của nước mình.
Về khái niệm QCN, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao
ủy Liên hợp quốc về QCN (Office of High Commissioner for Human Rights –
OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này,
QCN là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ
mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements)
và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích
dẫn, theo đó, QCN là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của
cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...;
đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang
dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên. Trong ý nghĩa ban đầu, thuyết pháp
luật tự nhiên ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tự do của con người; khẳng định QCN là
tự nhiên, vốn có, nhằm đối lập, phủ nhận quan niệm QCN tự do vương quyền và
thần quyền ban phát, tặng cho quyền tự nhiên.
Ở nước ta, vấn đề QCN đã được nghiên cứu và phản ánh một cách phong
phú và đa dạng thể hiện trong các tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước và các văn

bản pháp luật.
Theo Từ điển tiếng Việt 1992 thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội
công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "QCN là các quyền
tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia phải tôn trọng".

8


Như vậy, QCN là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho mỗi
con người được hưởng. QCN được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm
của mỗi cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội.
Bảo đảm QCN là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới. Việc bảo đảm các QCN, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng... trong đó nhà nước bảo đảm về mặt
pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực
kỳ quan trọng.
Dù định nghĩa các chuyên gia, cơ quan nghiên cứu nêu ra không hoàn toàn
giống nhau, nhưng xét chung, QCN thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
1.1.1.2. Phân loại quyền con người
Trong khoa học pháp lý, căn cứ vào nội dung của nó, QCN được chia thành
các nhóm cơ bản sau đây:
- Các quyền chính trị bao gồm quyền tham gia quản lý Nhà nước và thảo
luận các vấn đề chung của cả nước, quyền bầu cử và ứng cử, quyền tự do ngôn luận,
quyền tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền lập hội, quyền được thông tin, quyền
biểu tình, quyền bình đẳng nam nữ, quyền khiếu nại, tố cáo v.v…;
- Các quyền dân sự (các quyền tự do cá nhân) bao gồm quyền bất khả xâm

phạm về thân thể, về chỗ ở, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại,
điện tín, quyền tự do đi lại và cư trú v.v…;
- Các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm quyền học tập, lao động, quyền
tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền phát minh, sáng chế, quyền
được bảo vệ sức khỏe, quyền được bảo hộ về hôn nhân, gia đình, các quyền của các
đối tượng đặc biệt như thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người già, trẻ em,
người tàn tật không nơi nương tựa v.v…

9


Ngoài ra, căn cứ vào mức độ điều chỉnh của pháp luật, QCN được phân
thành các quyền cơ bản và các quyền pháp lý khác:
- Quyền cơ bản của công dân (hay quyền hiến định) là các quyền quan trọng
nhất, cơ bản nhất thể hiện mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp, làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quyền pháp lý
khác. Trong Hiến pháp nước ta năm 1992, các quyền cơ bản của công dân được quy
định tại Chương V bao gồm các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội;
- Quyền pháp lý khác là sự cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân trong
các lĩnh vực pháp lý khác nhau được ghi nhận trong các văn bản pháp luật cụ thể.
Ví dụ: QCN trong lĩnh vực hình sự, QCN trong lĩnh vực hành chính, QCN trong
lĩnh vực lao động… Các QCN cụ thể này được cụ thể hóa trên cơ sở các quyền cơ
bản và không trái với các quyền cơ bản được Hiến pháp quy định, thể hiện sự nhất
quán của Nhà nước ta trong ghi nhận và bảo đảm QCN, quyền công dân. QCN và
việc bảo đảm các QCN trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể được quy định phụ thuộc
vào tính chất của ngành luật và chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực đó. Ví dụ:
QCN trong lĩnh vực TTHS được quy định trên cơ sở cân nhắc rằng hoạt động
TTHS gắn liền với vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất là tội phạm và chức năng
của Nhà nước là phát hiện nhanh chóng, kịp thời và xử lý công minh người phạm

tội; nhưng đồng thời hoạt động TTHS cũng liên quan rất nhiều tới các quyền cơ
bản của con người v.v…
Một điều đáng lưu ý trong nghiên cứu việc bảo đảm QCN là các QCN liên
quan rất chặt chẽ với nhau, chúng tác động lên nhau rất lớn. Đặc biệt đóng vai trò
quan trọng là các quyền cơ bản được Hiến pháp quy định; chúng có tác động quyết
định đến việc bảo đảm thực hiện các QCN khác. Mất QCN là mất nhiều quyền
chính trị khác như quyền bầu cử, quyền lập hội; quyền tự do thân thể bị xâm phạm
có thể ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại, quyền lao động, quyền học tập v.v…
1.1.2. Khái niệm quyền tự do và người bị hạn chế quyền tự do trong tố
tụng hình sự Việt Nam
1.1.2.1.Khái niệm quyền tự do
Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,

10


người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải
quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Hay
nói cách khác, TTHS là hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Hoạt động TTHS là một quá trình nhằm giải quyết vụ án, trong đó có nhiều
giai đoạn khác nhau phù hợp với tính chất, đặc điểm của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Quan điểm truyền thống ở nước ta cũng như ghi nhận của BLTTHS 2003 phân
chia quá trình đó thành bốn giai đoạn tương ứng với chức năng của các cơ quan tiền
hành tố tụng: khởi tố vụ án hình sự; điều tra và truy tố; xét xử; thi hành bản án và
quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Nhưng trong phạm vi nghiên cứu này,
tác giải không đưa thi hành ánh là một giai đoạn trong các giai đoạn của TTHS.
Như vậy, hoạt động TTHS là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra và Điều tra viên, Viện kiểm sát và
Kiểm sát viên, Tòa án và Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm; nhưng tham gia vào quá
trình TTHS còn có những người tham gia tố tụng khác mà quyền và lợi ích của họ

có liên quan đến vụ án hoặc đến quá trình tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người làm chứng v.v...
Từ xưa đến nay, tự do luôn là một khái niệm bí ẩn và trừu tượng đối với con
người. Đúng như tên gọi, tự do không chịu khuôn mình vào bất kỳ chiếc khung nào,
ngay cả trong những nỗ lực của các nhà triết học, các nhà khoa học ở mọi thời đại
nhằm mô tả và lý giải khái niệm tự do. Có lẽ vì thế, cho đến nay, tự do là cái gì đó
quen thuộc mà vẫn xa lạ đối với con người. Nhận thức của nhân loại về tự do mới
chỉ dừng lại ở những phát hiện của các nhà triết học thời kỳ Khai sáng. Trong khi
đó, với tư cách là một đối tượng triết học quan trọng, bên cạnh những nội dung
nguyên thuỷ, khái niệm tự do vẫn đang không ngừng vận động và ngày càng chứa
đựng thêm nhiều nội dung mới.
Có nhiều cách để định nghĩa về quyền tự do hay tự do. Khái niệm tự do trong
triết học được xem là một giá trị cao quý, cơ bản của nhân loại. Theo nhà triết học
Locke (John Locke 1632-1704) “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ

11


điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào". Như vậy tự do ở
đây chỉ là khả năng của con người. Còn nhà triết học cận đại Hegel (G.W Friedrich
Hegel 1770-1831) thì cho rằng: “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Như vậy, ở
đây tự do không chỉ là nhận thức mà cả ở hành động.
Khái niệm quyền tự do theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự
do truyền thống chủ yếu là tự do của cá nhân khỏi sự ép buộc từ bên ngoài (tự do
khỏi sự câu thúc). Mặt khác, quan điểm của các nhà tự do xã hội nhấn mạnh nhu
cầu về sự bình đẳng xã hội và kinh tế. Họ gắn kết quyền tự do với sự phân phối
công bình quyền lực chính trị (dân chủ) xét trong mặt nghĩa của tự do tích cực. Họ
cho rằng tự do mà không có bình đẳng thì tương đương với việc những kẻ mạnh
nhất sẽ chiếm thế chi phối. Do đó, tự do và dân chủ được xem là cặp đôi gắn bó và

rút cục là tương phản nhau.
Như vậy, quyền tự do hoặc tự do (tiếng Latinh: libertati, tiếng Anh: liberty) là một khái niệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi một cá nhân
không bị sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí
nguyện vọng của chính mình.
1.1.2.2.Khái niệm người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự
Người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự là một loại người trong
nhóm người có nguy cơ bị xâm hại QCN cao, bao gồm những người mà QCN của
họ có khả năng dễ bị xâm hại cao hơn những loại người khác trong TTHS.
hại nhất định về thể chất, tinh thần, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
Trong phạm vi nghiên cứu này, người bị hạn chế quyền tự do bao gồm người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người tham gia
tố tụng có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án. Họ là những người bị cơ
quan tiến hành tố tụng coi là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
BLHS quy định là tội phạm; tùy theo giai đoạn tố tụng khác nhau mà tên gọi cũng
như địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ TTHS) của người đó cũng khác nhau.
+ Người bị tạm giữ: Theo điều 48 BLTTHS, người bị tạm giữ là người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo lệnh truy nã hoặc

12


người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Hay nói cách
khác, người bị tạm giữ là người bị nghi thực hiện tội phạm và đối với họ đã có
quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền.
+ Bị can: Thuật ngữ bị can được sử dụng trong TTHS từ những văn bản tố
tụng đầu tiên của nước ta. Nhưng khái niệm pháp lý về bị can được quy định lần
đầu trong BLTTHS năm 1988 (điều 34) và được sử dụng lại nguyên văn trong
BLTTHS năm 2003. Theo điều 49 BLTTHS, bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự. Bị can là người mà Cơ quan điều tra có đủ căn cứ xác định rằng đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm nên đã ra quyết

định khởi tố bị can. Kể từ thời điểm quyết định khởi tố bị can, tức Nhà nước thể
hiện sự buộc tội đối với con người cụ thể, bị can là người chính thức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Đây là điểm khác biệt rất lớn giữa bị can và người
bị tạm giữ liên quan đến việc bảo đảm QCN của họ trong TTHS.
Một người chỉ có thế bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án hình sự khi có
đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Việc xác định một
người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Vì khi một người phát sinh tư
cách bị can đồng nghĩa với việc người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can.
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình
sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào
các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng
của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điểu tra, Viện kiểm sát đình
chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc
tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ
sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều này không đồng nghĩa với việc
xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. BLTTHS 2003 quy
định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [36, Điều 9].
+ Bị cáo: Theo điều 50 BLTTHS, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử. Sau khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra, thấy rằng có đủ chứng cứ

13


để khẳng định rằng bị can đã phạm tội do BLHS quy định thì đề nghị Viện kiểm sát
truy tố ra trước Tòa án. Trong quá trình chuẩn bị xét xử,Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa thấy rằng có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử mà không phải
trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, không có căn cứ để đình chỉ hay
tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm này, bị can
trở thành bị cáo trong vụ án hình sự.

Cũng như bị can, bị cáo là người bị cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Vì
vậy, địa vị pháp lý, tình trạng của bị cáo cũng giống như bị can; có nghĩa là bị cáo
cũng có khả năng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng do BLTTHS quy
định, có nguy cơ bị xâm phạm các QCN cao, đã có sự buộc tội chính thức nên cần
có các quyền tương ứng để bào chữa, cho nên các biện pháp bảo đảm QCN đối với
bị can, bị cáo cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, một điểm khác biệt quan trọng giữa
bị can và bị cáo là bị cáo tham gia tố tụng trong một cơ chế tố tụng hoàn chỉnh,
đầy đủ những người tham gia tố tụng, các cơ quan, người tiến hành tố tụng với
chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử; thực hiện các quyền tố tụng của mình trong
phiên tòa công khai, dân chủ và bình đẳng. Rõ ràng, so với bị can tham gia tố tụng
(nhất là hỏi cung) trong môi trường chỉ có người buộc tội, (trường hợp cá biệt mới
có người bào chữa, người chứng kiến), bị cáo tham gia tố tụng trong phiên tòa
công khai, không chỉ có mặt những người tham gia tố tụng, mà còn có sự chứng
kiến của công chúng. Trong quá trình xét xử, người tiến hành tố tụng khó có khả
năng sử dụng các biện pháp trái pháp luật, vi phạm QCN của bị cáo (như đe dọa
bức cung, dùng nhục hình, mua chuộc nhận tội...); trong khi đó, đối với bị can thì
tình trạng này dễ xảy ra hơn.
Tóm lại, dù ở các mức độ khác nhau nhưng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đều chỉ là những người bị nghi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS
quy định là tội phạm. Họ là người tham gia tố tụng chiếm vị trí trung tâm trong
TTHS; không có họ thì không thể có tiến trình tố tụng hoàn chỉnh. Đối với họ có thể
áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS; các hoạt động TTHS động chạm đến QCN
của họ nhiều nhất. Tuy nhiên, vì chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của

14


Tòa án đối với họ, cho nên người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa phải là người phạm
tội. Vì vậy, từ góc độ bảo đảm QCN, các biện pháp cưỡng chế tố tụng, các hạn chế
tố tụng đối với họ chỉ ở mức cần và đủ để đạt được mục đích tố tụng là phát hiện

nhanh chóng, xử lý công minh tội phạm và người phạm tội.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền
tự do trong tố tụng hình sự
1.1.3.1.Khái niệm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong
tố tụng hình sự
Như đã đề cập, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp
luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. QCN là một hệ thống thống
nhất không thể chia cắt, thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong hoạt
động của mình, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, ghi nhận
quyền con người trong hệ thống văn bản pháp luật.
Do đó, khái niệm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do cần được

nghiên cứu một cách tổng quát ở nhiều phương diện với quan điểm cho rằng, quyền
con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự phải được đảm bảo
bằng chính các yếu tố đã tạo ra nó, bảo đảm cho nó tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó,
khái niệm này cũng cần chỉ ra chủ thể có trách nhiệm đảm bảo quyền con người.
Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thực chất cũng là những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên và khách quan cần phải được bảo đảm của con người trong
TTHS nói chung nhưng được áp dụng với một số người bị hạn chế quyền tự do cao
hơn những loại người khác.
Căn cứ vào nội dung khái niệm quyền con người nói chung, quy định của
Hiến pháp Việt Nam cũng như đặc điểm của tố tụng hình sự, ta có thể hiểu, quyền
con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự là những nhu
cầu, lợi ích tự nhiên và khách quan cần phải được đảm bảo của họ khi tham gia vào
quá trình giải quyết vụ án hình sự, được thể hiện ở các quyền công dân quy định
trong pháp luật Việt Nam.

15



Như vậy, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS thực
chất là những quyền của con người được thể hiện ở một lĩnh vực đặc thù là quá trình
giải quyết vụ án hình sự, nó có những biểu hiện đặc thù về phạm vi, chủ thể, nội dung.
1.1.3.2. Đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong
tố tụng hình sự
Trong tố tụng hình sự, bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do có
đặc trưng riêng. Đó là trách nhiệm trực tiếp của các cơ quan tiến hành TTHS, người
tiến hành TTHS, người tham gia TTHS và mọi tổ chức, cá nhân khác trong quá
trình xây dựng, thực hiện QCN, là kết quả tổng hợp của hệ thống các quy định pháp
luật bảo đảm QCN của nhóm người có nguy cơ bị xâm hại trong TTHS và cơ chế tổ
chức thực hiện các quy định pháp luật đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Từ góc độ bảo đảm QCN, hoạt động TTHS có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng
hình sự nảy sinh trong một lĩnh vực đặc thù là quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Quá trình giải quyết vụ án hình sự là hoạt động mang tính chất quyền lực
Nhà nước. Hoạt động này được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Đây là loại chủ thể bắt buộc trong tố tụng hình sự.
- Quá trình giải quyết vụ án hình sự gắn liền với việc áp dụng luật hình sự.
Thông thường, một người thực hiện hành vi vi phạm luật hình sự thì sẽ bị áp dụng
các quy định của luật tố tụng hình sự. Bởi vậy, luật tố tụng hình sự là luật hình thức
còn luật hình sự được xác định là luật nội dung.
- Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm các giai đoạn có mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Các
giai đoạn này có những đặc thù riêng về chủ thể, nhiệm vụ, hành vi tố tụng, văn bản
tố tụng, thời điểm bắt đầu và kết thúc. Theo lý luận chung, quá trình giải quyết vụ
án hình sự bắt đầu từ khi xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc vào bất cứ giai đoạn nào của tố tụng
hình sự khi có căn cứ được pháp luật quy định. Chính trong những giai đoạn cụ thể
này, quyền con người trong tố tụng hình sự được thực hiện.


16


×