Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận HINDU giáo với văn hóa đông nam á – những kí ức văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC

TIỂU LUẬN
HINDU GIÁO VỚI VĂN HĨA ĐƠNG NAM Á – NHỮNG KÍ
ỨC VĂN HĨA
MƠN HỌC: TƠN GIÁO VÀ VĂN HĨA – TRƯỜNG HỢP ĐÔNG NAM Á
GVHD: PGS.TS TRƯƠNG VĂN CHUNG

Học viên: Bùi Đức Thuận
Lớp Cao học Văn hóa học K11
Mã số học viên: 0305161025

Thành phố Hồ Chí Minh
3 - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC

TIỂU LUẬN
HINDU GIÁO VỚI VĂN HĨA ĐƠNG NAM Á – NHỮNG KÍ
ỨC VĂN HĨA
MƠN HỌC: TƠN GIÁO VÀ VĂN HĨA – TRƯỜNG HỢP ĐÔNG NAM Á
GVHD: PGS.TS TRƯƠNG VĂN CHUNG

Học viên: Bùi Đức Thuận
Lớp Cao học Văn hóa học K11
Mã số học viên: 0305161025



Thành phố Hồ Chí Minh
3 - 2011

2


NỘI DUNG
NỘI DUNG..........................................................................................................................3
Mở đầu..................................................................................................................................4
Về tơn giáo và văn hóa.....................................................................................................4
Về văn hóa Hindu giáo ở Đơng Nam Á...........................................................................5
Chương 1..............................................................................................................................8
Giới thiệu Hindu giáo - Ấn Độ giáo.....................................................................................8
1.1 Sự xuất hiện của Hindu giáo......................................................................................8
1.2Một số phân nhánh của Hindu giáo...........................................................................11
1.3 Một số lễ nghi và tục thờ cúng.................................................................................14
Chương 2............................................................................................................................19
Hindu giáo và văn hóa Đơng Nam Á.................................................................................19
2.1 Q trình du nhập Hindu giáo vào Đông Nam Á.....................................................19
2.2 Những dấu ấn Hindu giáo trong văn hóa Đơng Nam Á..........................................21
Kết......................................................................................................................................27
Tài liệu tham khảo..............................................................................................................29

3


Mở đầu
Về tơn giáo và văn hóa
Văn hóa là do con người sáng tạo ra. Khái niệm về văn hóa thì nhiều vơ kể,

có nhiều trường phái, lý thuyết tiếp cận văn hóa, mỡi một trường phái đưa ra một
định nghĩa khác nhau về văn hóa. Khái niệm "văn hóa" hiện được dùng với những
nghĩa hết sức khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Tuy được dùng theo nhiều
nghĩa, nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hóa có thể quy về hai cách hiểu chính:
nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo NGHĨA HẸP, văn hóa được giới hạn theo bề sâu
hoặc bề rộng, theo không gian, thời gian, hoặc chủ thể. Theo NGHĨA RỘNG, văn
hóa bao gồm tất cả những giá trị do con người sáng tạo ra. Cách hiểu này không
chỉ giới hạn trong giới khoa học mà được sử dụng khá rộng rãi (vd: Hồ Chí Minh
1940, F. Mayor 1989).
Tơn giáo là một hiện tượng văn hóa của xã hội lồi người, nó gắn liền với
mọi hoạt động, đời sống chính trị trong xã hội, khơng là một yếu tố văn hóa đơn
thuần hay là một hiện tượng xã hội, ý thức hệ đơn thuần. Nó vừa là một hiện tượng
đặc biệt, một yếu tố văn hóa, một ý thức hệ mang tính xun khơng gian và xun
thời gian – tức chỉ có biến đởi chứ khơng mất đi. Các nhà bác học cổ Hy Lạp cho
tôn giáo là “thâu lượm lại thâu lượm” – “relegere” – thâu lượm những tri thức vơ
hình. Đó là cách nhìn nhận khác với cách nhìn nhận hữu hình của khoa học.
Engels chia tôn giáo ra làm ba giai đoạn, cấp độ:
- Giai đoạn 1: tôn giáo tự nhiên: lấy tự nhiên làm đối tượng (do con người hoảng
sợ nên cúi rạp người trước tự nhiên)
- Giai đoạn 2: tôn giáo đạo đức: dạy về luân lý đạo đức làm người.
- Giai đoạn 3: tơn giáo mang tính triết lý: đạo Phật, đạo Kito, đạo Islam…
Một sự thật hiển nhiên, tôn giáo là sản phẩm của con người, do con người
sáng tạo ra và lại bị nó chi phối. “Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ không phải
tôn giáo sáng tạo ra con người”, K. Marx chỉ lặp lại, tổng kết lại ý kiến trên của
các học giả thuộc trường phái duy vật trước Marx. Trong khi đó, học giả E. Tylor

4


cho rằng: “Tốt hơn có lẽ nên đặt niềm tin vào các thực thể tinh thần (spirituels), có

tác giả gọi là siêu nhiên (surnaturels), như “một định nghĩa tối thiểu (minimum)
về tơn giáo”. Ơng đã đưa ra học thuyết “vật linh giáo” (vạn vật hữu linh).
Vậy nếu dựa vào cách phân chia như Engels thì Ấn Độ giáo được xếp vào
tơn giáo cấp độ 3: tơn giáo mang tính triết lý. Vì Hindu giáo có một hệ thống tư
tưởng triết lý khá tạp chứ không chỉ là tôn thờ tự nhiên hay giáo dục luân lý, đạo
đức cho con người.
Con người là chủ thể của văn hóa, nhưng cũng là chủ thể của tơn giáo.
Trong khi đó mối quan hệ giữa tơn giáo và văn hóa là mối quan hệ hỗ tương, cái
này vừa là nhân vừa là quả của cái kia và ngược lại.Văn hóa và tơn giáo vừa bổ
sung vừa thúc đẩy, điều chỉnh nhau ở những mức độ và cách thức khác nhau. Tôn
giáo luôn nằm trong cơ tầng trọng yếu của văn hóa. Nếu bóc tách tơn giáo ra khỏi
văn hóa thì văn hóa sẽ mất đi nội dung rộng lớn.
Với mối quan hệ đó, mỡi tơn giáo đều có các giá trị văn hóa riêng của nó.
Mục đích của bài tiểu luận là đi theo lịch sử Hindu giáo từ lúc khởi đầu đến khi lan
truyền qua các quốc gia Đơng Nam Á để tìm hiểu giá trị cũng như một số ảnh
hưởng của Hindu giáo tại khu vực này.

Về văn hóa Hindu giáo ở Đông Nam Á
Hindu giáo (Hinduism) hay Ấn Độ giáo - Ấn giáo là một trong những tôn
giáo lớn nhất thế giới trong quá khứ. Khởi nguồn từ Ấn Độ, Hindu giáo đã lan
truyền và ảnh hưởng rất nhiều nước ở châu Á nói chung và Đơng Nam Á nói
riêng. Ở Đông Nam Á, tôn giáo là một hiện tượng văn hóa xã hội rất phức tạp, là
bộ phận khơng thể thiếu được trong đời sống tinh thần, văn hóa Đơng Nam Á.
Trong đó, Hindu giáo là tơn giáo có rất nhiều ảnh hưởng quan trọng tới đời sống
văn hóa và xã hội tại các quốc gia như Indonesia, Mianmar… Hindu giáo khơng
chỉ đem lại nhiều giá trị văn hóa trong lịch sử mà còn để lại nhiều di sản văn hóa
tinh thần cho đến tận hơm nay.

5



Hindu giáo cũng như các tơn giáo lớn khác hịa nhập được vào ý thức hệ
văn hóa Đơng Nam Á từ rất sớm là nhờ các tín ngưỡng bản địa của các cộng đồng
dân cư vốn đã phong phú, đa dạng. Với sự phát triển kinh tế cịn trì trệ, nghèo đói,
tham vọng chính đáng của các tộc người Đơng Nam Á muốn vươn lên, nên có tư
tưởng cầu an hưởng lạc khiến cho q trình hịa nhập giữa tơn giáo và văn hóa
diễn ra sn sẻ ngay từ khi mới tiếp xúc. Hai nguyên nhân trên tạo điều kiện cho
bốn tôn giáo lớn cắm rễ sâu bền được ở Đông Nam Á.
Trong lịch sử các quốc gia và dân tộc ở Đơng Nam Á, Hindu giáo cịn có
mối quan hệ tác động lớn đến thể chế chính trị các quốc gia. Mặc dù ngày nay, số
lượng tín đồ Hindu giáo không nhiều nhưng giá trị tinh thần đặc sắc của Hindu
giáo vẫn là một kho tàng văn hóa và là một đối tượng nghiên cứu đầy lý thú đối
với các nhà nghiên cứu thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau.
Trên tinh thần tìm hiểu lịch sử của Hindu giáo cũng như những di sản văn
hóa mà tơn giáo này để lại ở Đông Nam Á, tôi thực hiện bài tiểu luận này với mục
tiêu chỉ là giới thiệu sơ lược các nội dung trên.
Như ta đã biết, văn hóa Đông Nam Á, bên cạnh những nét riêng biệt sẵn có
đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc nền văn hóa Ấn Độ cũng như Trung Hoa.
Hindu giáo. Theo tài liệu hướng dẫn môn học, tôi xin nhắc lại ở đây các đặc điểm
cơ bản của tôn giáo và văn hóa ở Đơng Nam Á:
-

Rất đa dạng, phong phú.

-

Tính dung hợp, pha trộn.

-


Tính thế tục, gắn liền với vấn đề dân tộc.

-

Tính nhân văn sâu sắc.
Có thể thấy là các đặc tính của tơn giáo ở Đơng Nam Á đa dạng và phức

tạp. Trong khi mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận chỉ là giới thiệu. Vì vậy tơi chọn
cách tiếp cận lịch sử dân tộc, tôn giáo từ tơn giáo học, văn hóa học và nhân học.
Từ đó, có thể thấy phương pháp nghiên cứu, trình bày là lịch sử - logic, chủ yếu
thiên về lịch sử.

6


Vì là đề tài mở, đi theo dịng thời gian nên phạm vi nghiên cứu của đề tài
tương đối không ổn định. Từ khi hình thành cho tới lúc suy tàn, Ấn Độ giáo đã đi
qua nhiều quốc gia khác nhau, vì vậy chúng tơi khơng cố định đặt ra phạm vi
nghiên cứu cụ thể trong không gian địa lý hoặc khơng gian văn hóa nào. Dù vậy,
tinh thần chung của bài này vẫn là xoay quanh các quốc gia có sự ảnh hưởng ít
nhiều bởi Ấn Độ giáo cả trong lịch sử và hiện tại: Thái Lan, Mianmar, Campuchia,
Việt Nam, Indonesia, Singpore.

7


Chương 1
Giới thiệu Hindu giáo - Ấn Độ giáo
1.1


Sự xuất hiện của Hindu giáo
Ấn Độ là đất nước của thần linh, quê hương của những tôn giáo lớn (Phật

giáo, Ấn Độ giáo…), văn minh xứ này tràn đầy khơng khí tôn giáo. Chẳng phải vô
cớ mà nhiều học giả, nhà nghiên cứu xem nền văn minh Ấn Độ là một trong những
nền văn minh có tính duy tâm cao nhất.
Khởi đầu, Hindu giáo phát triển từ một tơn giáo bình dân, có từ khoảng năm
700 trước cơng ngun. Đạo Hindu (hinduism) hay Ấn Độ giáo là một tôn giáo
được phát triển cao hơn từ một tơn giáo bình dân. Theo tôn giáo này, thần Krishna,
Vishnu, Siva, Rama, thần Brahman và nhiều vị thần thánh cao quý chỉ là hiện thân
của một Thượng Đế (Đấng Tối Cao) duy nhất.
Đến trước thiên niên kỷ thứ I tr.cn, cùng với quá trình phân tầng xã hội bộ
lạc, hình thành nhà nước, tham gia của các dân tộc ngày một mới vào quá trình
hình thành nền văn hóa Ấn Độ, thì tính chất cở, tính hạn chế của bộ lạc, tính bí
truyền của hệ thống triết học tơn giáo hình thành trên cơ sở những quan niệm Veda
giáo, được các nhà nghiên cứu xác định như là Bà la mơn giáo (Brahmanisme) (do
vai trị đặc biệt, then chốt trong nghi lễ và thực tiễn xã hội của nhà tư tế Brahman), đã trở thành trở ngại đối với sự phát triển xã hội. Bà la môn giáo cũng
không phù hợp với cơ cấu của công xã nông nghiệp láng giềng mà đã trở thành tế
bào kinh tế và xã hội cơ bản của xã hội Ấn Độ. Các nhóm mới, chưa tiếp cận được
với nghi lễ Veda giáo, đã tham gia vào quan hệ kinh tế - xã hội và lễ nghi trong
công xã này.
Sau khi trải qua cuộc khủng hoảng sâu sắc, chuyển hóa đáng kể, chống đỡ
được sự cạnh tranh với Phật giáo và Giai na giáo (Jainaisme), Bà la môn giáo, mà
nói chính xác hơn là Hindu giáo (Hindouisme), đã có thể đáp ứng đầy đủ nhất các
nhu cầu xã hội, trước hết là nhờ mối liên hệ hữu cơ của mình, thậm chí là sự hợp

8


nhất với hệ thống đẳng cấp. Sau khi vay mượn và phát triển quan niệm của Veda

giáo về sự phân cấp các nhóm người khơng bình đẳng về mặt nghi lễ, về vai trị
của tầng lớp Bà la mơn như người môi giới trong giao tiếp giữa con người với các
thần, sau khi giữ lại kinh Veda với tư cách là sách kinh (nhưng bở sung cho nó vơ
số bình luận), Hindu giáo xây dựng cẩn thận các khái niệm về sự luân hồi của linh
hồn trong thế giới theo quy luật nghiệp báo (karma) mà trước hết được quy định
bởi việc tuân thủ các chuẩn tắc ứng xử đối với một nhóm cụ thể, một đẳng cấp cụ
thể. Hindu giáo bắt đầu lý giải những khác biệt xã hội bằng sự trong sáng về mặt
nghi lễ của cá nhân sinh ra trong đẳng cấp tương ứng.
Như vậy có thể thấy rằng đạo này chịu ảnh hưởng phần lớn tư tưởng Bà La
Môn, coi kinh Veda như sách thánh và rõ ràng là giới tăng lữ Bà La Môn nắm
quyền cai trị chính trong đó. Nhìn chung đạo Hindu là tơn giáo bình dân đã mang
tính cách nhất thần, thần bí dưới sự ảnh hưởng của đạo Thần bí Bà la môn.
Việc nền văn minh Ấn Độ khai thác vùng ngoại diên rộng lớn, đưa các dân
tộc mới và rất cổ vào hệ thống phân công lao động xã hội với tư cách các đẳng cấp
đã làm cho tính chuẩn tắc của Hindu giáo, vai trò kẻ quy địnđ lối ứng xử của nó
càng trở nên có hiệu quả hơn khi nó tiếp nhận một cách hữu cơ hơn những nghi lễ
địa phương.
Rất nhiều các học giả đã bày tỏ ý kiến với những lý lẽ vững chắc rằng, hình
thức sùng tín Bhakti trong đạo Hindu có nguồn gốc ở miền Nam Ấn và lan rộng
đến tận miền Bắc Ấn. Sankara – bậc thầy của đạo Hindu – cũng là người miền
nam. Ông là người đầu tiên nhận thấy học thuyết Cứu rỡi của hình thức tơn giáo
Bhakti có thể tồn tại song song với thuyết thần bí Bà la mơn, đến từ miền Nam Ấn.
Cũng chính bởi phụ thuộc nhiều vào tư tưởng Bà la môn, đạo Hindu cổ xưa chỉ có
thể phát triển thành tơn giáo nhất thần chứ không phải tôn giáo nhất thần phục vụ
đạo đức. Đạo này coi Thượng Đế có ý nghĩa cao hơn tất cả những gì thuộc về đạo
đức và những gì khơng thuộc về đạo đức.
Như vậy ngồi việc tn thủ thuyết chối bỏ cuộc sống và thế giới của đạo
Bà la mơn, đạo Hindu giữ lại cho mình một khía cạnh riêng: thay vì chỉ khoan
9



dung với hành động, nó cịn tơn vinh hành động. Nhưng đạo giáo của chúng sinh
khơng thể làm gì hơn ngoài việc lưu tâm tới cảm xúc tự nhiên.
Hindu giáo khơgn địi hỏi hành động nào khác ngồi hành động như đạo Bà
la mơn địi hỏi, nhưng thể hiện lại khác. Con người không thể thỏa mãn (như
người Bà la môn) ở sự quý trọng (bên cạnh ý tươnggr từ bỏ cõi trần) một sự đánh
giá hạn hẹp và chỉ liên quan đến hành động (những hành động của bổn phận do
tầng lớp đặc quyền đề ra). Đạo này đòi hỏi con người phải thể hiện lịng tận tụy
hồn tồn với Thượng Đế. Địi hỏi này cũng gắt gao khơng kém nỡ lực từ bỏ cõi
trần của một cá nhân.
Vì đánh giá cao hành động, đạo nhất thần Hindu bắt buộc phải là tơn giáo
của giới bình dân. Khởi đầu đạo Hindu không quan tâm tới việc chống lại học
thuyết chối bỏ cuộc sống và thế giới ở bất cứ hình thức nào. Nó chỉ muốn hành
động được nhìn nhận và được đánh giá đúng mức. Đạo Hindu tưởng rằng có thể
kết hợp (ở một mức độ nhất định) học thuyết chối bỏ cuộc sống và thế giới với học
thuyết công nhận cuộc sống và thế giới.
Trong tư tưởng Hindu cổ đại, quan điểm chối bỏ cuộc sống và thế giới được
hỗ trợ bởi cảm xúc tự nhiên của dân tộc Ấn, cũng phải khuất phục quan điểm công
nhận cuộc sống và thế giới.
Những nguồn tư liệu chính về hệ tư tưởng của đạo Hindu cổ đại này là
những tư liệu mang nội dung triết học pha lẫn tôn giáo được giới thiệu trong hai
thiên sử thi vĩ đại của Ấn Độ là Mahabharata và Ramayana và kinh Puranass.
Purana (tên đầy đủ là Puranams akhyanam) có nghĩa là truyện cở tích. Thế nên
Puranass có nhiều chuyện thần thoại và chuyện tơn giáo kèm theo những dịng suy
ngẫm về những câu chuyện này.
Xét về mặt lịch sử, Hindu giáo đã hình thành hai khuynh hướng cơ bản –
Visơnu giáo (Vishnouisme) và Sivai giáo (Shivaisme), hơn nữa là cả hai tôn giáo
này đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những quan niệm tiền Arya, những quan
niệm dựa trên những sự thờ cúng tối cở, trong đó tư tưởng và biểu tượng sinh đẻ,


10


vai trò của người mẹ, sự mê hồn của thực tiễn thờ cúng, ý nghĩa của sự hy sinh
máu là rất lớn.
Các cơ sở của Hindu giáo bắt nguồn từ kinh Veda, từ các truyền thuyết và
các văn bản có liên quan tới kinh ấy, chủ yếu quy định tính chất và các đặc điểm
của nền văn minh Ấn Độ trên các phương diện lịch sử văn hóa, triết học tôn giáo
giáo, nghi lễ - sinh hoạt, xã hội – gia đình, v.v… Cái mang quyết định đối với quá
trình hình thành các cơ sở tởng hợp của Hindu giáo trong một thời gian dài và rất
phức tạp là quá trình khắc phục dần dần tính chất bí truyền của các nguyên tắc
Veda – Bà la môn giáo trong văn hóa Ấn Độ cở.
Một điều khơng đáng ngạc nhiên là sau khi đã được đơn giản hóa và chỉnh
lý cho phù hợp với nhu cầu của đông đảo quần chúng, Hindu giáo đã đặt lên hàng
đầu các thần mới, chính xác hơn là những bình diện mới của chính các thần cở
được cải biến chút ít, nhưng có được một cuộc sống mới và có được quyền uy cao
chính trong khn khở của hệ thống Hindu giáo đang hình thành. Các thần này là
gần gũi và dễ hiểu hơn đối với con người.

1.2

Một số phân nhánh của Hindu giáo

Giáo phái Vishnu

Giáo phái này chủ yếu sùng bái Vishnu (thần giữ gìn vũ trụ) và những hóa
thân của thần này như Thiên nữ tốt lành, chim đại bàng cánh vàng, khỉ thần
Hanơman, trâu thần Nmcát, v.v… Tín đồ của giáo phái này coi trọng sự trung
thành đối với thần, đa số họ đều theo chủ nghĩa khổ hạnh như ăn chay, cấm dục,
v.v… Việc thờ cúng được tín đồ Vishnu giáo tiến hành trong chùa, họ phản đối

việc dùng động vật làm vật tế lễ. Hiện nay, giáo phái này chủ yếu phở biến ở miền
Bắc Ấn Độ.
Vishnu giáo hình thành vào thế kỷ XI. Người sáng lập và đặt cơ sở lý luận
cho nó là Ramanuja. Theo ơng, sự hợp nhất linh hồn của cá nhân với thần là con
đường giải thốt chính. Ngồi ra tín đồ cịn phải thụ lễ theo Vishnu giáo, bày tỏ
tình yêu tuyệt đối với thần, sống cuộc sống tu hành khổ hạnh và chấp hành nghiêm

11


chỉnh những lễ nghi cúng bái như là điều kiện để nhận được sự ân sủng của thần.
Môn đệ của Ramanuja là Ramananda đã tiếp tục phát triển Vishnu giáo. Ông xây
dựng nên Giáo phái Rama. Theo Ramananda, con đường giải thốt đối với tín đồ
là việc bày tỏ tình yêu đối với thần Rama và luôn nhắc thầm tên của thần này, là
việc tắm trong ân huệ của thần.
Vào thế kỷ XVI, Jaithanic đã lập ra giáo phái Hắc Thiên để tôn thờ Hắc
Thiên (nhân vật anh hùng trong sử thi Ấn Độ) và Rata. Theo Jaithanic, tình yêu
của Hắc Thiên với Rata tượng trưng cho tình yêu của linh hồn con người đối với
thần. Việc thụ lễ theo đạo không nên tiến hành theo một lễ nghi rườm rà, chỉ cần
hát một bài thánh ca dành cho Hắc Thiên và Rata là đủ điều kiện nhận được sự
sùng ái của thần. Do vậy, khi hát thánh ca, phái này thường phát cao cờ, hò hét,
đánh trống, gõ chiêng.
Giáo phái Siva
Giáo phái này thờ cúng thần Siva (thần thứ ba được tín đồ Ấn Độ giáo thờ
cúng, được coi là người phá hủy và xây dựng lại thế giới). Sankara là người đặt cơ
sở lý luận cho giáo phái này. Siva giáo có nhiều phân nhánh khác nhau, trong đó
cần phải kể tới một số phân nhánh sau đây. 1) Siva giáo ở Casmia phổ biến vào
giữa thế kỷ XI, tuân thủ 64 loại kinh điển. Giáo phái này cho rằng nhờ sức mạnh
thần bí mà Siva tạo ra linh hồn cá nhân và những hiện tượng hữu hình đa dạng.
Linh hồn cá nhân cần phải nhận thức nhiều lần thế giới hiện thực để hợp nhất với

Siva và qua đó được giải thốt. 2) Linga giáo bắt đầu hưng thịnh sau sự suy thoái
của Phật giáo và Giana giáo. Người sáng lập ra giáo phái này là Basaoa ở thế kỷ
XII. Giáo phái Linga phủ định quyền uy của kinh Vệ đà và thuyết nghiệp báo luân
hồi, phản đối việc tôn thờ oranh và tượng thần, phủ nhận chế độ đẳng cấp và
những quy tắc hà khắc đối với phụ nữ và sinh hoạt gia đình. 3) Giáo phái Thánh
điển xuất phát từ kinh điển của Siva giáo nên có tên như vậy. Thánh điển giáo coi
trọng sự nghiên cứu và tìm tịi lý luận, tun bố vũ trụ có ba dạng tồn tại cơ bản là
thần Siva, linh hồn cá nhân và vật chất. Vật chất thể hiện dưới 36 loại hiện tượng
hư ảo, nhưng do dốt nát nên con người bị ràng buộc với vật chất (nghiệp), sa vào
12


kiếp ln hồi. Để được giải thốt thì con người phải loại bỏ được sự dốt nát và
nghiệp, giành được tình yêu của thần Siva, hợp nhất với thần Siva cùng với sức
sống và tri thức vơ hạn.
Giáo phái Tính lực
Là một giáo phái độc lập, tách ra từ Siva giáo. Giáo phái này chủ yếu tôn
thờ vợ của các thần: Donhijia, Nan cận mẫu (vợ của Siva), Cát tường thiên nữ (vợ
của Vishnu), Saravati, hay Biện tài thiên nữ (vợ của Brahma), Rata (vợ của Hắc
Thiên). Giáo phái này quan niệm rằng tính lực (hoạt tính, tính tích cực) của các nữ
thần này là cái biểu hiện của tính tích cực của thần linh tối cao hay của thực tại tối
cao (Phạn), là nguyên nhân sáng tạo ra và phát triển vạn vật trong vũ trụ, còn bản
thân các thần là thụ động. Tính tích cực có hai hình thức biểu hiện là sự trong
sáng, hiền từ ,nhân ái lành mạnh và sự xấu xa, độc ác, hung hãn, bạo tàn. Tính lực
giáo có hai phân nhánh là Tả tính lực giáo và Hữu tính lực giáo. Tả tính lực giáo
sử dụng lễ nghi bí mật mà chủ yếu gồm có: 1) hy sinh, tức dùng động thực vật, kể
cả con người, để tế lễ; 2) luân tọa, tức nam nữ đồng niên thay đổi chỗ giao hợp cho
nhau trong đêm tối; 3) Yoga, tức luyện tập theo những pháp đặc biệt; 4) ma pháp.
Giáo phái này không tin vào nghiệp báo luân hồi, phản đối phân hóa đẳng cấp và
kỳ thị phụ nữ. Hữu Tính lực giáo xuất hiện ở thế kỷ XIII, nó cơng khai tiến hành

những nghi thức cúng tế của Vệ đà giáo, việc cúng tế diễn ra ở chùa, dùng hoa quả
và bột gạo làm vật cúng tế.
Giáo phái Kabir
Là một trong các giáo phái xuất hiện trong phong trào cải cách tôn giáo ở
thời trung cổ. Kabir là người sáng lập ra giáo phái này. Theo ông, thực tại hay thần
tối cao trong vũ trụ là Brahma, Vishnu và Siva. Sự giải thoát diễn ra nhờ có sự
thành kính đối với thần và hợp nhất với thần. Ông phản đối việc thờ tranh và tượng
thần, sự phân hóa đẳng cấp và kỳ thị đối với phụ nữ, kêu gọi sự đoàn kết giữa tín
đồ Hindu giáo và Hồi giáo.
Giáo phái Samai (Phạn xã)

13


Là một giáo phái ra đời trong phong trào cải cách Hindu giáo. Giáo phái
này dựa trên nhất thần luận của Upanisah, những nhân tố của Hồi giáo và Thiên
Chúa giáo. Tín đồ của giáo phái này thờ Phạn (thực tại tối cao, lý tính tối cao), loại
bỏ mọi nghi thức cúng tế nghiêm khắc, rối rắm. Họ kiên quyết phản đối sự phân
hóa và sùng bái đẳng cấp, sự kỳ thị đối với phụ nữ, coi dị giáo là kẻ thù, đề xướng
nền giáo dục hiện đại và coi trọng khoa học – kỹ thuật phương Tây. Môn đệ của
Roy là Taker đã đưa ra một loạt chương trình cải cách tôn giáo triệt để hơn. Vào
năm 1866, một môn đồ khác của giáo phái là Keshab đã kết hợp nội dung của
Brahma Samaj giáo, của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Nho giáo thành Tân Thiên
Giáo với khẩu hiệu “phục vụ thần tức là phục vụ con người”, triển khai cải cách xã
hội và văn hóa. Như vậy, giáo phái Brahma Samaj đóng một vai trị quan trọng
trong phong trào khai sáng và dân tộc chủ nghĩa của Ấn Độ.

1.3

Một số lễ nghi và tục thờ cúng

Ngày nay, Ấn Độ giáo vẫn là tôn giáo mạnh và đầy sức sống ở Ấn Độ, đặc

điểm của nó là có rất nhiều niềm tin và cách hành đạo. Những truyền thống của nó
khởi nguyên từ khoảng năm 800 trước CN, hoặc thậm chí sớm hơn, và nó nhấn
mạnh sự thống nhất của mọi sinh linh, tính tất yếu của việc tái sinh và việc thờ
phụng nhiều vị thần khác nhau… Một số là những người vơ thần. Hồn tồn
khơng có giáo lý hay địi hỏi nghi thức, tính đa dạng của Ấn Độ giáo tự thể hiện
trong vô số phong tục, truyền thống và văn chương.
Đạo Hindu không nhất quán. Tơn giáo này có nhiều hình thức thờ cúng,
khơng chỉ có hình thức của người Aryan, mà cịn hình thức của những người Ấn
Độ ngun thủy. Nó khơng có thiên hướng thờ một thần, mà gắn bó với thiên
hướng đa thần.
Một điểm khác biệt nữa giữa đạo thần bí Hindu với đạo Bà la môn (và cả
với Cơ Đốc giáo) là: lý tưởng sống ẩn dật xa lạ với đạo này. Nó khơng thơi thúc
con người phải rời bỏ cuộc sống bình thường. Hindu giáo mong đợi con người trải
qua mọi thăng trầm trong tư tưởng và việc làm, nhưng vẫn tận tâm thờ Thượng Đế

14


Mặc dù có nhiều thần linh nhưng cũng chính bởi phụ thuộc nhiều vào tư
tưởng Bà la môn, đạo Hindu cở xưa chỉ có thể phát triển thành tơn giáo nhất thần
chứ không phải tôn giáo nhất thần phục vụ đạo đức. Đạo này coi Thượng Đế có ý
nghĩa cao hơn tất cả những gì thuộc về đạo đức và những gì khơng thuộc về đạo
đức.
Như vậy ngồi việc tn thủ thuyết chối bỏ cuộc sống và thế giới của đạo
Bà la mơn, đạo Hindu giữ lại cho mình một khía cạnh riêng: thay vì chỉ khoan
dung với hành động, nó cịn tơn vinh hành động. Nhưng đạo giáo của chúng sinh
khơng thể làm gì hơn ngồi việc lưu tâm tới cảm xúc tự nhiên. Hindu giáo khơng
địi hỏi hành động nào khác ngoài hành động như đạo Bà la mơn địi hỏi, nhưng

thể hiện lại khác. Con người khơng thể thỏa mãn (như người Bà la môn) ở sự quý
trọng (bên cạnh ý tưởng từ bỏ cõi trần) một sự đánh giá hạn hẹp và chỉ liên quan
đến hành động (những hành động của bổn phận do tầng lớp đặc quyền đề ra). Đạo
này đòi hỏi con người phải thể hiện lịng tận tụy hồn tồn với Thượng Đế. Địi
hỏi này cũng gắt gao khơng kém nỡ lực từ bỏ cõi trần của một cá nhân.
Bản chất nhất thần nhưng thực tế cho thấy trong Hindu giáo có hệ thống
thần linh đồ sộ và phong phú đến mức khó mà ghi nhớ hết. Tuy nhiên, hình ảnh
tam thần là nởi bật nhất và có ý nghĩa quan trọng nhất. Trong Hindu giáo có hình
ảnh của Tam thần (Trimutri – thần sáng tạo, thần bảo vệ và thần phá hủy) – bản
ngun tinh thần của vũ trụ, có ba ngơi – Vishnu, Shiva và Brahman tương ứng
với ba thần nêu trên. Thần được tơn kính nhất trong Shiva giáo là Shiva mà chức
năng cơ bản là sử dụng năng lượng do tinh thần hy sinh tích lũy được vào việc phá
hủy và tái tạo thế giới. Phù hợp với hình ảnh khủng khiếp, phá hủy và gây ra nỗi
sợ hãi của Shiva là hình ảnh của người vợ của nó (chính xác hơn là ngơi bở sung
năng lượng cho nó) – nữ thần Kalia (hay Đurghi, Parvati).
Dĩ nhiên, hệ thống thần linh của Hindu giáo đã khác đi nhiều so với các tơn
giáo cở và khơng cịn giống với nguồn gốc của nó. Đồng thời các thần linh được
thờ cúng theo một cách ít nhiều khác biệt.

15


Thứ nhất, lễ hiến sinh bằng máu của Veda giáo (yadjya) đã bị loại bỏ bằng
việc thờ cúng thần không bằng máu (pudjya). Mặc dù theo truyền thống người ta
vẫn quan niệm rắng sát hại vì thần khơng phải là sát hại (luận điểm này cho tới nay
vẫn chưa bị bác bỏ hoàn toàn: tế lễ bằng máu, kể cả bằng máu người, thường được
áp dụng tại các khu vực khác ở Ấn Độ), song nguyên tắc ahimsa (không sát sinh)
đã bắt đầu quy định tính chất tế lễ. Thứ hai, cùng với Phật giáo Đại thừa, thực tiễn
chế tạo ra các ngẫu tượng – hình ảnh và các đền thờ chúng đã được phổ biến rộng
rãi ở Ấn Độ vào đầu cơng ngun. Được phản ánh dưới hình thức kiến trúc và

nghệ thuật hoàn hảo, thần được thờ cúng đã có được bộ mặt người và bắt đầu trở
nên gần gũi hơn, cụ thể hơn, có mọi đặc tính của con người, đi liền với những con
vật phù hợp với thần ấy. Được đặt trong đền thờ của mình, thần này là dễ hiểu đối
với mỗi người. Bộ mặt, các đặc điểm của thần, các động vật đi liền với thần biểu
tượng cho các đặc quyền, các khả năng, các thiên hướng của thần, chúng được mỗi
người biết rõ trong các truyền thuyết và các thần thoại. Biết được tiểu sử của thần,
con người được định hướng một cách tương ứng và chờ đợi ở thần yêu quý chính
những gì mà con người mong muốn. Có thể u quý, sợ hãi các thần như vậy, có
thể đặt hy vọng vào chúng. Và, cuối cùng, thứ ba, các thần chính của Hindu giáo là
khác với các tiền bối cổ của chúng mà chủ yếu mang tính trung lập đối với quần
chúng nhân dân, đã có được những mơn đệ, tức những người ưa thích thờ cúng vị
thần đã lựa chọn của mình và chủ yếu giao tiếp với thần ấy. Hơn nữa, thái độ
chung thủy của cá nhân đối với thần đã trở thành đặc điểm quan trọng của Hindu
giáo.
Hindu giáo rất coi trọng việc cúng tế và các lễ nghi tơn giáo. Có thể chia
cúng tế của Hindu giáo ra làm hai loại là cúng tế trong gia đình và cúng tế nơi
cơng cộng. Cúng tế trong gia đình có mục đích là tái sinh giống nịi, khi đó tín đồ
năm loại tế là cúng tế Brahma (thực hiện vào tối và sáng, đọc kinh Vệ đà); cúng tế
thần (trước bữa ăn, đem thức ăn đổ vào lửa thánh, cúng tế lửa; cúng tế sinh linh
(bố thí cho mọi sinh linh, rắc cơm gạo để biểu thị lòng yêu thương; cúng tế tổ linh
(dúng nước tưới rửa các vật cấm kỵ đề cầu được phù họ; cúng tế nhân gian (cúng
16


dưỡng các tín đồ Bà la mơn giáo hoặc thết đãi khách. Hindu giáo có 12 loại nghi lễ
truyền thống, trong đó có kết tóc (đánh dấu sự bắt đầu t̉i nhi đồng), gọt tóc
(đánh dấu sự bắt đầu t̉i thành niên), nhập pháp, kết hôn, lễ mai táng v.v… Tế lễ
công cộng thường tiến hành ở chùa hoặc nơi làm việc, nó bao gồm những cơng
việc như đốt đèn ban đêm, hầu thần tắm rửa, cúng buổi trưa, đốt hương, dân hoa,
đọc kinh b̉i tối v.v…

Tín đồ Hindu giáo có một số hình thức hoạt động tơn giáo quan trọng như
là đọc kinh, bố thí, cúng tế, nhảy múa, niệm chú, ăn chay, giải tội, khổ hành, yoga,
tắm gội, du hành vào ngày tết, làm lễ, v.v… Các giáo phái có chung một nghi lễ.
Nơi làm lễ là thánh địa gắn liền với thần thoại trong sử thi hoặc là nơi hội tụ của
các con sông. Nổi tiếng nhất là thánh địa Varanaxi trên bờ sông Hằng, thánh địa
Matơra trên bờ sông Chômuna, thánh địa Allahabad ở nơi hội tụ của sơng Hằng và
sơng Chơluma, v.v…
Hindu giáo có một số ngày lễ quan trọng sau đây. Thứ nhất, tết xuân là
ngày tết lớn nhất của Hindu giáo, được tiến hành vào ngày trăng tròn trong tháng 2
hoặc 3 dương lịch. Mục đích của lễ này là khác nhau: mừng mùa ngũ cốc bội thu ở
Tây Ấn Độ, kỷ niệm những anh hùng hy sinh ở Matơra, sùng bái sự hoạt động của
các Hắn thêin ở Bengalia. Vào ngày này, tín đồ ca hát, nhảy múa, té nước hồng
vào nhau để chúc mừng nhau. Thứ hai, tết tất niên được tiến hành vào ngày 4 trong
tháng 10 dương lịch (đầu tháng Mão theo lịch Ấn Độ). Theo truyền thuyết thì đây
là tết dành cho tầng lớp bình dân, nên cịn gọi là tết trốn nợ, thương dân. Vào ngày
tết, tín đồ mặc áo quần mới, bạn bè thăm hỏi, chúc mừng nhau, tặng quà cho nhau,
đốt pháo ăn mừng. Thứ ba, tết Song thập được tiến hành vào tháng 5 và 6 hàng
năm. Vào những ngày này, tín đồ tắm gội trên sông Hằng để miễn trừ 10 đại tội là
lời nói bẩn thỉu, lời nói bịa đặt, lời nói phỉ báng, lời nói khích bác, lời nói ám hại,
sự mù quáng, sự ham mê dâm dục, ý nghĩ ác độc, dục vọng, ngu muội, v.v… Thứ
tư, Tết lên xe được tổ chức vào tháng 5 hay 6 dương lịch, tại chùa Tracơnat ở
thành phố Pơri. Khi đó tín đồ mang tượng thần Tracơnat ra khỏi chùa, đặt lên cao,
dạo quanh mấy vịng, sau đó đặt lại ở Ly Cung 14 ngày để cúng bái và cuối cùng
17


lại đưa về chùa cũ. Tín đồ Vishnu giáo cho rằng việc cúng tế Tracơnat cho phép họ
thoát kiếp luân hồi.

18



Chương 2
Hindu giáo và văn hóa Đơng Nam Á
2.1 Q trình du nhập Hindu giáo vào Đơng Nam Á
Các tơn giáo lớn hòa nhập được vào ý thức hệ văn hóa Đơng Nam Á từ rất
sớm là nhờ các tín ngưỡng bản địa của các cộng đồng dân cư vốn đã phong phú, đa
dạng. Với sự phát triển kinh tế cịn trì trệ, nghè đói, tham vọng chính đáng của các
tộc người Đơng Nam Á muốn vươn lên, nên có tư tưởng cầu an hưởng lạc khiến
cho q trình hịa nhập giữa tơn giáo và văn hóa diễn ra sn sẻ ngay từ khi mới
tiếp xúc. Hai nguyên nhân trên tạo điều kiện cho bốn tôn giáo lớn cắm rễ sâu bền
được ở Đông Nam Á. Trong phần này, chúng tôi giới thiệu một số trường hợp du
nhập Hindu giáo vào một vài dân tộc, quốc gia cổ Đông Nam Á.
Chân Lạp do vua Jayavarman II “trị vì từ thế cuối thế kỷ thứ VIII đến năm
834, đã giải phóng vùng đất này khỏi sự thống trị của “Java” (có lẽ khơng có ý nói
đến đảo Java cùng tên), ơng ta đã chinh phục những tiểu quốc, và thống vương
quốc. Vào khoảng thời gian này, việc dẫn thủy nhập điền đã phổ biến rộng khắp.
Jayavarman II sau cùng đã thiết lập kinh đơ của ơng ở phí bắc Biển Hồ, đóng đơ
tại Harharalaya (Roulos hiện nay), gần Angkor. Tên kinh đơ băt nguồn từ
Harihara, một vị thần hoặc hình tượng kết hợp những thuộc tính của thần Siva và
thần Vishnu của Ấn Độ giáo. Năm 802, Jayavarman II được tấn phong là
dewaraja, thần vương, chắc chẳn có nghĩa rằng ơng đã đồng nhất với thần Siva.
Người Môn ở đông nam Myannma và tây bắc Thái Lan là cùng một ngữ
hệ… Ở vương quốc Tharavadi khoảng thế kỷ VII-VIII, còn văn bia ghi lại hình
ảnh Sari hacsavacman cháu vua Sri Isanecva lúc lên ngôi theo nghi lễ Ấn Độ giáo
“bước lên ngai vàng có hình sư tử theo quyền kế vị hợp pháp”… vua Sari
hacsavacman còn là một nghệ sĩ múa ca theo nghi lễ Ấn Độ giáo và ông đã làm
thơ dâng lên thần Siva.

19



Đầu tu thế kỷ VI, một tu sĩ Ấn Độ giáo tên là Kaundinya đến Phù Nam lấy
vợ người bản địa và làm vua; luôn xưng là người bảo vệ kinh Vêda, lấy lịch
“Shaka để tính ngày tháng”.
Ở Việt Nam có hiện tượng tương tự Campuchia. Phù Nam thời cở lại là tâm
điểm tìm đến của Ấn Độ giáo khi mới du nhập… tượng thần Vishnu và gần hai
trăm di vật có liên quan đến Ấn Độ giáo phát hiện được ở đồng bằng sông Cửu
Long, là điều minh chứng thuyết phục cho sự phát triển rộng khắp của đạo ở khu
vực thế kỷ I đến thế kỷ XI. Sở hữu nền văn hóa đậm chất Ấn Độ giáo, trải dài từ
miền trung đến miền Nam là người Chăm và một số người Khơme…” vua Chăm
biến đởi chút ít từ ngữ trong cách viết Phạn ngữ, để gắn với tên mình. Văn bia Hịn
Cụt ở QUảng Nam, có đoạn viết là thần Bhadravacman “đã thần hóa vua thành Ấn
Độ giáo của người Chăm từ thế kỷ IV”. Bi ký Chăm khẳng định vai trò của vua
chúa quan chức Chăm, trong đời sống xã hội, thực chất là những trang sử ghi lại
hình thức tở chức nhà nước sơ khai.
Ấn Độ giáo không truyền vào được bắc Việt Nam, đông bắc Lào, đơng bắc
Thái Lan và Myanma. Những dấu tích nhỏ, lẻ tẻ ở đông bắc Myanma và Thái Lan
không gợi được dấu ấn lịch sử đáng kể. Còn các nước hải đảo ở phía đơng nam
Đơng Nam Á cũng có quá trình tiếp nhận Ấn Độ giáo từ thế kỷ I đến thế kỷ XV,
nhưng mức độ đậm nhạt khác nhau do địa thế.
Những bi ký được xem là xưa nhất của một vương quốc Java là những bi ký
của vị vua xứ Taruma thế kỷ XV, Purnavarman, người đã đóng đơ khơng xa
Jakarta hiện nay. Ơng đã để lại một bi ký gắn liền ông ta với Vishnu, cho tạc vào
đá và trang trí thêm bằng những dấu chân của công và con voi của ông.
Giống như những vị vua Angkor, những nhà vau Java trong lúc sống đã
được đồng nhất với các thần Ấn Độ giáo như Siva hoặc Vishnu, và trong lúc chết
họ được cho là đã tái hợp nhất với các vị thần đó trong một bức tượng thần đặt
trong đền thờ, đó vừa là ngơi mộ vừa là đài tưởng niệm.


20


2.2 Những dấu ấn Hindu giáo trong văn hóa Đơng Nam Á
Rõ ràng là quá trình truyền giáo của bốn tôn giáo lớn ở Đông Nam Á đã
làm thay đổi bản chất văn hóa của bộ phận lớn cư dân qua các thời đại. Tuy vậy cơ
sở của Ấn Độ giáo, nhưng ít ảnh hưởng ở Đơng Nam Á, là ý tưởng về đẳng cấp.
Trong những xã hội thoải mái hơn ở Đơng Nam Á, thì đẳng cấp ít có ý nghĩa hơn.
Thực chất, quá trình truyền giáo đồng nhất với q trình hội nhập văn hóa
là do tính bản địa háo và thế tục hóa của tơn giáo. Khi mỗi tôn giáo đã bám rễ và
phát triển ở mỗi cộng đồng tộc người thì sớm hay muộn giai cấp thống trị cũng
phải vào cuộc để điều chỉnh mọi hoạt động của xã hội, điều chỉnh xu hướng bảo vệ
và phát huy những giá trị tinh thần truyền thống của mình.
Những hoạt động cơ bản của văn hóa là chữ viết, văn học, mỹ thuật, và lễ
hội tơn giáo… góp phần bở sung vai trị của tơn giáo trong đời sống văn hóa và
ngược lại, tơn giáo cũng làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của mỡi dân tộc ở
Đông Nam Á.
Ở Việt Nam, do nhiều lần va chạm nên có lúc văn hóa Ấn Độ giáo của
người Chăm đã lưu lạc khắp từ miền Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu
Long và một vài điểm ở Lâm Đồng.
Tượng thần Vishnu cùng tượng các hóa thân của thần ở Ĩc Eo (Việt Nam)
có khn mặt thơ, ngắn, đội mũ trụ, tai đeo trang sức hình lưỡi liềm, có bốn tay,
hai tay trên đã bị gẫy, tay trái dưới cầm tù và đặt ngang hông, tay phải cầm một vật
hình trịn, áo dài rủ xuống tận bệ. Tác phẩm này là bằng chứng cho sự hưng thịnh
của Ấn Độ giáo ở Phù Nam.
Ấn Độ giáo biến thể, nhập thân vào lễ Puis của người Chàm ở VIệt Nam là
một dẫn chứng cụ thể. Mặc dù đây chỉ là lễ hội của một dòng họ nhưng cả hai yếu
tố lễ và hội đều đã kế thừa cách làm của nghi thức cầu mưa nắng của Ấn Độ gióa
với tục thờ cúng tổ tiên. Các vị thần Ấn Độ đã được Chăm hóa như Po Inư Nưga là
sự tởng hịa của các thần Indra, Brahma, Shiva, Vishnu, Harihara, Po Ginor Mưtri

là biến dạng của thần Shiva… và một số tín hdanh của các vị thần vua Chăm đã

21


quá cố; được mời gọi. Lễ hội Katê và tháng bảy hàng năm theo lịch Chăm cũng
diễn ra tương tự, nhưng nội dung và hình thức hướng tới thần Shiva đã được các
đời vua Chăm đồng nhất.
Ở Mỹ Sơn còn nhiều tượng thần Bà la môn giáo như Braman, Shiva,
Vishnu, Rắn thần Naga, Chim thần Garuda, Bò thần Nandin được tạc bằng đá sa
thạch với nhiều tư thế, dáng vẻ. Đặc biệt là tượng Thần Shiva và vợ Thần là
Parvati được kết hợp trong một tượng lớn vừa có râu vừa có vú – tượng độc đáo ở
Đơng Nam Á. Các ngẫu tượng Linga và Yoni (giới nam vật và nữ) với nhiều kích
cỡ cũng được tìm thấy ở Mỹ Sơn, thể hiện quan niệm tín ngưỡng và cả nghệ thuật
điêu khắc Champa một thời. Mỹ Sơn cũng là nơi có số lượng bi ký nhiều nhất
được tìm thấy trong các cơng trình kiến trúc, tín ngưỡng của Champa.
Tuy tất cả các thành viên của Tam vị Ấn Độ giáo – Brahma, Vishnu và Siva
– đều được phản ánh trong những di tích của Đơng Nam Á, nhưng Siva là vị thần
được sùng kính rộng khắp nhất. Sự tơn kính Siva được nối kết chặt chẽ với quyền
lực hoàng gia. Các quốc vương Champa tiếp nhận việc thờ cúng Siva vào nửa sau
thế kỷ thứ 4, theo các bi ký. Một sứ thần từ Phù Nam tới triều đình Trung Hoa đã
báo cáo rằng việc thờ cúng Siva thịnh hành ở đó. Và các vị vua Khmer được sùng
kính và được đồng nhất với Siva, ban đầu dưới hình thức một linga (tượng dương
vật), sau đó là một pho tượng cụ thể. Khi tiếp thu văn hóa Ấn Độ, các dân tộc ở
Đông Nam Á tiếp thu tục thờ cúng Linga (giới vật nam), Yoni (giới vật nữ) và
được coi là thờ năng lực sáng tạo, biểu tượng của thần Siva trong Ấn Độ giáo. Tục
này đã có sự kết hợp, giao thoa với tục thờ sinh thực khí, với tín ngưỡng phồn thực
vốn có ở Đơng Nam Á và trở thành tục lệ phổ cập trong nhiều thế kỷ ở các dân tộc
Đông Nam Á. Ở một số dân tộc ít người, cho đến nay, tục thờ sinh thực khí cịn
được thể hiện trong các tượng nhà mồ, trong các hang động biểu diễn dân gian ở

các vùng núi, hải đảo, thể hiện trong các hình thức nặn tượng bằng đất sét để nung,
trong các lễ vật những người phụ nữ mang theo có hình giới vật nam được đẽo gọt
bằng gỗ, bằng xương thú. Ngày nay, trong các di tích lịch sử ở một số quốc gia
Đơng Nam Á, người ta có thể thấy các ngẫu tượng (sinh thực khí) bằng đá và một
22


số dân tộc vẫn trang trí trong các đền thờ, trong các bảo tàng và trước vườn hoa,
cửa khách sạn dành cho du khách. Một số lễ hội liên quan đến tín ngưỡng phồn
thực vẫn được tái hiện khá sinh động.
Ở các nước hải đảo, chỉ có Indonesia và Malaysia ảnh hưởng nhiều bởi Ấn
Độ giáo.Dường như, “với sự kỳ vĩ của núi Penangungan, Ấn Độ giáo hưng thịnh
và trở thành một trung tâm lớn. Cho đến nay, hai hồ nước Jalatunda và Belahan,
bên cạnh gần tám mươi cụm kiến trúc Ấn Độ giáo vẫn thu hút sự chú ý của nhiều
người. Lễ hội Ấn Độ của người Ba tắc ở Indonesia dùng tiết gà trống bôi vào gậy
múa cầu mưa làm bùa. Lễ hội Navraatri ở Singapore tôn vinh ba vị nữ thần –
truyền thuyết kể là ba bà vợ của các vị thần Brahma, Vishnu, Shiva ở đảo này. Một
người con trai thần Shiva (với nữ thần Shakti) chậm trễ khi mang vật dâng lễ cho
cha, mà nay tín đồ Ấn Độ giáo phải móc vật tượng trưng vào da thị, đi diễu hành
trong lễ hội.
Cụm cơng trình Lơrơ Giơng Grang là cơng trình kiến trúc gồm hàng trăm
ngôi đền lớn, nhỏ được xây dựng trong khuôn viên khá rộng với việc xây nền ba
sân vuông vắn, lồng vào nhau – biểu tượng của ba thế giới: Thần linh, Thánh, trần
tục. Cơng trình được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ IX tại vùng đồng bằng
Prambanan của đảo Java (Indonesia). Cơng trình Lơrơ Giơng Grang để thờ ba vị
Thần tối cao của đạo Hindu là Shiva, Brama và Vishna. Đền thờ Shiva ở chính
giữa, hai đền thờ hai Thần còn lại ở Hai bên và bao bọc là hàng trăm đền khác.
Trong đền thờ hiện còn tượng của một số vị thần được tạc bằng đá, đặc biệt là
tượng Shiva Mahadeva cao 3m trên bệ. Nhiều tượng thần khác cũng khá sinh
động, vừa tạo nên sự trang nghiêm của đền, vừa lôi cuốn con người vào thế giới

tâm linh, thế giới huyền bí. Khi nghiên cứu cơng trình này, các nhà khoa học còn
phát hiện bao điều lý thú: gần nghìn bức tượng và 224 chiếc giếng. Trong giếng ở
đền thờ Thần Shiva có bình hài cốt (tro) và các đồ vật quý bằng vàng, bạc, đồng,
… khẳng định cơng trình cịn là một khu mộ táng lớn. Lơrơ Giơng Grang được
nhìn nhận như một tởng thể các mộ táng và đền thờ các Thần trong Ấn Độ giáo
của Java. Chính xác hơn, đây là đền thờ Shiva giáo. Bôrôbuđur và Lôrô Giông
23


Grang đều là hai mặt của một tổng thể kiến trúc, tởng thể văn hóa của miền Trung
Java thời Cở đại.
Vùng cao nguyên ở Tây Bắc đảo Java (Indonesia) này được coi là nơi thờ
phụng các đấng thần linh của cư dân. Từ thế kỷ thứ VII, vùng cao nguyên này là
nơi các đế vương cho xây dựng các đền tháp do ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
đến đầu thế kỷ XIX khu đền tháp này mới được biết đến. Các cơng trình kiến trúc
đền tháp ở Điêng được xây dựng theo nhóm các Chandi (tên vị thần Dunga – vợ
thần Shiva trong Hindu giáo, gọi theo tiếng Indonesia) và kế cận nhau thành hàng
từ Bắc xuống Nam. Chiều cao thường từ 7 – 8m và chiều dài nền đền tháp thường
là 5 – 6m. Cửa đền mở về hướng tây. Trừ Chandi Semara có kiến trúc khác mở về
hướng đơng, các Chandi cịn lại đều theo phương cách kiến trúc đền tháp của Ấn
Độ giáo với nền vuông, hình khối thu lại trên đỉnh theo cấu trúc ba tầng, các mặt
tháp đều có cột ốp, các ơ khảm đặt tượng Thần. Tồn bộ phần thân của đền tháp
cịn được lắp gờ nổi, tường khá cao và được chia ba ô bằng các cột ốp. Các tầng
mái rất hài hòa với thân tháp và gắn kết bằng bốn tháp nhỏ ở bốn góc hành lang
bao quanh các mái. Ở mỡi nhóm đền tháp cũng có các chi tiết kiến trúc đặc sắc
khác nhau.
Ngoài ra, trên cao nguyên Điêng cũng có các đền tháp khác cùng với các
tượng thần Shiva, Vishnu, Brama,… góp phần tạo nên bức tranh kiến trúc mỹ
thuật tuyệt diệu ở Đông Nam Á. Giống như những vị vua Angkor, những nhà vau
Java trong lúc sống đã được đồng nhất với các thần Ấn Độ giáo như Siva hoặc

Vishnu, và trong lúc chết họ được cho là đã tái hợp nhất với các vị thần đó trong
một bức tượng thần đặt trong đền thờ, đó vừa là ngơi mộ vừa là đài tưởng niệm.
Dù vậy, chỉ có một ít khu vực nơi Ấn Độ giáo vẫn được coi như một tín ngưỡng
phở biến. Nhiều khu như thế vẫn cịn ở Java, nhưng điển hình về Ấn Độ giáo nổi
tiếng nhất là ở đảo Bali… Đẳng cấp cũng tồn tại ở Bali, nhưng quyền lực của
chúng yếu hơn so với ở Ấn Độ. Mơ hình mỡi ngơi làng có ba ngơi đền thờ Ấn Độ
giáo ở Bali khiến cho tởng số các điểm thờ ở đây có đến 10.000 đền đài.

24


Hệ thống văn tự Phạn ngữ, Saneri, Pali.. .của Ấn Độ từ trước C.N đến thế
kỷ X đã được hầu hết các bia ký, văn khắc của các tộc người theo Ấn Độ giáo ở
Đông Nam Á sử dụng. Rất nhiều kinh Phật, bia ký từ các nước lục địa đến hải đảo
đều đã lấy chữ viết cổ của ẤN Độ làm phương tiện khắc bản, in sách. Một bộ phận
nhỏ của các điểm truyền giáo ở Thái Lan, Myanma, Lào, Campuchia, Việt Nam
đều có sự tíêp thu chữ viết này rồi cải tiến thành chữ viết của mình. Điển hình cho
hình thức biến đởi trên là chữ Thái thời Ramkhanhẻng, chữ Lào thời Phạ Ngừm,
chữ Grantha của người Môn ở Myanma, chữ Khơme ở Campuchia và chữ Chăm,
Khơme ở Việt Nam. Thời thịnh của các dạng văn tự Ấn Độ cổ phai nhạt dần từ thế
kỷ XIV trở đi. Đặc biệt, hệ chữ Hán được các chức sắc tôn giáo Đơng Nam Á sử
dụng từ đầu C.N ở phía Bắc Việt Nam. Về văn học, các truyện thơ Deva Mưnô,
Inra Patra, Ariya Bini Căm… của người Chăm đều là truyện tâm lý xã hội có ảnh
hưởng cả tích cực và tiêu cực của Ấn Độ giáo và Hồi giáo.
Ở Thái Lan, pho tượng thần Vishnu phát hiện được tại Chaiya cũng có
phong cách nghệ thuật gần gũi với tượng thần Vishnu ở Óc Eo. tượng thần Vishnu,
Hara Hara, Kalkil mình người đầu ngựa và các nữ thần Laksmi, Uma, Mahisasura,
Mardini và một số tượng Avlokitesvasa phát hiện được ở Campuchia đều diễn tả
tương đối xác thực vứoi giải phẫu cơ thể là biểu hiện sống động nhất ở Đông Nam
Á trước thế kỷ X.

Giao điểm thế kỷ X, khu đền Ăngko và Ăngko Thom ở Campuchia đã tạo
ra một quần thể kiến trúc đồ sộ với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Ấn Độ giáo và
Phật giáo. Angkor Wat cịn có vơ số lan can chạm khắc vơ số hình rắn Thần Nagar
(tượng Bà la mơn giáo). Người thành lập Angkor, vua Yasovarman (trị vì 889 –
910), đã chuyển thủ đơ từ Hariharalaya đến một địa điểm phía bắc Biển Hồ. Ngôi
đền đầu tiên của ông, Phnom Bakheng, được xây trên một ngọn đồi và bản thân nó
mơ tả một ngọn núi, núi Meru, trung tâm của vũ trụ Phật giáo và Ấn Độ giáo và là
trung tâm huyền bí của vương quốc. Bên trong Phnom Bakheng là một linga, một
biểu tượng của dương vật và là dấu hiệu của Siva, nhưng cũng là một biểu tượng
của chính đức vua. (51)
25


×