Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Giáo trình Quản lý nhà nước về thương mại: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.59 KB, 130 trang )

Chương 6
PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI
Trong quản lý nhà nước về thương mại, pháp luật là công cụ quản lý
quan trọng nhất, có tính hiệu lực và hiệu quả cao. Mục tiêu của chương
này là giúp người học hiểu rõ bản chất, những nguyên lý, cơ chế áp dụng
và thực thi pháp luật về thương mại. Nội dung chương trình bày bản chất
và vai trò của pháp luật về thương mại, các bộ phận cấu thành trong hệ
thống các văn bản pháp luật về thương mại, những yêu cầu đối với pháp
luật về thương mại, nghiên cứu nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp trong xây dựng và thi hành pháp luật về
thương mại. Trong chương này cũng giới thiệu những khái quát về
khung khổ pháp lý đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương
mại dịch vụ.
6.1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THƯƠNG MẠI
6.1.1. Khái niệm và phân loại
a. Khái niệm pháp luật về thương mại
Pháp luật nói chung được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự có tính
chất bắt buộc chung (quy phạm phát luật) thể hiện ở ý chí giai cấp thống
trị và cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm
mục tiêu bảo toàn và phát triển xã hội theo các đặc trưng đã định. [1]
Trong quản lý nhà nước về thương mại, pháp luật về thương mại
được xem là một công cụ quản lý quan trọng, nó là phương tiện được
Nhà nước sử dụng để xác lập khung khổ pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt
động lưu thơng hàng hóa và cung ứng dịch vụ trên thị trường. Bởi vậy,
về bản chất pháp luật về thương mại được hiểu là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh những
139


quan hệ kinh tế - xã hội phát sinh trong q trình lưu thơng hàng hóa và


cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm thực hiện mục tiêu phát triển
thương mại, kinh tế - xã hội của đất nước. Pháp luật về thương mại có
một số thuộc tính cơ bản sau:
Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của pháp luật về thương mại:
- Các hoạt động thương mại của thương nhân, như: Hoạt động mua,
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động hỗ trợ cho hoạt động
mua, bán trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
- Các hoạt động mang tính tổ chức của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền liên quan đến hoạt động thương mại, như: Đăng ký kinh doanh,
kiểm tra, giám sát hoạt động thương mại, giải thể và phá sản doanh
nghiệp...
Thứ hai, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về thương mại ngoài
thương nhân cịn là các cơ quan có thẩm quyền khi thực hiện các hoạt
động mang tính tổ chức, như: Đăng ký kinh doanh, giải thể, phá sản
doanh nghiệp...
Thứ ba, công cụ pháp luật mang tính cưỡng chế và quyền lực của
Nhà nước. Là phương thức tác động trực tiếp của Nhà nước đối với hoạt
động thương mại trên thị trường, nó bắt nguồn từ chức năng kinh tế và
quyền lực của Nhà nước. Đặc điểm của công cụ này là hiệu quả tác động
rất rõ ràng, thời gian tác động ngắn.
b. Phân loại hệ thống pháp luật về thương mại
 Theo hệ thống ngành luật. Hệ thống ngành luật thương mại bao
gồm tồn bộ các quy phạm, các chế định có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, được sắp xếp logic có tính liên tục và tạo thành thể thống nhất.
Trong đó, mỗi quy phạm, mỗi chế định giữ một vị trí nhất định. Theo
tiếp cận này, hệ thống ngành Luật Thương mại bao gồm các bộ phận quy
phạm pháp luật cơ bản sau:
- Các quy định pháp luật về thương nhân và các loại thương nhân;

140



- Các quy định pháp luật về hành vi thương mại và các loại hành vi
thương mại;
- Các quy định pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền;
- Các quy định pháp luật về phá sản và tài phán trong thương mại;
- Các quy định pháp luật khác về quản lý nhà nước đối với hoạt
động thương mại. [1]
 Xét theo khía cạnh mức độ giá trị pháp lý và cơ quan ban hành, ở
nước ta có hai loại văn bản pháp luật về thương mại, đó là các văn bản
quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Cụ thể:
- Các văn bản quy phạm pháp luật. Trong quản lý nhà nước về
thương mại, các văn bản quy phạm pháp luật có vai trò quan trọng nhất
và được sử dụng phổ biến. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
thương mại bao gồm ba loại:
Thứ nhất, các văn bản do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội
ban hành: Hiến pháp; Luật; Nghị quyết; Pháp lệnh.
Thứ hai, các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở
Trung ương ban hành để thực thi văn bản quy phạm pháp luật của Quốc
hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, như: Lệnh; Quyết định; Chỉ thị;
Nghị định; Thông tư.
Thứ ba, các văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các
cấp ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn
bản do Ủy ban nhân dân ban hành còn để thi hành nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cùng cấp.
Các văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm: Phải do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; Hình thức văn bản, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục ban hành văn bản được quy định trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật; Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật

chứa đựng các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung (quy phạm pháp luật)
141


được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội, trong một phạm vi nhất
định nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội; và các quy phạm pháp
luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
- Các văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Văn bản áp dụng quy
phạm pháp luật về thương mại là những văn bản có tính chất cá biệt do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nhưng khơng có đầy đủ
các yếu tố của văn bản quy phạm pháp luật, được sử dụng một lần trong
đời sống xã hội và thường được ban hành để giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể cho đối tượng cụ thể, như: Các quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, đề
bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác đối với cán bộ,
công chức nhà nước...
 Xem xét về phạm vi và mục đích ban hành, các văn bản pháp
luật về thương mại có thể chia thành hai nhóm. Thứ nhất, nhóm những
quy định pháp luật ban hành có phạm vi và đối tượng riêng cho lĩnh
vực thương mại, như: Luật Thương mại, Luật Trọng tài thương mại,
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Viễn thơng, Luật Bưu chính,
Luật Du lịch... Thứ hai, những quy định pháp luật có phạm vi điều chỉnh
chung cho nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và theo đó có liên
quan đến thương mại, ví dụ: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật
Hợp tác xã, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh...
6.1.2. Vai trò của pháp luật về thương mại
Chức năng chủ yếu và cơ bản của phát luật là điều chỉnh, bảo vệ và
giáo dục để đảm bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương hướng
nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật về thương mại thông
qua việc thực hiện chức năng này trở thành một công cụ quản lý nhà
nước về thương mại có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó trở thành phương

tiện để Nhà nước hình thành mơi trường hoạt động thương mại cơng
bằng, bình đẳng, tạo cơ sở cho việc phát triển và hội nhập thương mại có
hiệu quả với khu vực và thế giới.

142


Vai trò của pháp luật về thương mại thể hiện ở những khía cạnh sau:
a. Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để Nhà nước điều chỉnh các
quan hệ kinh tế trong lưu thơng hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đảm
bảo sự phát triển hài hòa, vững chắc nền kinh tế - xã hội
Các hoạt động thương mại trên thị trường phản ánh hàng loạt quan
hệ về kinh tế - xã hội, chúng đan xen nhau, tác động qua lại với nhau và
chi phối lẫn nhau. Trong đó, trước hết là quan hệ giữa người mua và
người bán, giữa những người mua với nhau, giữa những người bán với
nhau, giữa các khâu trong q trình lưu thơng và cung ứng hàng hóa,
dịch vụ, quan hệ giữa các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, quan hệ
giữa các ngành, các lĩnh vực, giữa các vùng, tầng lớp dân cư, giữa thị
trường nội địa và thị trường quốc tế... Điều chỉnh hài hòa, hợp lý và kịp
thời các quan hệ nói trên là điều kiện cần thiết và bắt buộc để đảm bảo sự
phát triển bền vững thương mại và nền kinh tế - xã hội. Bởi vậy, nếu hệ
thống các văn bản pháp luật về thương mại phù hợp sẽ tạo ra tiền đề pháp
lý vững chắc để Nhà nước điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực thương mại, đảm bảo phát huy có hiệu quả và bền vững mọi nguồn
lực từ các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân,
các địa phương cho phát triển thương mại và nền kinh tế - xã hội.
b. Tạo căn cứ pháp lý để Nhà nước xây dựng mơi trường bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạt động
thương mại nhằm nâng cao hiệu quả của lĩnh vực thương mại, cũng
như của nền kinh tế quốc dân

Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế nói chung và các
thương nhân nói riêng vừa cạnh tranh với nhau vì mục đích lợi nhuận, lại
vừa hợp tác để phát triển và thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô trong
khuôn khổ luật pháp quy định. Bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, các
thương nhân bao gồm hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, bình đẳng về
quyền lợi và bình đẳng về nghĩa vụ. Hai mặt này phải thường xuyên
tương ứng với nhau, không được tách rời nhau và càng không được đối
lập với nhau. Cạnh tranh là quy luật kinh tế khách quan, là phương thức
143


để đạt được mục đích của các chủ thể kinh tế trên thương trường. Trong
điều kiện đó, luật pháp là cơng cụ quan trọng của Nhà nước để vừa
khuyến khích được cạnh tranh, vừa kiểm soát và chống lại sự độc quyền,
đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, là cơ sở nâng
cao hiệu quả khơng những trong lĩnh vực thương mại mà cịn góp phần
nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.
c. Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để Nhà nước thực hiện mục tiêu
phát triển thương mại bền vững
Phát triển kinh tế và thương mại theo mơ hình kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ảnh hưởng ngày càng sâu sắc và tiêu cực đến
công bằng xã hội; đến tài nguyên, môi trường sinh thái và gia tăng nhanh
sự phân hoá giàu nghèo ở mọi quốc gia, cũng như đem đến những thách
thức cho khả năng duy trì sự tăng trưởng bền vững nền kinh tế. Nói cách
khác, q trình thực hiện thương mại hóa và tự do hố thương mại đang
có ảnh hưởng ngày càng sâu sắc và toàn diện đến sự phát triển bền vững
ở các quốc gia hiện nay.
Trong điều kiện đó, các quy phạm pháp luật về thương mại có vai
trị là cơ sở pháp lý, công cụ quản lý của Nhà nước để điều chỉnh các
hành vi thương mại trên thị trường nhằm đạt được các mục tiêu của sự

phát triển thương mại bền vững. Chẳng hạn, các văn bản pháp luật tạo
lập môi trường phát triển thương mại; Đảm bảo sự bình đẳng và cơng
bằng lợi ích giữa các tầng lớp, chủ thể kinh tế trong các quan hệ thương
mại trên thị trường; Hay các văn bản pháp luật liên quan đến việc khai
thác và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên...
d. Một số vai trò cụ thể của pháp luật về thương mại. Ngồi những
vai trị chung nói trên, vai trò của pháp luật về thương mại còn thể
hiện ở một số khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật tạo ra khung khổ pháp lý cho sự
tham gia và hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Thông
qua các quy định pháp luật, Nhà nước có thể cho phép nhóm đối tượng
này mà khơng cho phép nhóm đối tượng khác tham gia vào kinh doanh
144


trên thị trường một lĩnh vực hay ngành hàng nào đó. Đây là vai trị khá
phổ biến của các định chế pháp lý về thương mại. Có thể ví dụ ở đây
một số quy định điển hình nhất trong các quy định pháp lý thuộc dạng
này như:
- Quy định không cho các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước
được tham gia cung cấp một số hàng hoá, dịch vụ nhất định. Dành quyền
kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ đó cho các doanh nghiệp nhà nước
hoặc doanh nghiệp do Nhà nước lập nên chỉ để kinh doanh các hàng hố,
dịch vụ đó. Một số lĩnh vực thường thấy áp dụng các quy định dạng
này như lĩnh vực cung ứng dịch vụ kiểm định, chứng thực, mật mã cơ
yếu, lĩnh vực cung ứng hàng hoá phục vụ an ninh, quốc phịng, dự trữ
quốc gia...
- Quy định khơng cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia
kinh doanh một số ngành hàng, lĩnh vực nhất định. Chỉ cho phép các
doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp trong nước liên doanh với

doanh nghiệp nước ngồi với một tỷ lệ góp vốn bắt buộc nhất định được
phép kinh doanh, tham gia thị trường. Một số lĩnh vực thường thấy áp
dụng các quy định dạng này là: Lĩnh vực cung ứng dịch vụ viễn thơng
liên lạc, dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, dịch vụ phân phối
hàng hoá...
- Quy định chỉ cho phép các doanh nghiệp đáp ứng đủ một số điều
kiện nhất định (như về tài chính, trình độ lao động, cơ sở hạ tầng kỹ
thuật...) mới được tham gia kinh doanh vào thị trường một số ngành
hàng, lĩnh vực nhất định. Một số lĩnh vực thường thấy là lĩnh vực kinh
doanh các ngành hàng năng lượng, nhiên liệu, khí đốt, lĩnh vực kinh
doanh các ngành dịch vụ tư vấn luật, dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục...
Thứ hai, các quy định pháp lý có vai trị tác động tới các đối tượng
hàng hoá, dịch vụ được kinh doanh trên thị trường và tạo ra khung khổ
pháp lý đối với các chủ thể kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ đó trên
thị trường. Thơng thường, đó là những quy định về loại hàng hố, dịch
vụ được phép hay khơng được phép kinh doanh, loại hàng hoá, dịch vụ
145


hạn chế kinh doanh hoặc loại hàng hoá, dịch vụ phải bảo đảm những điều
kiện nhất định mới được phép kinh doanh... Hay đó cũng có thể là những
quy định về mức độ chất lượng, quy cách, thậm chí là cả mẫu mã của
những loại hàng hoá được kinh doanh trên thị trường. Ví dụ: Quy định
cấm kinh doanh đối với một số chủng loại hàng hoá; Quy định về chất
lượng sản phẩm hàng hoá phải bảo đảm đủ những điều kiện nhất định
mới được phép lưu thông, kinh doanh trên thị trường...
Thứ ba, bên cạnh các quy định về các chủ thể tham gia kinh doanh
trên thị trường, các đối tượng hàng hoá, dịch vụ được kinh doanh trên thị
trường, các quy định pháp lý cịn có vai trị tác động tới việc hình thành
và điều chỉnh cách thức các chủ thể kinh doanh hàng hố trên thị trường.

Thơng thường, đó sẽ là những quy định về việc cho phép các doanh
nghiệp được kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ nhất định dưới dạng
này mà không được kinh doanh dưới dạng khác, hoặc kinh doanh dưới
dạng này nhưng phải theo những quy tắc nhất định.
Ví dụ, đối với lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, việc kinh doanh phân
phối mặt hàng xăng dầu được quy định bắt buộc dưới hình thức đại lý
hoặc tổng đại lý cho các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu theo
một quy chế riêng mà khơng được kinh doanh dưới bất kỳ hình thức nào
khác. Các đại lý và tổng đại lý phân phối xăng dầu phải tuân thủ những
quy định theo Nghị định 55/2007/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2007 của
Chính phủ về quản lý kinh doanh xăng dầu và Quyết định số
1505/2003/QĐ-BTM, Quyết định số 11/2007/QĐ-BTM về ban hành và
sửa đổi, bổ sung Quy chế đại lý kinh doanh xăng dầu. Theo đó:
- Mọi cửa hàng, điểm bán lẻ xăng dầu không thuộc hệ thống phân
phối của doanh nghiệp xăng dầu đầu mối hoặc hệ thống phân phối của
Tổng đại lý do doanh nghiệp xăng dầu đầu mối thiết lập đều không được
phép kinh doanh xăng dầu trên thị trường.
- Tổng đại lý chỉ được ký hợp đồng làm tổng đại lý cho một thương
nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc một thương nhân
sản xuất, chế biến xăng dầu.
146


- Đại lý chỉ được ký hợp đồng làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một
tổng đại lý hoặc một thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng
dầu hoặc một thương nhân sản xuất, chế biến xăng dầu.
- Cửa hàng, trạm bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc doanh
nghiệp sản xuất, chế biến xăng dầu phải chịu sự kiểm sốt của doanh
nghiệp đó; Phải niêm yết giá bán các loại xăng dầu theo hợp đồng đại lý

và bán đúng giá niêm yết; Biển hiệu phải ghi đầy đủ các nội dung theo
quy định của pháp luật và tên, biểu tượng (lô-gô) của doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc doanh nghiệp sản xuất, chế
biến xăng dầu theo hướng dẫn của doanh nghiệp đó.
- Chỉ được mua, bán xăng dầu với các thương nhân trong hệ thống
(trừ việc bán cho người tiêu dùng) và chịu trách nhiệm về chất lượng, số
lượng, giá xăng dầu bán ra."
Thứ tư, các quy định pháp lý có vai trị tác động tới sự hình thành và
phát triển các không gian kinh tế, kết cấu hạ tầng kinh tế, là nơi các chủ
thể kinh doanh tổ chức hoạt động kinh doanh và là nơi mà các mặt
hàng trong những ngành hàng hố khác nhau được bn bán, trao đổi
và lưu thơng.
Ví dụ, trong lĩnh vực kinh doanh phân phối hàng hố tổng hợp, hình
thức kinh doanh qua các siêu thị, trung tâm thương mại bắt buộc phải
tuân thủ theo các quy định của Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại do
Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) ban hành kèm theo Quyết
định số 1371/2004/QĐ-TTg ngày 24 tháng 9 năm 2004. Theo đó, việc
đầu tư xây dựng và tổ chức hoạt động kinh doanh của các siêu thị, trung
tâm thương mại phải tuân theo một số quy định cơ bản như sau:
“- Chủ đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa lớn, cải tạo, nâng cấp
siêu thị, trung tâm thương mại phải lập dự án theo các quy định hiện
hành về quản lý đầu tư xây dựng. Địa điểm xây dựng siêu thị, trung tâm
thương mại phải phù hợp với Quy hoạch phát triển mạng lưới thương
mại của địa phương.
147


- Khi lập dự án xây dựng siêu thị, trung tâm thương mại chủ đầu tư
phải căn cứ vào các tiêu chuẩn cơ bản về phân hạng siêu thị, trung tâm
thương mại của Quy chế này để xác định quy mô đầu tư phù hợp với

từng hạng siêu thị, trung tâm thương mại.
- Hàng hóa, dịch vụ kinh doanh tại siêu thị, trung tâm thương mại
phải bảo đảm đúng các quy định của pháp luật và thực hiện những yêu
cầu cụ thể sau:
+ Có tên thương mại riêng hoặc tên thương mại của siêu thị hoặc
trung tâm thương mại (nếu hàng hóa, dịch vụ khơng có tên thương mại
riêng phải có tên hàng hóa, dịch vụ) và phải ghi rõ xuất xứ của hàng hóa
theo quy định của pháp luật.
+ Có mã số, mã vạch đối với những loại hàng hóa có thể đăng ký mã
số, mã vạch để thuận tiện cho công tác quản lý của siêu thị, trung tâm
thương mại và giám sát của khách hàng.
+ Đối với hàng hóa là thực phẩm phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ
sinh, an toàn thực phẩm và ghi rõ thời hạn sử dụng trên bao bì đóng gói.
Nếu là nơng sản, thực phẩm ở dạng tươi hoặc sơ chế không có bao bì
đóng gói sẵn thì phải qua chọn lọc, phân loại, ghi rõ xuất xứ, chất lượng
và thời hạn sử dụng tại giá hàng, quầy hàng.
+ Tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ kinh doanh tại siêu thị, trung tâm
thương mại phải có giá bán được thể hiện rõ ràng trên nhãn hàng hóa,
bao bì hàng hóa hoặc được niêm yết tại giá hàng, quầy hàng, điểm kinh
doanh dịch vụ.
+ Hàng hóa có bảo hành phải ghi rõ thời hạn và địa điểm bảo hành.
+ Nguồn hàng được tổ chức cung ứng ổn định và thường xuyên
thông qua đơn hàng hoặc hợp đồng với các nhà sản xuất kinh doanh.
- Không được kinh doanh tại siêu thị, trung tâm thương mại các loại
hàng hóa, dịch vụ sau đây:

148


+ Hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm kinh doanh theo quy định

của pháp luật; hàng lậu, hàng giả, hàng không rõ xuất xứ, hàng quá thời
hạn sử dụng và hàng không đảm bảo chất lượng theo quy định của pháp
luật, như: hàng mất phẩm chất, hàng kém chất lượng, hàng nhiễm độc và
động thực vật bị dịch bệnh...
+ Hàng hóa khơng đúng quy định về nhãn hàng hóa, về tem thuế
hàng hóa nhập khẩu và tem thuế hàng hố tiêu thụ đặc biệt.
+ Hàng hóa có chứa chất phóng xạ hoặc thiết bị phát bức xạ i-on hóa
quá mức độ cho phép theo quy định.
+ Các loại vật liệu nổ; các loại chất lỏng, chất khí dễ gây cháy nổ
(như xăng dầu, gas, khí nén...).
+ Các loại thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật thuộc danh mục hạn
chế kinh doanh theo quy định của pháp luật.
+ Hàng hóa có chứa hóa chất độc hại thuộc danh mục hạn chế kinh
doanh theo quy định của pháp luật."...
6.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH KHUNG KHỔ PHÁP LÝ
VỀ THƯƠNG MẠI
Ngoài hệ thống văn bản pháp luật do các cơ quan quản lý nhà nước
ban hành, các hoạt động thương mại trong điều kiện tự do hóa và hội
nhập cịn chịu sự điều chỉnh của các định chế quốc tế về thương mại. Bởi
vậy, trong điều kiện hiện nay, các bộ phận cấu thành khung khổ pháp lý
về thương mại sẽ được xem xét bao gồm:
6.2.1. Hệ thống các quy phạm pháp luật quốc gia
- Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước. Hiến pháp
xác định chế độ chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước nên Hiến pháp có
giá trị pháp lý cao nhất trong mọi lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế - xã
hội, trong đó có lĩnh vực thương mại. Liên quan đến lĩnh vực hoạt động
thương mại, Hiến pháp nước ta hiện nay ghi nhận những vấn đề quan
trọng sau:
149



+ Xác định rõ định hướng cũng như mục đích xây dựng nền kinh tế
của đất nước.
+ Xác định rõ chế độ sở hữu nhà nước.
+ Công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và sự bình đẳng
của các thành phần kinh tế trong kinh doanh.
+ Ghi nhận sự tự do kinh doanh của công dân.
+ Ghi nhận các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
+ Xác định rõ các công cụ quản lý kinh tế, cũng như quy tắc xử lý
những vi phạm trong kinh doanh...
Những quy định liên quan đến chế độ kinh tế và các quyền tự do
kinh doanh trong Hiến pháp là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc thực hiện
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh nói chung và các
thương nhân nói riêng. Do vậy, Hiến pháp là cơ sở pháp lý và là một
công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước về thương mại.
- Bộ luật dân sự. Sau Hiến pháp, Bộ luật dân sự là đạo luật có vị trí
quan trọng trong hệ thống pháp luật, liên quan mật thiết đến mọi mặt đời
sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực thương mại. Đối với quản lý
nhà nước về thương mại, Bộ luật dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
thông qua việc quy định về các vấn đề: Tài sản và sở hữu, bảo vệ quyền
sở hữu, hợp đồng, sở hữu trí tuệ, chuyển quyền sử dụng đất... Bộ luật dân
sự quy định các chuẩn mực pháp lý cho các quan hệ thương mại phát
triển trong môi trường pháp lý thống nhất, rõ ràng, có độ tin cậy cao.
Cùng với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật kinh tế, Bộ
luật dân sự góp phần xây dựng nên khung pháp lý cần thiết cho sự vận
hành của nền kinh tế thị trường, tạo nên môi trường pháp lý thuận lợi và
thống nhất cho các hoạt động thương mại phát triển.
- Các luật do Quốc hội thông qua. Các văn bản pháp luật về thương
mại do Quốc hội thông qua bao gồm:


150


+ Các luật quy định về địa vị pháp lý của các thương nhân, như:
Luật Doanh nghiệp; Luật Hợp tác xã...
+ Các luật quy định cụ thể về các loại hành vi thương mại, như: Luật
Thương mại; Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật Ngân hàng...
+ Luật phá sản quy định thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản đối với
thương nhân lâm vào tình trạng phá sản.
- Các văn bản dưới luật. Các văn bản dưới luật về thương mại bao
gồm:
+ Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp tồn
tại những hoạt động mà hiện chưa có văn bản luật điều chỉnh thì Ủy ban
thường vụ Quốc hội sẽ ban hành các pháp lệnh để điều chỉnh các hoạt
động đó. Ở nước ta trước đây có khá nhiều pháp lệnh điều chỉnh các hoạt
động cụ thể trong lĩnh vực thương mại, ví dụ: Pháp lệnh giá; Pháp lệnh
đo lường; Pháp lệnh trọng tài thương mại;... nhưng hiện nay đã được luật
hóa. Một số Pháp lệnh về tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp hàng
hóa nhập khẩu vào Việt Nam,... vẫn đang còn hiệu lực thi hành.
+ Nghị định của Chính phủ. Trong thực tiễn, để điều chỉnh các hoạt
động thương mại và các hoạt động liên quan trực tiếp đến hoạt động
thương mại, Chính phủ cần thiết phải ban hành các nghị định để hướng
dẫn cụ thể việc thi hành các văn bản luật của Quốc hội hoặc các pháp
lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong một số trường hợp cụ thể,
khi chưa có văn bản luật hoặc pháp lệnh thì nghị định của Chính phủ sẽ
là văn bản chính để điều chỉnh các hoạt động đó. Hiện nay, ở Việt Nam
cịn khá nhiều nghị định của Chính phủ trong lĩnh vực thương mại.
- Các văn bản dưới luật khác. Để hướng dẫn cụ thể các hoạt động
mang tính chất nghiệp vụ trong lĩnh vực thương mại, các bộ, các cơ quan
ngang bộ cịn ban hành các thơng tư hướng dẫn. Các nghị quyết, quyết

định và chỉ thị của một số cơ quan có thẩm quyền được ban hành trong
q trình quản lý nhà nước về thương mại cũng thuộc các văn bản dưới
luật nằm trong hệ thống các quy phạm pháp luật về thương mại.
151


6.2.2. Các định chế thương mại quốc tế
a. Các điều ước quốc tế về thương mại
Điều ước quốc tế về thương mại là những thỏa thuận được ký kết
giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên quốc gia, liên chính phủ, có
hiệu lực ràng buộc thực hiện, điều chỉnh quan hệ thương mại theo xu thế
tồn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các điều ước
quốc tế về thương mại ngày nay có vai trò ngày càng quan trọng. Các vai
trò này thể hiện ở một số đặc điểm sau:
- Cố định tương đối những nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc
tế về thương mại đã được thừa nhận chung.
- Phát triển những quy tắc mới về những vấn đề thương mại quốc tế
cho tới nay vẫn chưa được chuẩn hóa.
- Là một trong những phương tiện, cách thức để các quốc gia chủ
động hội nhập kinh tế, thương mại quốc tế, để thúc đẩy q trình tự do
hóa thương mại.
Có hai loại điều ước quốc tế điều chỉnh hoạt động thương mại
quốc tế:
Thứ nhất, là các điều ước quốc tế quy định những nguyên tắc pháp
lý chung, mang tính chỉ đạo đối với các hành vi thương mại của các
thương nhân giữa các quốc gia khác nhau. Ví dụ như các Hiệp định của
GATT/WTO quy định về nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc
Đãi ngộ quốc gia (NT) trong quan hệ thương mại giữa các nước thành
viên.
Thứ hai, là các điều ước quy định một cách trực tiếp các quyền và

nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại quốc
tế. Ví dụ, một điều ước điển hình thuộc loại này là Cơng ước của Liên
Hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, được 11 nước ký kết
ngày 01/01/1980 tại Viên (Áo). Công ước quy định thủ tục ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách
nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng.
152


Các điều ước quốc tế đã được các chính phủ tham gia ký kết hoặc
dẫn chiếu tới sẽ được áp dụng trong quản lý nhà nước đối với hoạt động
thương mại của thương nhân và của doanh nghiệp của các nước đó. Các
điều ước quốc tế về thương mại chưa được các quốc gia ký kết hoặc cơng
nhận thì khơng có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể hoạt động thương
mại quốc tế của họ trừ khi chúng được dẫn chiếu đến trong các hợp đồng
kinh doanh quốc tế.
Theo các quy định của pháp luật hiện hành Việt Nam, có hai phương
pháp áp dụng điều ước quốc tế về thương mại:
- Đối với điều ước quốc tế về thương mại mà Nhà nước ta đã tham
gia ký kết và phê chuẩn thì sẽ áp dụng các điều ước quốc tế đó.
- Đối với các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa tham gia hoặc
chưa công nhận thì chỉ áp dụng những điều, khoản khơng trái với pháp
luật Việt Nam và khi có sự thỏa thuận giữa các bên.
b. Các tập quán quốc tế về thương mại
Các tập quán quốc tế về thương mại cũng có thể trở thành khung
pháp luật để Nhà nước sử dụng điều chỉnh các hoạt động thương mại
quốc tế. Đó là các thói quen thương mại phổ biến, được áp dụng thường
xuyên trên phạm vi toàn cầu, hoặc từng địa phương mà trên cơ sở đó có
thể xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên áp dụng.
Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành tập

quán thương mại khi thỏa mãn các yêu cầu: i) Là một thói quen phổ biến
được nhiều người áp dụng và áp dụng thường xuyên; ii) Về từng vấn đề
và ở từng địa phương, đó là thói quen độc nhất; iii) Là một thói quen có
nội dung rõ ràng và người ta có thể dựa vào đó để xác định quyền và
nghĩa vụ đối với nhau.
Một tập quán thương mại quốc tế khá phổ biến là các điều kiện
thương mại quốc tế (INCOTERMS) được Phịng Thương mại quốc tế hệ
thống hóa từ năm 1937 và được biên soạn lại 10 năm một lần.

153


Các tập quán quốc tế về thương mại cũng chỉ được áp dụng khi
trong hợp đồng mua bán quốc tế quy định sẽ áp dụng nó, khi được quy
định trong các điều ước quốc tế có liên quan, khi luật quốc gia không quy
định hoặc quy định không đầy đủ các chế định cần thiết để điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế giữa các bên.
Luật Thương mại Việt Nam cũng cho phép các bên trong quan hệ
hợp đồng thương mại quốc tế được thỏa thuận áp dụng tập quán thương
mại quốc tế nếu tập quán quốc tế đó khơng trái với pháp luật Việt Nam
(Khoản 1 Điều 5 Luật thương mại năm 2005).
Các điều ước và tập quán quốc tế về thương mại không chỉ là nguồn
luật của cơng pháp, tư pháp quốc tế mà cịn là bộ phận không thể thiếu
của khung pháp luật của mỗi quốc gia. Việt Nam khi tham gia các điều
ước quốc tế song phương và đa phương, các điều ước quốc tế toàn cầu và
khu vực chúng ta phải ban hành các quy phạm pháp luật trong nước để
quản lý nhà nước về thương mại đảm bảo tính phù hợp với các điều kiện
quốc tế đã ký kết.
Việc tăng cường giới thiệu rộng rãi các công ước, các tập quán quốc
tế về thương mại ở Việt Nam tới các đối tượng có liên quan, trước hết là

các doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh thương mại quốc tế là hết sức
quan trọng và cũng là một nội dung của quản lý nhà nước về thương mại.
Đây là cơ hội để các doanh nghiệp tìm hiểu và nâng cao tri thức pháp
luật, trở thành các chủ thể tham gia tích cực, năng động trên thương
trường quốc tế. Đồng thời, qua đó doanh nghiệp cũng được hưởng các ưu
đãi về thương mại có được từ các cam kết đa phương và song phương
của Nhà nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Về mặt pháp lý, các cam kết quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã
ký kết, tham gia trong các thoả thuận, hiệp định song phương và đa
phương thì các cam kết này có tính bắt buộc và các nước tham gia ký kết
buộc phải thực hiện theo lộ trình đã cam kết. Việc thực thi các cam kết
thơng thường sẽ được các quốc gia thực hiện thông qua việc pháp lý hố
bằng luật pháp, chính sách của Nhà nước về quản lý thương mại.
154


6.3. HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
THƯƠNG MẠI
6.3.1. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
thương mại
a. Những yêu cầu đối với hệ thống pháp luật về thương mại
Như đã khẳng định ở trên, pháp luật về thương mại là một công cụ
chủ yếu và quan trọng nhất của Nhà nước trong quản lý thương mại. Bởi
vậy, để đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả, pháp luật về thương mại phải
đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
- Yêu cầu về tính khách quan, tính quy luật
Pháp luật là tổng thể các quy phạm do Nhà nước ban hành theo thẩm
quyền và thể thức nhất định mang tính khn mẫu, tiêu chuẩn, thước đo
cho mọi tổ chức và mọi công dân trong các quan hệ xã hội. Đối với pháp
luật về thương mại đó là một phân hệ trong hệ thống pháp luật nói chung.

Phân hệ pháp luật này điều chỉnh các quan hệ trong lưu thơng hàng hóa
và cung ứng dịch vụ - Một loại quan hệ phổ biến và đặc thù của quan hệ
xã hội trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về thương mại là sản phẩm
chủ quan của Nhà nước phản ánh các quy luật khách quan mà trước hết
là các quy luật kinh tế, các quy luật trong lưu thơng hàng hóa, cung ứng
dịch vụ. Pháp luật thương mại là những thể chế kinh tế, thương mại mà
Nhà nước buộc các chủ thể tham gia vào hoạt động lưu thơng hàng hóa
và cung ứng dịch vụ phải chấp hành nhằm thúc đẩy thương mại tăng
trưởng và phát triển bền vững.
Về bản chất, mọi quy luật kinh tế đều phản ánh lợi ích kinh tế. Bởi
vậy, các quy phạm pháp luật về thương mại đi ngược lại lợi ích kinh tế,
cản trở, kìm hãm lợi ích kinh tế đều cần phải sửa đổi, hoàn thiện cho phù
hợp với quá trình phát triển. Trong các yêu cầu đối với pháp luật về
thương mại, yêu cầu khách quan và coi trọng quy luật là yêu cầu quan
trọng nhất. Pháp luật có tuân thủ yêu cầu này mới có thể đảm bảo được
tính hiệu lực và hiệu quả của nó.
155


Để đảm bảo yêu cầu này, công tác xây dựng pháp luật cần được coi
trọng, đảm bảo việc thực hiện đúng quy trình lập pháp và quy trình lập
quy của các cơ quan nhà nước từ Quốc hội cho đến các cơ quan quản lý
từ Trung ương đến địa phương.
- Yêu cầu về tính cưỡng chế
Cưỡng chế là tính chất cơ bản của pháp luật nói chung và pháp luật
về thương mại cũng phải đảm bảo tính chất này. Các quy phạm pháp luật
phải được Nhà nước đảm bảo thi hành, nếu đối tượng khơng chấp hành
thì Nhà nước cưỡng chế thi hành. Chức năng pháp luật của Nhà nước
không chỉ dừng lại ở việc xây dựng pháp luật mà cịn ở q trình thực thi
luật pháp. Thực tế, việc chấp hành của pháp luật chỉ trở thành hiện thực

khi Nhà nước thực hiện tốt các công việc: i) Tổ chức tốt công tác thực thi
luật pháp; ii) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật; iii) Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh;
iv) Kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước về tư pháp.
- Yêu cầu về tính hệ thống
Pháp luật của Nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật, tạo
thành hệ thống thống nhất. Cơ sở để đảm bảo tính thống nhất là sự thống
nhất về chính trị, kinh tế trên cơ sở lợi ích chung thống nhất. Để đảm bảo
tính hệ thống của pháp luật về thương mại, việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần được
chấp hành theo quy định thống nhất của Nhà nước. Theo đó, Hiến pháp
là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực cao nhất. Bởi vậy, văn bản quy
phạm pháp luật về thương mại được ban hành phải phù hợp với Hiến
pháp, đảm bảo tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản
trong hệ thống pháp luật.
- Yêu cầu về tính hội nhập quốc tế và quan điểm, đường lối, chính
sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước
Tồn cầu hóa, khu vực hóa đang là một trong những xu thế phát
triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Vì vậy, hội nhập kinh tế và
156


thương mại quốc tế là một nhu cầu nội tại khách quan của mỗi nền kinh
tế. Ngày nay, mỗi nền kinh tế dù với thể chế chính trị, đặc điểm lịch sử
và bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như chính sách thương mại riêng,
nhưng vẫn có thể và cần thiết hội nhập kinh tế và thương mại quốc tế
thông qua việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về thương mại.
Trong q trình đó, các ngun tắc cơ bản của hội nhập kinh tế và
thương mại quốc tế phải được thể chế hóa, pháp luật hóa. Việc xây dựng
và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thương mại trong nước,

một mặt phải xuất phát từ quan điểm, đường lối, chính sách và luật pháp
thương mại của đất nước, biểu thị thái độ chính trị - pháp lý độc lập có
chủ quyền của đất nước về hợp tác kinh tế và thương mại, mặt khác phải
căn cứ và hội nhập với hệ thống các điều ước quốc tế trên cơ sở xuất phát
từ lợi ích của đất nước và lợi ích của nước đối tác, các tổ chức quốc tế.
Hay nói cách khác, việc xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp trong
quản lý nhà nước về thương mại phải xuất phát từ quan điểm, đường lối,
chính sách và luật pháp thương mại của Đảng và Nhà nước, đồng thời
phải đảm bảo hội nhập và phù hợp với các cam kết, điều ước quốc tế về
thương mại. Điều này được thể hiện trước hết ở hệ thống pháp luật về
thuế quan, phi thuế quan; pháp luật về thương mại liên quan đến sở hữu
trí tuệ, đầu tư...
b. Các cơ quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong
quản lý nhà nước về thương mại
1) Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết.
2) Văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh,
Nghị quyết.
3) Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung
ương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
4) Văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành để thi
hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
157


hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, văn bản do Ủy ban nhân
dân ban hành để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp:
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Ủy ban
nhân dân.
6.3.2. Thực thi pháp luật về thương mại

a. Khái quát về tổ chức bộ máy nhà nước
Theo sự phân cấp quyền lực nhà nước, cơ cấu bộ máy nhà nước ở
nước ta hiện nay gồm ba phân hệ:
- Cơ quan trực tiếp thực hiện quyền lập pháp là Quốc hội.
- Cơ quan trực tiếp thực hiện quyền hành pháp là Chính phủ và Ủy
ban nhân dân.
- Các cơ quan trực tiếp thực hiện quyền tư pháp là Tòa án nhân dân
và Viện Kiểm sát nhân dân.
Theo cấp bậc hành chính lãnh thổ, cơ cấu bộ máy nhà nước bao
gồm:
- Cấp Trung ương.
- Cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.
- Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
- Cấp xã, phường, thị trấn.
Theo sự phân định chức năng, các hoạt động quản lý nhà nước được
chun mơn hóa tạo thành những cơ quan quản lý các ngành, các lĩnh
vực. Theo đó, bộ máy quản lý nhà nước ở Trung ương (Chính phủ) chia
ra thành các bộ; Bộ máy quản lý nhà nước của các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chia ra thành các sở, ban; Bộ máy quản lý các quận,
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh chia ra thành các phòng.

158


Nhà nước

Lập pháp

Hành pháp


Tư pháp

Quốc hội

Chính phủ TW,
các Bộ

TAND, Viện KSND

Chính quyền
tỉnh, thành phố
trực thuộc TW

TAND, Viện KSND
tỉnh, thành phố
trực thuộc TW

Chính quyền
quận, huyện

TAND, Viện KSND
quận, huyện

HĐND

UBND
Chính quyền
phường, xã

Sơ đồ: MƠ HÌNH CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP


b. Thực thi pháp luật về thương mại của cơ quan hành pháp
Việc thực thi pháp luật về thương mại thuộc hệ thống quản lý nhà
nước ở nước ta được thực hiện theo các cấp như sau:
 Chính phủ. Theo Hiến pháp, ở nước ta Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước
Cộng hịa XHCN Việt Nam. Cơ cấu Chính phủ bao gồm: Thủ tướng và
các Phó Thủ tướng Chính phủ, Các Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ. Chính phủ là cơ quan làm việc theo chế độ tập thể, những vấn
159


đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ được thảo luận tập thể và
quyết định theo đa số.
Theo phương diện thi hành luật pháp về thương mại, Chính phủ là
cơ quan hành pháp ở Trung ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện các
văn bản pháp luật về thương mại theo nhiệm vụ và quyền hạn được ghi
trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ. Trong q trình đó, Thủ
tướng có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những Quyết định, Chỉ
thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Quyết định,
Chỉ thị của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật, văn bản luật của cơ
quan nhà nước cấp trên; Đình chỉ việc thi hành các Nghị quyết bất hợp
pháp của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
 Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ (gọi
tắt là Bộ)
Bộ là cơ quan nhà nước ở Trung ương của Chính phủ có trách nhiệm
thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý thống nhất đối với ngành hay lĩnh
vực trên phạm vi cả nước. Có thể chia các Bộ thành hai nhóm: Nhóm các
Bộ quản lý theo lĩnh vực và nhóm các Bộ quản lý ngành.

Về bản chất và thực thi luật pháp về thương mại của các Bộ có thể
khái quát như sau:
- Nhóm Bộ quản lý lĩnh vực (Các Bộ chức năng cơ bản) là các Bộ
thực hiện sự quản lý nhà nước tổng hợp theo từng lĩnh vực lớn của nền
kinh tế - xã hội, liên quan đến lĩnh vực thương mại có thể kể đến như: Kế
hoạch - Đầu tư, Tài chính, Khoa học - Cơng nghệ, Lao động - Thương
binh xã hội,...
- Nhóm Bộ quản lý ngành, trong lĩnh vực thương mại đó là Bộ Cơng
Thương (Ở nước ta trước đây là Bộ Thương mại). Bộ Cơng Thương là cơ
quan nhà nước Trung ương của Chính phủ có trách nhiệm quản lý, chỉ
đạo tồn diện các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp, các doanh
nghiệp kinh doanh thương mại và cả lĩnh vực công nghiệp do Bộ quản lý
về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật.
160


Theo Hiến pháp, thực thi luật pháp về thương mại ở nước ta, các Bộ
có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Ban hành những văn bản pháp quy cụ thể thuộc thẩm quyền để
chấp hành các loại văn bản pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ
quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Những quy
định do Bộ ban hành đều có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với tất cả các
Bộ, các Ủy ban nhân dân, các thương nhân và công dân trong nước.
- Chuẩn bị các dự thảo luật (Luật, Pháp lệnh) và các dự thảo khác
theo sự phân công của Chính phủ về những vấn đề liên quan đến thương
mại thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ để Chính phủ xem xét và
trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm việc chấp hành pháp luật,
thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ, thể lệ quản lý nhà nước
thuộc ngành hoặc lĩnh vực công tác của Bộ.

 Chính quyền địa phương, bao gồm Ủy ban nhân dân các cấp:
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và của Hội
đồng nhân dân cấp trên, thi hành pháp luật thống nhất trên phạm vi cả
nước.
c. Thực thi pháp luật về thương mại của các cơ quan tư pháp
Trong lĩnh vực thương mại, Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân
dân là những cơ quan tư pháp tham gia vào hệ thống quản lý nhà nước về
thương mại. Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân có cơ cấu tổ
chức theo các cấp từ Trung ương đến tỉnh, thành phố và các quận, huyện.
Tòa án nhân dân được lập ra để xét xử và giải quyết các vụ việc liên quan
đến các quan hệ kinh tế - xã hội, trong đó có các vụ kiện phát sinh trong
quá trình lưu thơng hàng hóa và cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật trong lĩnh vực thương mại.
161


Viện Kiểm sát nhân dân được lập ra là để thực hiện chức năng kiểm soát
việc tuân theo pháp luật, thực hiện quyền công tố theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống quản lý nhà nước về thương mại, Tòa
án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân đóng vai trị ngày càng quan
trọng đối với việc thi hành pháp luật về thương mại, đảm bảo mơi trường
hoạt động thương mại bình đẳng, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các thương
nhân, người tiêu dùng và Nhà nước trong các quan hệ thương mại trên
thị trường.
6.3.3. Khung pháp lý cơ bản đối với thương mại hàng hoá và
thương mại dịch vụ ở Việt Nam
Như đã nghiên cứu ở trên, ở nước ta khung pháp lý đối với thương

mại nói chung và đối với thương mại hàng hóa hay thương mại dịch vụ là
các văn bản pháp luật về thương mại bao gồm nhiều loại, từ Hiến pháp
đến các văn bản luật và dưới luật. Bên cạnh đó cịn có các điều ước, tập
qn quốc tế trong thương mại mà Việt Nam tham gia. Tuy nhiên, trong
nội dung này, giáo trình chủ yếu giới thiệu các văn bản pháp luật là các
văn bản luật của quốc gia, trong đó đã pháp luật hóa những định chế
thương mại quốc tế, là văn bản pháp luật có tính cơ bản trong khung
pháp lý điều chỉnh về thương mại ở nước ta hiện nay. Cụ thể:
a. Khung pháp lý đối với thương mại hàng hóa
Ở nước ta, khung pháp lý điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hóa
được xem xét trên các khía cạnh sau đây:
- Khung pháp lý quy định về thương nhân và các loại thương nhân.
Các quy định này được đưa ra trong: Luật Thương mại (năm 2005); Luật
Doanh nghiệp (năm 2005); Luật Hợp tác xã (năm 2012) Luật Đầu tư
(năm 2005); Bộ luật Dân sự (năm 2005), Luật Phá sản (năm 2004)...
Trong đó thương nhân được hiểu là “bao gồm tổ chức được thành lập
hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh”(i). Trên cơ sở đó, thương nhân gồm có
(i)

Khoản 1, Điều 5, Luật Thương mại (năm 2005)

162


2 loại: 1) Thương nhân là cá nhân; 2) Thương nhân là tổ chức (gồm các
thương nhân với loại hình tổ chức là Doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế; Hợp tác xã; Liên hiệp Hợp tác xã; Tổ hợp tác; Hộ kinh
doanh cá thể).
- Khung pháp lý quy định về hành vi thương mại và các loại hành vi

thương mại. Các quy định pháp lý về hành vi thương mại và các loại
hành vi thương mại được đưa ra trong Luật Thương mại (năm 2005),
Luật Trọng tài thương mại (năm 2010),... Hoạt động thương mại được
quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành là hoạt động
nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời
khác(ii). Ở đây hoạt động thương mại được hiểu là tổ hợp các hành vi
thương mại.
Hành vi thương mại theo quy định của hệ thống luật pháp hiện hành
mang những đặc trưng là: Hành vi thương mại khác hành vi dân sự về
thời điểm xuất hiện và tính ổn định (về lịch sử có sau hành vi dân sự,
tính ổn định và bền vững của hành vi dân sự cao hơn); Hành vi thương
mại được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh lời; Hành vi
thương mại là hành vi mang tính chất nghề nghiệp, được thương nhân
thực hiện.
Hành vi thương mại nếu dựa trên những căn cứ khác nhau có thể
được chia ra thành những loại hành vi khác nhau. Nếu dựa vào lĩnh vực
phát sinh cũng như đối tượng của hành vi thương mại thì các hành vi
thương mại có thể chia ra thành các nhóm hành vi sau: Thứ nhất, nhóm
hành vi thương mại hàng hóa; Thứ hai, nhóm hành vi thương mại dịch
vụ; Thứ ba, nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực đầu tư và Thứ tư,
nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Trong đó, nhóm hành vi thương mại hàng hóa là những hành vi phát
sinh trong quá trình trao đổi hàng hóa, bao gồm mua bán hàng hóa và các
hoạt động khác liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa như cung ứng
các dịch vụ thương mại. Các hành vi thương mại được quy định cụ thể
(ii)

Khoản 1, Điều 3, Luật Thương mại (năm 2005)


163


×