Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Giáo trình Văn hóa Đông Nam Á (Nghề: Hướng dẫn du lịch - Cao đẳng): Phần 1 - Trường Cao đẳng Bách khoa Nam Sài Gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 109 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG CAO ĐẲNG BÁCH KHOA NAM SÀI GỊN

GIÁO TRÌNH
MƠN HỌC/MƠ ĐUN: VĂN HĨA ĐƠNG NAM Á
NGÀNH/NGHỀ: HƯỚNG DẪN DU LỊCH
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG

Ban hành kèm theo Quyết định số:
/QĐ-... ngày ………tháng.... năm……
...........……… của …………………………………..

TP. HCM, năm 2021


TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình và được lưu hành nội bộ tại khoa
Du lịch Khách sạn - trường Cao đẳng Bách khoa Nam Sài Gịn nên các nguồn
thơng tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho mục đích đào
tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.

i


LỜI GIỚI THIỆU
Giáo trình Văn hóa Đơng Nam Á được biên soạn để đáp ứng nhu
cầu về tài liệu giảng dạy và học tập cho sinh viên chuyên ngành Hướng dẫn
Du lịch trình độ Cao đẳng của khoa Du Lịch-Khách Sạn trường Cao đẳng
Bách khoa Nam Sài Gịn.


Giáo trình Văn hóa Đơng Nam Á được biên soạn dựa theo đề cương
chi tiết học phần Văn hóa Đơng Nam Á và tham khảo các tài liệu, giáo trình
chính của các tác giả như:
1. Mai Ngọc Chừ, Văn hóa & ngơn ngữ Phương Đông, Hà Nội,
NXB Phương Đông, 2009.
2. Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Đơng Nam Á, Hà Nội, NXB Khoa học
Xã hội, 2003. .
3. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Hà Nội, NXB Giáo
dục, 1999.
4. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Hà Nội,
NXB Giáo dục, 2003
Giáo trình Văn hóa Đơng Nam Á là mơn học bổ trợ kiến thức trong
chương trình đào tạo ngành Hướng dẫn Du lịch trình độ Cao đẳng của khoa
Du Lịch-Khách Sạn trường Cao đẳng Bách khoa Nam Sài Gịn.
Nội dung của giáo trình bao gồm 03 bài:
Bài 1: Những vấn đề chung về các nước Đông Nam Á
Bài 2: Văn hóa Đơng Nam Á thống nhất trong đa dạng
Bài 3: Các quốc gia ở Đông Nam Á
Trong quá trình biên soạn, tơi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và
các phòng, ban trong nhà trường đã tạo điều kiện cho tơi thực hiện viết giáo
trình này. Đồng thời cho tôi gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô trong khoa,
ii


đồng nghiệp trong trường đã đóng góp ý kiến xây dựng, giúp tơi hồn thiện giáo
trình. Tuy nhiên thực tiễn các hoạt động về văn hóa lại diễn ra rất phong phú và
đa dạng. Do đó, chắc chắn khơng tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tơi rất
mong tiếp tục nhận được sự đóng góp ý kiến của quý đồng nghiệp và toàn thể
người đọc để tài liệu được hoàn thiện hơn.
Trân trọng!

Tp.HCM, ngày 1 thánh 7 năm 2021
Tham gia biên soạn
1. Chủ biên: ThS Nguyễn Thị Hồng Nhâm

iii


MỤC LỤC
1. Lời giới thiệu .................................................................................................... ii
2. BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á ..........1
1.Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ .....................................................................1
2. Cư dân ............................................................................................................3
3. Tơn giáo, tín ngưỡng ......................................................................................9
3. BÀI 2: VĂN HĨA ĐƠNG NAM Á THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG ..27
1. Con người - chủ thể văn hóa ........................................................................27
2. Địa lý cảnh quan ..........................................................................................28
3. Lịch sử..........................................................................................................31
4. Tiếp thu văn hóa, văn minh thế giới ............................................................41
5. Phân loại văn hóa (các thành tố văn hóa đơng nam á) .................................45
6. Tham gia khối asean ....................................................................................99
4. BÀI 3: CÁC QUỐC GIA Ở ĐÔNG NAM Á ...............................................103
1. Indonesia và Đông Timo ............................................................................103
2. Malaysia .....................................................................................................119
3.Thai land .....................................................................................................130
4. Singapore. ..................................................................................................139
5. Philipines. ...................................................................................................149
6. Campuchia - Lào – Việt Nam (CLV) ........................................................161
7. Myanmar ....................................................................................................216
8. Brunei .........................................................................................................228
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................237


iv


GIÁO TRÌNH MƠN HỌC VĂN HĨA ĐƠNG NAM Á
Tên mơn học: Văn hóa Đơng Nam Á
Mã số mơn học : MH10
Thời gian mônhọc : 45 giờ; ( Lý thuyết: 43 giờ, Thực hành, thí nghiệm, bài tập,
thảo luận : 0 giờ, Kiểm tra: 2 giờ)
I.VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA MƠN HỌC:
- Vị trí: Là mơn học trong phần mơ đun cơ sở, nó bổ trợ kiến thức trong khung
chương trình đào tạo hệ Cao đẳng nghề Hướng dẫn Du lịch
- Tính chất: Là mơn học kết hợp giữa lý thuyết và thực hành thảo luận, kết thúc
bằng việc thi kết thúc mơn học.
II. MỤC TIÊU MƠN HỌC: (Kiến thức, kỹ năng, năng lực tự chủ và trách
nhiệm)
1. Về kiến thức:
- Biết được vị trí địa lý, đặc điểm cư dân, thể chế chính trị, đặc điểm về tộc
người của các nước Đơng Nam Á.
- Trình bày được các đặc trưng văn hóa của các nước Đơng Nam Á thơng
qua trang phục, lễ hội, phong tục tập quán, kiến trúc, các biểu tượng của
dân tộc và đất nước của các quốc gia ASEAN.
- Hiểu được tính đa dạng thống nhất về văn hóa trong cộng đồng các quốc
gia ASEAN.
2. Về kỹ năng:
- Phân biệt được các dân tộc, quốc gia trong khối ASEAN thông qua các đặc
trưng cơ bản như : trang phục, lễ hội, phong tục tập quán, kiến trúc, quốc
kỳ, quốc huy...
- Vận dụng các kiến thức về văn hóa ASEAN vào nội dung hướng dẫn du
lịch, nhất là các tour du lịch outboard có liên quan tới thị trường du lịch

v


ASEAN.
3. Về năng lực tự chủ và trách nhiệm:
- Trân trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là thống nhất trong
da dạng văn hóa trong cộng đồng ASEAN.
- Tôn trọng sự khác biệt và đa dạng văn hóa của các dân tộc, các quốc gia
Đơng Nam Á.
III. NỘI DUNG MÔN HỌC

vi


BÀI 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
Giới thiệu:
Bài học này cung cấp các kiến thức khái quát về vị trí điạ lý của ĐNÁ
trên bản đồ thế giới, đặc điểm về lãnh thổ, cư dân, tín ngưỡng, tôn giáo của khu
vực ĐNÁ
Mục tiêu:
- Người học nắm được vị trí điạ lý của khu vực Đơng Nam Á trên bản đồ
thế giới.
- Trình bày được đặc điểm về lãnh thổ, cư dân, tín ngưỡng, tơn giáo của
khu vực Đơng Nam Á
Nội dung chính:
1.

Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ
Khu vực Đông Nam Á từ xưa, trong các sách cổ của Ấn Độ đã được nói


đến với những cái tên như Đất vàng, Đảo vàng, người Trung Hoa thì gọi là Nam
Phương, tương tự người Nhật Bản củng dùng từ Nan Yo để chỉ Đông Nam Á,
người Ả Rập gọi là Zabag, còn người Hy Lạp, La mã từ giữa thế kỷ II TCN
cũng gọi là Chryse (đất vàng).
Như vậy là từ xa xưa, thế giới đã biết đến khu vực văn hóa Đơng Nam Á.
Sở dĩ như vậy là vì tầm quan trọng về mặt vị trí địa lý của khu vực Đơng Nam
Á, vốn đã được chú ý đến từ rất lâu. Đông Nam Á thường được gọi là “ngã tư
đường”, “hành lang” hay “cầu nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và Địa
Trung Hải.
Tuy vậy, từ trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ
rệt và đầy đủ như một khu vực địa lí – lịch sử – văn hóa – chính trị riêng biệt.
Bởi nó đã bị lu mờ giữa hai nền văn minh phát triển rất rực rở là văn minh
Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Nhưng kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II
đến nay, khu vực văn hóa Đơng Nam Á ngày càng được công nhận rộng rãi

Page 1


trong khoa học.[GS-TS. Mai Ngọc Chừ, Văn hóa & ngơn ngữ phương đông,
2009, trang 105-107]
Trên bản đồ thế giới, Đông Nam Á nằm trong phạm vi từ khoảng 920 đến
1400 kinh đơng và khoảng 280 vĩ bắc chạy qua xích đạo đến khoảng 150 vĩ nam.
Tổng diện tích của Đơng Nam Á khoảng trên 4 triệu km2
Khu vực Đông Nam Á nằm ở phía đơng nam châu Á, nơi tiếp giáp giữa
Thái Bình Dương và Ân Độ Dương, có vị trí cầu nối giữa lục địa Á - Âu với lục
địa Ơ-xtrây-li-a. Đơng Nam Á bao gồm một hệ thống các bán đảo, đảo và quần
đảo đan xen giữa các biển và vịnh biển rất phức tạp. Đông Nam Á có vị trí địa chính trị quan trọng, đây là nơi giao thoa giữa các nền văn hóa lớn và cũng là
nơi các cường quốc thường cạnh tranh ảnh hưởng. Nó “nằm trọn” giữa hai đại
dương lớn: Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Eo malacca, có vị trí như kênh

đào Su-ê, nối biển Đông với biển Andaman thuộc Ấn Độ Dương, trở thành cửa
ngõ trên tuyến đường hàng hải quốc tế, nối liền Đông Á (Trung Quốc, Nhật
Bản, Triều Tiên) với Tây Âu và châu Phi. Đông Nam Á nằm gần hai quốc gia
lớn nhất Phương Đông: Trung Quốc và Ấn Độ. Qua đường biển, các nước Đông
Nam Á còn nằm gần siêu cường quốc kinh tế Nhật Bản. “Chỗ đứng” như vậy
làm cho Đông Nam Á từ xa xưa đã trở thành một khu vực quan trọng, có ý
nghĩa chiến lược cả về kinh tế lẫn quân sự. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều
người đã coi Đông Nam Á như là một “hành lang” hay một “chiếc cầu nối Đơng
- Tây”.
Xét về mặt địa lí- hành chính, Đơng Nam Á bao gồm 11 quốc gia: Việt
Nam, Lào, Campuchia, Singapo, Thái Lan, Mianma, Malaysia, Indonexia,
Philippin, Brunay, Đông timo. Trong đó có 6 nước nằm trên quần đảo Mã Lai
và 5 nước nằm trên bán đảo Trung Ấn. Phạm vi lãnh thổ bao gồm 2 phần là:
- Đông Nam Á lục địa: Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma, Thái Lan
- Đông Nam Á hải đảo: Indonexia, Malaysia, Singapo, Philippin, Brunây
và Đôngkimo.

Page 2


Hình 1: Lược đồ các nước Đơng Nam Á
Nguồn: />
2. Cư dân
2.1. Đơi nét về sự hình thành các dân tộc Đơng Nam Á
Châu Á, Đơng Á nói chung và Đơng Nam Á nói riêng, có vị trí quan
trọng trên bản đồ nhân chủng học thế giới. Đây là địa bàn phân bố của đại
chủng Môngôlôit với các tiểu chủng: Bắc Á, Đại Dương, Viễn Đơng, Nam Á và
một số nhóm trung gian. Theo một cách phân loại khác, châu Á có hai tiểu
Page 3



chủng là Bắc Môngôlôit (hay Lục địa) và Nam Môngôlôit, với nhiều nhóm loại
hình. Những nghiên cứu của Đơng Nam Á học cho biết, loại hình nhân chủng
chủ yếu ở Đông Nam Á và bán đảo Đông Dương là loại hình Nam Á và
Anhđơnêdiêng, có nguồn gốc từ tiểu chủng Môngôlôit phương Nam. Các dân
tộc ở Việt Nam đều nằm trong hai nhóm loại hình này của Đơng Nam Á.
Hiện nay, các nước Đông Nam Á đều là những quốc gia đa thành phần
dân tộc, trong đó ở mỗi nước thường có một thành phần dân tộc chiếm chủ thể
về số lượng cư dân và trình độ phát triển xã hội. Ngồi ra, cịn có nhiều thành
phần tộc người khác vốn bản địa của khu vực có từ lâu đời với số lượng thay
đổi từng nơi.
Phần lớn các nghiên cứu đều khẳng định Việt Nam là một Đông Nam Á
thu nhỏ, cả về chủng tộc, ngữ hệ và bức tranh văn hóa tộc người. Lịch sử, văn
hóa các dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với nguồn gốc
lịch sử, văn hóa các tộc người ở Đơng Nam Á.
Một trong những bằng chứng nổi bật nhất chứng minh các dân tộc Đơng
Nam Á, trong đó có Việt Nam, có chung một nguồn gốc, là việc các nhà khảo
cổ học đã phát hiện ra rất nhiều điểm tương đồng về một nền văn hóa rất phát
triển gọi là Văn hóa Hịa Bình ở rải rác các nơi ở Đông Nam Á như Việt Nam,
Thái Lan,... Những phát hiện mới nêu trên đã làm thay đổi cách suy nghĩ của
các nhà khảo cổ học về sự tiến triển của các nền văn minh trên trái đất. Thành
tựu này cũng làm thay đổi suy nghĩ về nguồn gốc tộc người và văn hóa của khu
vực Đơng Nam Á nói chung, của Việt Nam nói riêng. Có những giả thuyết cho
rằng có thể người Việt Nam có nguồn gốc bản địa, hoặc người Việt Nam có
nguồn gốc từ Trung Hoa. Nhưng phần lớn các nghiên cứu đều khẳng định, Việt
Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ, cả về chủng tộc, ngơn ngữ và văn hóa.
Hiện nay, Đơng Nam Á là khu vực có dân số đơng, mật độ cao. Tỉ suất
gia tăng tự nhiên còn cao nhưng đang suy giảm. Dân số trẻ, nguồn lao động tuy
dồi dào nhưng trình độ cịn hạn chế. Chính vì vậy ảnh hưởng tới vấn đề việc
làm và nâng cao chất lượng cuộc sống. Bên cạnh đó, Phân bố dân cư khơng

đều: tập trung đông ở đồng bằng, ven biển, vùng đất đỏ.
Page 4


Từ nhóm nhân chủng Mơngơlơit phương Nam (tiểu chủng Đơng Nam Á)
có thể chia ra 4 nhóm nhỏ như sau:
2.1.1.Nhóm Anhđơnêdiên
Bắt đầu là có một dịng người thuộc chủng Mơngơlơit từ vùng lục địa
châu Á (Tây Tạng) di cư về hướng đông nam và dừng lại ở khu vực mà nay gọi
là bán đảo Trung - Ấn. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân
Mêlanêdiên bản địa (thuộc đại chủng Ơxtralơit), tạo chủng Anhđơnêdiên (cịn
gọi là Mã Lai cổ). Từ đây lan tỏa ra, người Anhđơnêdiên cư trú trên tồn bộ địa
bàn Đơng Nam Á cổ đại.
Người Anhđơnêdiên là cư dân cổ có mặt ở hầu khắp các nơi trong khu vực
Đông Nam Á, gồm những tộc ít người sinh sống chủ yếu là sâu trong các hải
đảo như như người Batắc ở Xumatơra; người Đaiắc, Kênya, Kayan, Punan ở
Calimantan; Alphuru ở Xulavêxi thuộc Inđônêxia; nhóm Bontok, Nabaloi,
Iphugao, Kankanai, Pagobo, Ghianga thuộc Philippin. Cịn ở các miền rừng núi,
người Anhđơnêdiên có mặt khắp trên bán đảo Đông Dương: các tộc người ở
Tây Nguyên, ở dãy Trường Sơn (Việt Nam): Bru - Vân Kiều, Xơ Đăng, Ba Na,
Gia Rai, M’nông, Khơ Mú; tập trung chủ yếu ở Lào: Thượng Lào (Khơ Mú),
Hạ Lào (Hin, Bôlôven) và miền Trung Lào ít hơn; ngồi ra cịn ở Cămpuchia và
Thái Lan.
2.1.2.Nhóm Nam Á
Nhóm Nam Á là kết quả của sự hợp chủng giữa hai chủng Anhđônêdiên
với chủng Môngôlôit, với các nét đặc trưng Mơngơlơit lại càng nổi trội, vì vậy,
nó được coi là tiểu chủng Mơngơlơit phương Nam, và về sau, Bách Việt đã
được sinh ra từ chủng này.
Nhóm Nam Á gồm đại bộ phận người Đông Nam Á, với các nhóm đại
diện chủ yếu là Tày, Thái, Việt (Kinh), Lào, Mianma, Mã Lai, Khơ Me… ở bán

đảo Trung - Ấn; Visaya, Tagan, Giava, Sunđa, Mađura… ở quần đảo Mã Lai
2.1.3. Nhóm Vêđơit
Page 5


Theo một giả thuyết, từ hai chủng Nam Á và Anhđơnêdiên đã có một tác
động nhất định đến loại hình nhân chủng khác ở Đông Nam Á là Vêđôit, phần
lớn là Anhđônêdiên. Trong một giai đoạn lịch sử khá dài, nhóm loại hình nhân
chủng Vêđơit và Anhđơnêdiên đã là thành phần chủ thể của cả khu vực Đông
Nam Á với tỷ trọng có thể khác nhau giữa phần lục địa (chủ yếu Anhđônêdiên)
và phần hải đảo (ở thời kỳ đầu chủ yếu Vêđơit). Tiếp đến, đó là sự tác động
mạnh mẽ của dòng người Nam Á, điều này, càng làm cho bức tranh nhân gian
các nhóm nhân chủng Đơng Nam Á đang biến đổi lại càng thêm thấm đượm sắc
thái mới.
Nhóm Vêđơit cư trú khá phổ biến trong cư dân bản địa ở Inđơnêxia và
một số ít hơn ở phía nam bán đảo Trung - Ấn với độ biến dị khá rộng rãi trên
đặc điểm hình thái, như người Tokea, Toala, Loinanga ở Xulavêxi; người
Manga, Kayan ở Calimantan; Orang Batin ở Xumatơra; người Xênơi ở Malacca
.
2.1.4. Nhóm Nêgritơ
Nhóm loại hình nhân chủng Nêgritơ được coi là một loại hình của chủng
Mêlanêdiên (thuộc đại chủng Ơxtralơit), và phát sinh khơng sớm hơn loại hình
nhân
Nhóm Nêgritơ phân bổ nhiều nơi ở Đơng Nam Á, điển hình như người
Tapiro ở sườn nam các dãy núi ở trung tâm Tân Ghinê, hoặc ở Philippin,
Malaixia, đảo Irian của Inđônêxia và cực nam bán đảo Trung - Ấn, ở các cụm
đảo Anđaman, Nicobar.
Như vậy, qua một q trình lịch sử lâu dài, từ tiểu chủng Đơng Nam Á đã
tiếp tục phân hóa thành những tộc người khác nhau. Vì vậy, khi xem xét về
Đơng Nam Á ở góc độ dân tộc học, ta dễ dàng nhận thấy tính đa dạng và phong

phú trong các thành phần tộc người và sự phân bố dân cư nơi đây, thể hiện ở
mỗi quốc gia có thể có hàng chục, hàng trăm dân tộc khác nhau.
Chính bức tranh phong phú về các tộc người ở Đông Nam Á, xét cho
cùng, đều có nguồn gốc chung xuất phát từ chủng người Môngôlôit phương
Page 6


Nam, do đó, đã tạo nên điểm tương đồng trong khu vực - một sự “thống nhất
trong đa dạng” về con người và văn hóa Đơng Nam Á [Mai Ngọc Chừ, 2009].
2.2. Ngôn ngữ
Mặc dù, ngày nay, bức tranh ngôn ngữ Đông Nam Á rất đa dạng nhưng
theo các nhà ngơn ngữ học, trước đây chúng đều có một gốc chung, tạm thời gọi
là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử [Phạm Đức Dương, 1983]. Từ ngôn ngữ gốc
chung này, trong q trình phát triển lịch sử, nó được phân thành các ngữ hệ
khác nhau và phát triển theo hướng khác nhau, có thể chia ngơn ngữ Đơng Nam
Á thành 4 ngữ hệ chính
2.2.1. Ngữ hệ Nam Đảo
Ngữ hệ Nam Đảo (Mã Lai - Đa Đảo), được phân bố khá rộng, chủ yếu là
các đảo, trải từ Đông Nam Á đến tận châu Úc và các đảo nam Thái Bình Dương
về phía đơng và hịn đảo ở đơng nam châu Phi về phía tây. Thuộc ngữ hệ này
gồm khoảng 200 tiếng nói cụ thể, bao gồm phần lớn cư dân Inđơnêxia, Philippin
và Malaixia, trong đó có ngơn ngữ Melayu (các quốc gia Brunây, Malaixia,
Inđônêxia, Xingapo), ngôn ngữ Tagalog (ở Philippin), các ngôn ngữ Gia Rai, Ê
Đê, Chăm, Ra Glai, Chu Ru (ở vùng biên giới Việt Nam), một số tộc người ở
phía nam Thái Lan, Cămpuchia.
Những quốc gia sử dụng ngữ hệ Nam Đảo làm tiếng nói chính thức:
Inđơnêxia, Malaixia, Philippin và Xingapo.
2.2.2. Ngữ hệ Nam Á
Ngữ hệ Nam Á được phân bố chủ yếu ở các quốc gia Đông Nam Á lục
địa, có thể chia thành 4 nhóm sau:

2.2.2.1. Nhóm ngơn ngữ Mơn - Khơ Me
Ngữ hệ Mơn - Khơ Me có hơn 100 ngơn ngữ, chia thành hai nhóm: Mơn Khơ Me Bắc và Mơn - Khơ Me Đơng.
Mơn - Khơ Me Bắc gồm có các tiếng nói chủ yếu: Bắc Thái Lan, Bắc
Lào, Đông Mianma.
Page 7


Môn - Khơ Me Đông gồm các ngôn ngữ tập trung: Cămpuchia, miền
Trung Việt Nam, Trung Lào, Bắc Thái.
Các ngôn ngữ của những tộc người Môn - Khơ Me ở Việt Nam sống rải
rác ở vùng Tây Nguyên, Trường Sơn và Tây Bắc, gồm: Ba Na, Xơ Đăng, Cơ
Ho, H’rê, M’nông, Stiêng, Bru - Vân Kiều, Ka Tu, Khơ Mú, Tà Ôi, Mạ, Gié
Triêng, Chơ Ro, Mảng, Kháng, Rơ Năm, Ơ Đu và Brâu.
2.2.2.2. Nhóm ngơn ngữ H’mơng - Dao
Nhóm ngơn ngữ H’mơng - Dao được phân bố ở phía Bắc của Việt Nam,
Lào và Thái Lan, cịn Mianma thì ở gần biên giới Trung Quốc. Nhóm ngơn ngữ
H’mơng - Dao, bao gồm các ngôn ngữ: H’mông (Mèo, Miao, Mông), Dao
(Man, Yao), Pàthẻn, Sơ, Klao.
2.2.2.3. Nhóm ngơn ngữ Việt - Mường
Nhóm ngơn ngữ Việt - Mường gồm bốn ngơn ngữ: Việt (Kinh), Mường,
Thổ, Chứt. Nhóm ngơn ngữ này chỉ có ở Việt Nam và một số nước Đơng Nam
Á có người Việt sinh sống.
2.2.2.4. Nhóm ngơn ngữ Nam Á khác
Có người gọi đây là nhóm hỗn hợp hay Kađai (cái gạch nối giữa ngôn ngữ
Tày - Thái cổ và Mã Lai - Đa Đảo, theo Paul K. Benedict), đó là các ngơn ngữ
La Chí, La Ha, Klao, Pupéo ở Việt Nam.
2.2.3. Ngữ hệ Thái
Các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Thái được phân bố ở Thái Lan, Lào, miền núi
phía bắc Việt Nam và đơng bắc Mianma. Thuộc họ này có các ngôn ngữ: Thái,
Lào, Tày Nùng, Sán Chay, Giáy, Bố y, Lự, La Ha.

2.2.4. Ngữ hệ Hán Tạng
Ngữ hệ Hán Tạng được phân thành hai nhóm:
2.2.4.1. Nhóm ngơn ngữ Hán
Tiếng Hán được phân bố ở nhiều nước Đông Nam Á như Singapo,
Page 8


Malaysia, Inđônêxia, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Philippin.
Thuộc nhóm ngơn ngữ Hán, ngồi tiếng Hán cịn có Sán Dìu, Ngái…
2.2.4.2. Nhóm ngơn ngữ Tạng - Miến
Nhóm ngơn ngữ Tạng - Miến được phân bố ở Mianma, miền núi phía tây
Thái Lan, bắc Lào và một số ít tây bắc Việt Nam.
Các ngôn ngữ thuộc họ Tạng - Miến ở Đông Nam Á là Miến, Kachin,
Karen, Kaya, Lôlô, Chin (ở Mianma), Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Si La (ở Việt
Nam), Lisu, Akha (ở Thái Lan), Kọ, Phunọi (ở Lào).
Ngồi bốn họ ngơn ngữ chính nêu trên, ở một số khu vực Đơng Nam Á
cịn có một vài ngơn ngữ thuộc các ngữ hệ khác theo dòng người nước ngồi
đến Đơng Nam Á như tiếng Tamin (thuộc Đraviđa) của người Ấn Độ ở
Malaixia, Inđônêxia; tiếng Aryen (thuộc Ấn - Âu) của một số người Ấn Độ và
Pakixtan ở Mianma.
Những đặc điểm về hệ ngôn ngữ cũng như sự phân bố tộc người trên lãnh
thổ Đông Nam Á cho thấy một sự thật là: không phải giữa các quốc gia Đông
Nam Á từ trước đến nay không tồn tại một mối quan hệ nào, và nếu chúng ta
biết khai thác những mối quan hệ, liên hệ ẩn náu trong quá khứ ấy thì sự hợp tác
khu vực khơng thể khơng
Theo Mai Ngọc Chừ: “Sự đa dạng không hề thủ tiêu tính thống nhất của
chúng. Nếu như nói rằng văn hóa Đơng Nam Á là sự thống nhất trong đa dạng
thì nhận định đó cũng hồn tồn chính xác đối với ngơn ngữ - một nhân tố quan
trọng của văn hóa và các ngôn ngữ Đông Nam Á là bức tranh đa dạng trong sự
thống nhất cao độ từ trong cội nguồn của chúng” [Mai Ngọc Chừ, 1999: 112].

3. Tôn giáo, tín ngưỡng
Với quan niệm vạn vật hữu linh, thực hành tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên
và các nghi lễ nơng nghiệp…Đơng Nam Á truyền thống đã có một nền tảng hết
sức đa dạng. Các thời kỳ tiếp theo, các tôn giáo, tín ngưỡng từ Ấn Độ, Trung
Hoa, Ả Rập, Âu, Mỹ…bành trướng tới, cấy lên trên nền tảng các tín ngưỡng
bản địa làm cho bức tranh tín ngưỡng, tơn giáo ở Đông Nam Á vốn đã đa dạng
Page 9


càng đa dạng hơn. Ngày nay, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của các cộng đồng
dân cư trong khu vực nổi bật với các yếu tố sau đây.
3.1. Tín ngưỡng
3.1.1. Tín ngưỡng bản địa
Ngày nay, tín ngưỡng bản địa dựa trên tín ngưỡng vạn vật hữu linh vẫn
phổ biến ở Đơng Nam Á. Được hình thành từ rất sớm, mặc dù trong mỗi cộng
đồng dân tộc có q trình hình thành và tồn tại của những tín ngưỡng khác
nhau. Tuy nhiên, do cùng sinh ra và lớn lên trong khu vực có chung một cơ tầng
văn hóa nơng nghiệp lúa nước, cho nên, cư dân Đơng Nam Á đều có chung một
yếu tố tín ngưỡng bản địa như nhau, chẳng hạn, tín ngưỡng sùng bái tự nhiện,
tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái linh hồn người đã mất… Cái chung
nhất của tất cả các tín ngưỡng này, theo như nhiều nhà nghiên cứu khẳng định,
là xuất phát từ học thuyết vạn vật hữu linh, nghĩa là mọi vật đều có linh hồn.
Linh hồn biết tất cả những gì mà con người đang làm và linh hồn có thể giúp đỡ
mọi việc ở mọi lúc, mọi nơi, nhất là những lúc con người ở vào tình thể nguy
nan. Vì vậy, thờ cúng các linh hồn được coi là bổn phận của con người.
3.1.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Cuộc sống hàng ngày của con người nói chung và đặc biệt là việc sản xuất
nơng nghiệp nói riêng phụ thuộc vào rất nhiều các điều kiện tự nhiên, do đó
sùng bái tự nhiên là điều tất yếu đối với tất cả cư dân Đông Nam Á. Từ lâu,
người Đông Nam Á đã có niềm tin vào sức mạnh của thế giới tự nhiên, do vậy,

đối tượng sùng bái của con người là những sự vật, hiện tượng tự nhiên gắn với
cuộc sống lao động sản xuất. Không phải bây giờ, con người hiện đại mới phát
hiện ra tầm quan trọng của năng lượng mặt trời đối với cuộc sống nhân loại, mà
ngay từ thời xa xưa, cư dân Đông Nam Á đã cảm nhận được điều đó, vì vậy, ở
tất cả các quốc gia Đơng Nam Á đều có tục thờ thần Mặt trời. Dấu tích của việc
thờ thần Mặt trời là thể hiện trên rất nhiều đồ vật: đồ trang sức, đồ thờ cúng, đặc
biệt là khắc hình mặt trời lên các trống đồng, thạp đồng cũng như trên các cơng
trình điêu khắc cổ xưa ở Đơng Nam Á [Mai Ngọc Chừ, Văn hóa & ngơn ngữ
Page 10


Phương Đông, 2009, tr 195-199].
Gắn liền trực tiếp với công việc đồng áng của cư dân nông nghiệp Đông
Nam Á là đất và nước. Chính vì thế, hai vị thần này được coi là tối cao và được
thờ cúng ở mọi nơi. Người ta thờ cúng thần Đất và thần Nước, để cầu mong hai
thần ban phát nước, mưa thuận gió hịa, khơng lũ lụt hay hạn hán, đồng ruộng
và cỏ cây được tươi tốt, được mùa. Ở Thái Lan có lễ tạ ơn Mẹ Nước vào buổi
tối trăng trịn tháng 10 âm lịch hàng năm. Ở Campuchia và Lào đều có Hội
nước. Ngay ở một số xã thuộc Hà Nội hiện vẫn cịn lễ hội rước nước linh đình.
Việc thờ cúng thần Đất vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay với nhiều hình
thức khác nhau như Lễ động thổ, tục thờ Địa Mẫu, v.v….
Ở các quốc gia Inđônêxia, Mianma, Lào, Cămpuchia… đồng thời với
việc thờ thần Nước và thần Đất, người ta còn thờ cả vị thần Sơng - thần giữ vai
trị chính trong việc cung cấp nước cho đồng ruộng. Ngoài ra, các hiện tượng
như mây, mưa, sấm, chớp cũng đóng một vai trị đáng kể trong đời sống của cư
dân nông nghiệp Đông Nam Á, do vậy, các vị thần như thần Mưa, thần Mây,
thần Sấm, thần Chớp, thần Gió cũng được tơn thờ ở mọi nơi, từ vùng lục địa,
rừng núi của Mianma, Lào… đến các vùng hải đảo như Inđônêxia, Malaixia,
Philippin… Không chỉ quan tâm đến việc thờ cúng, liên quan đến việc đồng áng
mà cư dân bản địa Đơng Nam Á cịn thờ cả những vị thần có vai trị quyết định

đến cuộc sống của cư dân miền rừng núi như thần Núi, thần Rừng, thần Đá,
thần Lửa, thần Suối.
Ngoài ra, các dân tộc ở Đơng Nam Á cịn thờ các vật khác có liên quan và
ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ, tạo nên nét đa dạng trong tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên. Ở nhiều dân tộc Philippin, các “đối tượng” thờ cúng
còn nhiều hơn nữa, người ta còn thờ cả mặt trăng, các ngôi sao, cầu vồng. Mỗi
khi có các hiện tượng tự nhiên bất thường diễn ra như mưa to, gió lớn, động đất,
lốc cuốn, cư dân địa phương tiến hành các nghi lễ cầu khấn, dâng lễ vật. Người
ta còn quan niệm mỗi vị thần đảm nhiệm một công việc nhất định, chẳng hạn,
đối với người Bontok, thần Lamauiga bảo trợ cho cơng việc ngồi đồng; đối với
Page 11


các dân tộc ở Minđanao, thần Cabiga tạo ra cuộc sống; cịn thần
Đối với cư dân Đơng Nam Á đặc biệt quan tâm đến cây lúa vì đây là tất cả
cuộc sống của họ, chính vì thế, họ có một niềm tin mãnh liệt vào thần Lúa - coi
thần Lúa là vị thần thiêng liêng nhất. Họ còn quan điểm rằng, đây là vị thần
mang lại no ấm, đầy đủ và rất gần gũi với con người, được thể hiện trong những
truyền thuyết dân gian về cây lúa, hay việc thờ cúng thần Lúa trong các nghi lễ.
Người ta luôn luôn cầu khấn để hồn lúa ở lại với cây lúa, ở lại với xóm làng của
họ để cho mùa màng được bội thu, tươi tốt. Các lễ rước thần Lúa, cúng cơm
mới, lễ hội xuống đồng mừng trồng lúa (sẽ đề cập trong phần lễ hội) được các
thế hệ cư dân Đông Nam Á tổ chức rất long trọng, có thể nói, khơng có một
quốc gia nào ở Đơng Nam Á khơng có tục thờ thần Lúa. Trong con mắt của cư
dân Đơng Nam Á thì hồn lúa rất đẹp. Ở bắc Lào, một học giả Thuỵ Điển,
K.G.Izikowitz viết: Lúa có linh hồn, giống như con người… Nếu hồn lúa bỏ
đi… sẽ dẫn đến đói kém, nó là một vật rất nhẹ rất dễ lạc đi nơi khác… và hồn
chỉ dành cho con người và lúa mà thôi (Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Đơng Nam
Á, 2003). Với người Malaixia, cây lúa được đối xử tử tế vì nó ni sống con
người, hồn lúa được gọi một cách âu yếm là “chú bé chín tháng” hoặc “cơng

chúa pha lê”, “cơng chúa mặt trời” [Mai Ngọc Chừ, Văn hóa & ngơn ngữ
Phương Đơng, 2009, tr.197]. Thậm chí, người Malaixia cịn có tục cấm không
được gõ, đập, đá vào bồ lúa, kho lúa, nếu làm như vậy thì hồn lúa sợ bỏ đi và
mùa sau sẽ bị mất mùa. Còn ở Giava (Inđơnêxia) thì cây lúa được coi là hiện
thân của nữ thần Devi Sri, nên có nhiều điều cấm kỵ đối với đàn ông khi tiếp
xúc cây lúa, không được gần nữ thần Lúa, ngoại trừ làm công việc cày bừa,
chuẩn bị đất [Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Đơng Nam Á, 2003,]. Ở Thái Lan, thần
Lúa được rước vào các nhà kho và giữ “ngài” ở đó đến tận mùa sau.
Xung quanh tín ngưỡng về hồn lúa, có nhiều truyền thuyết rất hay ở Đơng
Nam Á. Xin đơn cử hai ví dụ :
Truyện thứ nhất được lưu truyền ở bán đảo Maxlai. Truyền thuyết kể
rằng: Ngày xưa, những người nông dân khơng phải gặt lúa ở ngồi đồng. Hàng
Page 12


ngày, vào buổi sáng, một hạt lúa tự lăn vào nhà, chui vào nồi và người ta chỉ
việc nấu thành cơm.
Theo ngun tắc, người chồng khơng được nấu cơm (vì lúa gạo là con gái,
cấm kị với đàn ông). Việc nấu cơm chỉ dành cho vợ, mẹ hoặc con gái. Khi nấu
cơm không được mở vung. Mở vung là điều cấm kị. Cứ để ngun thì đến trưa
cơm sẽ chín.
Một hôm, người mẹ phải đi làm, dặn con ở nhà khơng được mở vung. Khi
mẹ đi rồi, cơ bé tị mò mở vung ra xem. Thật kỳ lạ, trong nồi có một cơ bé xinh
đẹp, tự nhiên biến mất, để lại một hạt gạo nhỏ. Khi mẹ về, thấy trong nồi khơng
có cơm, biết là con gái đã phạm vào điều cấm kỵ.
Từ ngày hơm đó, tất cả mọi người phải làm những công việc đồng áng vất
vả, nặng nhọc: cày cấy, gặt hái, đập lúa, phơi thóc, quạt sạch và mang vào nhà.
Truyện thứ hai của người Khmer kể rằng: Ngày xưa, khi lúa chín, thóc tự
bay về kho. Người dân khơng phải mất cơng gặt hái.
Một hơm, có hai vợ chồng nhà nọ, sống cạnh kho thóc, cãi nhau, gây ra

tiếng ồn ào khó chịu, làm phiền thần lúa. Thần lúa bỏ đi ẩn náu ở khe núi. Thế
là nạn đói xảy ra ở vùng đó. Người ta tìm mọi cách tìm thần lúa về nhưng đều bị
thần từ chối. Cuối cùng, một người có tín nhiệm (có lẽ là thầy cúng) được cử
đến mời mọc mãi, Thần mới chịu trở về. Nhưng từ đó trở đi, thóc không tự bay
về kho như trước nữa mà người dân phải mất cơng gặt hái để mang thóc lúa về
nhà. [Mai Ngọc Chừ, Văn hóa & ngơn ngữ Phương Đơng, 2009, tr.197-198].
Ở Việt Nam, khi nói về tín ngưỡng hồn lúa của người Ê Đê thì họ quan
điểm: cột trụ của cuộc sống ở Đắc Lắc là một thứ lúa tuyệt vời… Lúa là thức ăn
chủ yếu. Lúa do thần linh ban cho, lúa là thần linh. Còn người Khơ Me xem Mẹ
lúa là một người đàn bà cưỡi trên mình cá, tay cầm bơng lúa. Người Mảng, Khơ
Mú hình dung Mẹ lúa là cô gái trong trắng xinh đẹp, trú ngụ trên vạt nương.
Nhiều dân tộc miền núi có tập quán thờ ông bà lúa, dân tộc Cơ Tu ở Trường
Sơn, Thừa Thiên dành chỗ đẹp nhất trong bếp và làm cây Tơru để thờ lúa. Còn
đối với một số dân tộc ở Tây Nguyên, khi phát nương làm rẫy, họ cũng tuân thủ
Page 13


những điều cấm kỵ, già làng làm lễ cúng Yàng rồi mới chỉ nương cho dân làng
phát. Nếu thấy hiện tượng dây leo khơng bình thường là điềm ơng lúa bà lúa
khơng cho ăn, thì tìm nương khác [Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Đơng Nam Á,
2003]. Cịn đối với dân tộc Dao, quan niệm, mỗi bông lúa và mỗi hạt thóc đều
là sự sống và đều có hồn, ở trên nương, chúng được gần nhau, nhưng khi thu
hái hồn lúa có
Ngồi ra, cịn có một số quốc gia như Inđơnêxia, Việt Nam, Lào,
Cămpuchia, Mianma cịn có tục thờ một số con vật gắn liền với cuộc sống của
cư dân Đông Nam Á. Người dân ở miền đông Xumatơra, ngay cả khi đã theo
đạo Hồi mà vẫn còn thờ hổ và cá sấu và coi đó là những vị thần có vai trị khơng
nhỏ trong đời sống của họ. Ở các đền, chùa Việt Nam, Cămpuchia, Lào,
Mianma, người ta còn thờ cả hạc, rùa, rắn, voi… những con vật này có sức
mạnh hay được tôn xưng là biểu tượng của sự tinh khơn, cần cù. Trong đó, có

thể nói, con rồng là con vật tiêu biểu, đã trở thành biểu tượng đặc sắc của vùng
văn hóa Đơng Nam Á. Những con vật thiêng này thường được chạm khắc trên
đá, trên đồ đồng, trên gỗ và được thờ cúng trong các đền, miếu ở rất nhiều nơi
(Mai Ngọc Chừ, Văn hóa & ngơn ngữ Phương Đơng, 2009, tr.198].
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, coi những sự vật hiện tượng trong thiên
nhiên có sức mạnh linh thiêng ở cư dân Đông Nam Á, gắn liền với khát vọng
biến sức mạnh của tự nhiên thành những điều tốt đẹp, may mắn, hạnh phúc…
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên ở Đơng Nam Á cịn góp phần tạo nên lịng khoan
dung, ơn hịa, chia sẻ và gắn kết cộng đồng dân tộc, và sẵn sàng tiếp thu các giá
trị văn hóa, văn minh từ bên ngồi, bản địa hóa hoặc để tạo nên các giá trị văn
minh đa thanh, đa diện rất riêng ở Đông Nam Á.
Như vậy, ở Đơng Nam Á có những biểu tượng chung mà con người cùng
hướng tới như thờ thần Mặt trời, thần Đất, thần Nước, thần Lửa… trong đó,
thần Lúa là vị thần mà hầu hết các nước đều hướng tới. Ngồi ra, cịn có các vị
thần khác mà tùy thuộc vào từng dân tộc, từng quốc gia mà con người có cách
giải thích hợp lí, làm cho tín ngưỡng tự nhiên ở Đông Nam Á trở nên đa dạng,
Page 14


phong phú.
3.1.3. Tín ngường phồn thực
Tín ngưỡng phồn thực (phồn = nhiều, thực = nảy nở) là biểu hiện của
niềm mơ ước về sự sinh sôi nảy nở của con người, gia súc và mùa màng. Phồn
thực là một yêu cầu tối cần thiết để duy trì và phát triển lồi người.
Xuất phát từ cư dân nơng nghiệp trồng lúa nước, để duy trì cuộc sống, con
người nơng nghiệp Đơng Nam Á cần mùa màng tươi tốt và gia súc phát triển
bởi đó là nguồn thức ăn chính ni sống con người. Hơn nữa để duy trì nịi
giống và phát triển xã hội, bản thân con người cũng phải sinh sơi nảy nở. Chính
những u cầu khách quan trên, là tiền đề quan trọng để tín ngưỡng phồn thực
ra đời và phát triển ở khu vực Đơng Nam Á.

Tín ngưỡng phồn thực vốn rất đa dạng, thể hiện trong nhiều hình thức và
có thể thấy ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, từ Mianma, Thái Lan, Việt
Nam cho tới Inđơnêxia, Philippin… Ngay trong một quốc gia, tín ngưỡng này
cũng biểu hiện hoàn toàn khác nhau. Thật ra, tục cầu mưa, lễ cầu mẹ nước, tục
té nước, tục lấy nước thờ… của người Thái, người Lào và của một số dân tộc
Cămpuchia, Việt Nam, Mianma, Philippin… cũng là tín ngưỡng phồn thực, vì
mục đích là cầu xin nước cho mùa màng, cây cối phát triển tươi tốt. Thêm nữa,
tục vũ hội dưới trăng; múa khèn của người Li, người Dao, người H’mông,
người Bui; tục thi đánh trống cho đến khi thủng trống gẫy dùi (sau đó là cảnh
quan hệ tình dục đêm khuya tự do của cả người già lẫn người trẻ) của người
Thái, người Mường, người Việt; tục nhảy múa tập thể của người Khơ Me,
người Lào; tục đánh đu, tục hát đối nam nữ của nhiều dân tộc và hàng loạt
những hình thức cúng bái, tế lễ cầu trời khác của cư dân Đơng Nam Á… mục
đích cho mùa màng tươi tốt, vụ mùa bội thu, các giống cây trồng sinh sơi nảy
nở. Những hình thức đó phần nào nhằm phản ánh nghi thức phồn thực của cư
dân nông nghiệp Đông Nam Á (Mai Ngọc Chừ, Văn hóa & ngơn ngữ Phương
Đơng, 2009, tr.199].
Tuy nhiên, tục thờ sinh thực khí là cách thể hiện rõ nhất, đặc sắc nhất của
Page 15


tín ngưỡng phồn thực, xuất phát từ trong cơ tầng văn hóa ngun thủy Đơng
Nam Á (khơng chỉ có riêng ở khu vực Đông Nam Á). Điều này thể hiện rất rõ
trên các cơng trình điêu khắc của cư dân nguyên thủy, ở Việt Nam, người ta tìm
thấy ở thạp đồng Đào Thịnh, có một số cặp tượng nam và nữ, nam nằm úp ở
trên, nữ nằm ngửa ở phía dưới, cả hai đang giao hợp với nhau; hay người ta còn
thấy trên các tảng đá ở Sapa (Lào Cai) những bộ phận sinh dục phóng đại cũng
được khắc trên đó. Bên cạnh đó, tượng nam và nữ với các bộ phận sinh dục
được phóng to cịn được tìm thấy trong các nhà mồ Tây Nguyên. Ngoài ra,
trong nhiều địa phương ở Việt Nam cịn có tục thờ nõ nường, trong đó nõ

(tượng trưng cho sinh thực khí nam), nường (tượng trưng cho sinh thực khí nữ).
Một số nơi ở Đơng Nam Á, tục thờ sinh thực khí cịn tồn tại đến ngày hôm nay
như ở Thái Lan, người ta có tục nặn người bằng đất sét để cầu nguyện cho mùa
màng được tươi tốt, trong đó tượng là một cặp nam nữ ôm nhau, hoặc nằm hoặc
ngồi nhưng trong tư thế giao hợp. Hay có những lúc người ta mang hình âm vật
và con mèo cái ra để kích thích Bố Trời giao hợp với Mẹ Đất. Để kích thích Bố
Trời hưng phấn, người ta cịn có tục thăng thiên pháo. Trong dịp thăng thiên
pháo, nam nữ thanh niên tha hồ chọc ghẹo, tán tỉnh nhau, còn trẻ con đua nhau
nặn hình các dương vật đủ cỡ và cầm chúng múa hát và “bắn” vào các cô gái. Ở
Lào, cũng có tục đốt pháo thăng thiên, trong đêm đốt pháo, người ta cầm hình
dương vật, âm vật đi diễu hành, và mô phỏng động tác giao phối, biểu hiện ý
niệm tạo ra sự phồn thực cho mùa màng, hoa lá, gia súc và con người.[Mai
Ngọc Chừ, Văn hóa & ngôn ngữ Phương Đông, 2009, tr.200].
Từ khi tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, các dân tộc Đơng Nam Á tiếp thu tục
thờ cúng Linga (giới vật nam), Yoni (giới vật nữ) và được coi là thờ năng lực
sáng tạo, biểu tượng của thần Siva trong Ấn Độ giáo. Tục này đã có sự kết hợp
chặt chẽ, giao thoa với tín ngưỡng phồn thực bản địa và được phổ biến trong
nhiều thế kỷ ở các dân tộc Đông Nam Á: Inđơnêxia, Malaixia, Mianma, Thái
Lan, Cămpuchia… Việc thờ các hình sinh thực khí của người Chăm, người
Thái, người Mường và nhiều dân tộc khác ở Đông Nam Á rất gần với tục thờ
Linga Siva giáo. Song, người Chăm, hình tượng linga lại hết sức độc đáo: một
Page 16


dãy 7 Linga trên cùng một bộ, 1 Linga ngất ngưỡng trên Yoni làm bệ, Linga
mặt người, Linga có vỏ bọc. Tục thờ sinh thực khí cịn biểu hiện rõ nét ở một số
dân tộc ít người trong các tượng nhà mồ, trong các hang động ở các vùng núi,
hải đảo, thể hiện bằng các hình tượng bằng đất sét để nung, trong các lễ vật mà
những phụ nữ mang theo có hình giới vật nam được gọt đẽo bằng gỗ, bằng
xương thú.

Ngày nay, trong các di tích lịch sử - văn hóa ở một số quốc gia Đơng Nam
Á, người ta vẫn cịn thấy các sinh thực khí bằng đá, hoặc một số dân tộc vẫn cịn
trang trí trong các ngôi đền, bảo tàng, vườn hoa, cửa khách sạn… một số lễ hội
liên quan đến tín ngưỡng phồn thực vẫn được thể hiện khá sinh động.
3.1.4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (sùng bái người đã mất)
Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, cư dân Đông Nam Á cho rằng
mỗi người sinh ra đều có một nhóm hồn, ma nhất định. Số lượng hồn của một
con người tùy thuộc vào cách quan niệm của từng dân tộc. Theo quan niệm cảu
người Thái, mỗi người có 120 hồn và sau khi con người qua đời, các hồn đó
điều biến thành Phỉ (ma). Người Mường nghĩ rằng họ có 90 hồn, cịn ở người
Khmer thì chỉ có 9 hồn chính. Các dân tộc miền núi Mindanao (Philippines) thì
cho rằng mỗi người đều có 2 hồn: hồn trái và hồn phải. Hồn trái có thể tự do
“lìa” khỏi xác cịn hồn phải thì khơng. Sau khi con người qua đời, hồn trái trở
thành ma ác, hồn phải trở thành ma lành. Trong quan niệm của người Dyak ở
Indonesia, thế giới khơng gian được chia thành 5 tầng trời, trong đó tầng thứ 3
là linh hồn của người đã mất.[Mai Ngọc Chừ, Văn hóa & ngơn ngữ Phương
Đơng, 2009, tr.201].
Hồn theo cư dân Đơng Nam Á, có quan hệ mật thiết với cuộc đời mỗi
người. Nếu hồn thốt khỏi xác thì con người sẽ chết. Nhưng chết khơng có
nghĩa là chết. Người chết là người trở về với tổ tiên, ông bà nơi chín suối. Do có
hồn, người chết vẫn có thể thường xuyên đi về phù hộ độ trì cho con cháu ở
dương gian. Quan niệm này là cơ sở ra đời tín ngưỡng thờ cúng người đã mất,
mà trước hết và quan trọng nhất là thờ cúng ông bà tổ tiên của gia đình, dịng
Page 17


họ. Việc thờ cúng tổ tiên vừa có ý nghĩa nhớ về cội nguồn, biết ơn cội nguồn
vừa thể hiện lịng ước muốn sự phù hộ độ trì của tổ tiên cho người cịn sống.
Thờ cúng tổ tiên, vì vậy cũng là một nét văn hóa đặc trưng trong tín ngưỡng
nhiều dân tộc Đơng Nam Á. Ở nhiều gia đình Đơng Nam Á, trong đó có gia

đình Việt Nam, bàn thờ tổ tiên thường đặt ở gian giữa nhà và ở nơi cao ráo, sạch
sẽ, sang trọng nhất.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên luôn được ăn sâu trong tiềm thức của người
dân Đơng Nam Á, cho dù sau đó, các tơn giáo ngoại lai có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến đời sống tâm linh của đông đảo cư dân nơi đây như Phật giáo, Ấn Độ giáo,
Hồi giáo và cả Thiên Chúa giáo đi nữa thì nhiều dân tộc vẫn duy trì việc thờ
cúng tổ tiên, ơng bà. Qua nhiều thế kỷ, ở các quốc gia Đơng Nam Á, vẫn cịn
hiện tượng người dân vừa thờ cúng các vị thần trong tơn giáo mình, vừa tiếp tục
thờ cúng tổ tiên mà không hề bị phủ nhận hay triệt tiêu lẫn nhau. Ở đảo Bali
(Inđônêxia), chẳng hạn, mặc dù Ấn Độ giáo cực kỳ phát triển, người dân địa
phương vẫn vừa cúng thần Siva vừa thờ cúng tổ tiên, ông bà. Ở Philippin,
những người Katigan, người Visaya, người Ilocano, người Apuyo cũng vẫn có
điện thờ cúng tổ tiên trong nhà, mặc dù họ là những người công giáo thực thụ.
Hay người Môrô - dân tộc sùng bái Hồi giáo, cũng rất tôn trọng việc thờ cúng tổ
tiên. Riêng ở Việt Nam, dù theo hay khơng theo bất kỳ tơn giáo nào thì trong
nhà người Việt ln có bàn thờ tổ tiên, ơng bà ở nơi trang trọng nhất.
Ngồi ra, người dân Đơng Nam Á cịn có tục thờ các Thần, các vị anh
hùng dân tộc đã được thần thánh hóa theo trí tưởng tượng của thần thoại, cổ
tích; hay những con người thật bình thường khi sinh ra lại khốc lên mình sự
linh thiêng. Trong tín ngưỡng thờ Thần của các dân tộc Đông Nam Á, phổ biến
nhất là thờ các anh hùng dân tộc, những người có cơng với đất nước, thường
được tôn xưng là thần thánh và được lập đền thờ. Tục này khơng chỉ có ở Việt
Nam mà cịn ở các quốc gia Đông Nam Á khác như Thái Lan, Mianma,
Inđônêxia, Cămpuchia, Lào, Philippin…
3.2. Tôn giáo
Page 18


×