Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Công tác bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh vĩnh phúc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.57 KB, 105 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức được hình thành bằng nhiều con
đường khác nhau, trong đó giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng là một trong những
con đường cơ bản. Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng là quá trình truyền thụ, bổ
sung tri thức mới, hình thành kỹ năng và kinh nghiệm trong hoạt động của
con người. Vì vậy, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trước hết
phải được bắt đầu từ việc chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng. Lúc sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"; Và
“huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [38, tr.269].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
ln quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Mỗi giai đoạn cách
mạng, dù khó khăn, thiếu thốn, đất nước cịn nghèo nhưng Đảng, Bác Hồ vẫn
chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Hàng chục vạn cán bộ các cấp,
các ngành đã được trang bị kiến thức lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà
nước, chun mơn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học… Nhờ được quan tâm chăm
lo đào tạo, bồi dưỡng mà các thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta đã cơ
bản hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
Trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của đất nước, nhiệm vụ của đội ngũ
cán bộ ngày càng nặng nề. Cơng cuộc cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, đặc
biệt là cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức đang phát triển mạnh
mẽ… thì việc tăng cường bồi dưỡng, cập nhật, bổ sung kiến thức mới cho đội
ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp càng trở nên cấp bách.
Trong thực tế thời gian qua, chất lượng, hiệu quả hoạt động của khơng
ít cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiều nơi, cán bộ cịn lúng túng trong cơng việc có ngun nhân từ cơng
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Khơng ít cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan



2
tâm đúng mức, chưa nhận thức đúng vị trí, vai trị của cơng tác bồi dưỡng.
Khơng ít cán bộ sau khi được đào tạo cơ bản ở các trường lớp thì ít có điều kiện
được bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới, chủ yếu làm việc theo kinh nghiệm.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng chậm
được đổi mới, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cịn đơn điệu. Tình
trạng đào tạo, bồi dưỡng ồ ạt, nặng về lý luận, thiếu kế hoạch, quy hoạch,
chưa gắn với bố trí và sử dụng cán bộ; công tác quản lý vừa chồng chéo, vừa
buông lỏng, lãng phí… thực tế này đang diễn ra trong tất cả các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Xuất phát từ thực tế trên đòi hỏi cần phải chấn chỉnh lại
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở tất cả các cấp, các ngành.
Vĩnh phúc từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay, đội ngũ cán bộ của tỉnh bị
hẫng hụt ở cả ba cấp, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Trong những năm gần đây, đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở tuy đã được củng cố, tăng
cường về nhiều mặt. Đa số họ có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, nhưng trình
độ chun mơn, năng lực cơng tác cịn yếu, vẫn cịn tâm lý ỷ lại, trơng chờ,
nhất là cán bộ chủ chốt ở các xã miền núi, do đó khi chuyển sang cơ chế mới,
năng lực lãnh đạo, điều hành còn hạn chế. Mặt khác, việc đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ trẻ, cán bộ dự nguồn tuy được tỉnh quan tâm nhưng tính chiến lược lâu
dài chưa được chuẩn bị chu đáo. Hầu hết sinh viên tốt nghiệp ở các trường
cao đẳng, đại học đều không muốn về cơ sở cơng tác. Bên cạnh đó, hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở một số nơi, đặc biệt ở các xã miền
núi còn nhiều bất cập. Năng lực triển khai chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa cao, chưa nhận thức đúng đắn về vị
trí, vai trị của việc bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt. Khơng ít cán bộ cịn
ngại học tập hoặc chưa tích cực chủ động học tập nâng cao trình độ.
Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh cịn bất cập. Nội dung,
hình thức đào tạo, bồi dưỡng chậm được đổi mới, chưa thật sự phong phú.
Chất lượng đội ngũ giáo viên còn hạn chế; cơ sở vật chất, phương tiện phục



3
vụ việc dạy và học ở một số nơi còn chưa được đầu tư đúng mức dẫn đến chất
lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng chưa cao. Mặt khác, công tác bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay cịn
chịu thêm ảnh hưởng của những khó khăn về trình độ dân trí, tâm lý, văn hố,
tập qn của địa phương dẫn đến khả năng nhận thức, khả năng tư duy của
đội ngũ cán bộ còn hạn chế làm ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh- quốc phòng của địa phương.
Từ thực trạng trên, nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy những
thành quả đạt được trong những năm vừa qua, góp phần xây dựng đội ngũ cán
bộ cơ sở nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở
Vĩnh Phúc nói riêng “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
thời kỳ mới, tác giả chọn vấn đề nghiên cứu: Công tác bồi dưỡng cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay làm đề tài luận
văn thạc sỹ khoa học Xây dựng Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở nói riêng đã được các Nghị quyết của
Trung ương Đảng, Đảng bộ địa phương nghiên cứu, tổng kết, đánh giá. Đã có
nhiều nhà khoa học, cán bộ thực tiễn, học viên cao học, nghiên cứu sinh quan
tâm nghiên cứu; nhiều cơng trình đã được công bố, nhiều bài viết được đăng
trên các báo, tạp chí. Đáng chú ý các cơng trình sau:
* "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước" của PGS,TS Nguyễn
Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội,
2001. Cuốn sách đã đề cập sâu sắc vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong
thời kỳ mới, trong đó nhấn mạnh cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến
thức tồn diện cả lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học… cho
đội ngũ cán bộ nói chung, trong đó đặc biệt coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán



4
bộ chủ chốt các cấp, các ngành, nhất là bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp cơ sở. Đây là những nội dung rất bổ ích, làm cơ sở cho tác giả luận văn
khẳng định sự cần thiết và cấp bách của công tác bồi dưỡng cán bộ cơ sở
Luận văn Thạc sỹ của Lê Máy (1999): "Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của Trường Chính trị tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay".
Luận văn Thạc sỹ của Vũ Xuân Quảng (2001): "Nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã, phường, thị trấn ở trường chính trị Thái Bình
hiện nay".
Luận văn Thạc sỹ của Thiều Quang Nhàn (2003): "Công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở Thành phố Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp".
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Trung Trực (2005): "Chất lượng công
tác đào tạo cán bộ của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở trường cán
bộ Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - Thực trạng và giải pháp"
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Bích Hường (2006): "Chất lượng
đào tạo cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở trường
Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay".
Đây là những luận văn có nội dung gần gũi với chủ đề nghiên cứu của
luận văn này. Các tác giả luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc nâng cao chất lượng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, cán
bộ cơ sở nói riêng, đánh giá khá thẳng thắn chất lượng dạy và học ở các
trường chính trị. Những nội dung và giải pháp mà các luận văn nêu lên có giá
trị tham khảo tốt cho việc nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở của tỉnh Vĩnh Phúc.
Cùng với các luận văn cịn có nhiều bài viết liên quan đến cơng tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các tác giả đã được đăng trên các tạp
chí, một số bài viết tiêu biểu liên quan đến đề tài luận văn này như:

"Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng u cầu của thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước" của TS Lê Kim Việt, Tạp chí Cộng sản, số 24 (12


5
- 1999); "Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức nhà
nước" của TS Nguyễn Trọng Điều, Tạp chí Cộng sản số 16 ( 8 - 2001); "Giáo
dục lý luận chính trị và đạo đức cho cán bộ hiện nay" của PGS -TS Nguyễn
Tĩnh Gia, Tạp chí Cộng sản số 22 (11 - 2001); "Một số vấn đề về đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở" của Đỗ Tất Cường, Tạp chí Lịch sử Đảng,
số 6 (175)/ 6 - 2005.
Nhìn chung, những cơng trình khoa học, luận văn thạc sỹ và các bài
viết của các nhà khoa học, các tác giả đăng trên các tạp chí nêu trên, đã làm
sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn ở lĩnh vực giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức nói chung, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
chủ chốt cơ sở nói riêng trong tồn quốc và ở những địa phương khác nhau.
Đa số các cơng trình nêu trên đề cập đến cả công tác đào tạo và cả bồi dưỡng
nói chung. Cho đến nay, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một cách
đầy đủ, toàn diện công tác bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về công tác bồi
dưỡng cán bộ ở tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
cơ sở của tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận, các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước về cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Vĩnh Phúc, tìm ra nguyên nhân thành
công, chưa thành công và rút ra một số bài học kinh nghiệm.


6
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở của đảng bộ mà trực tiếp là của các cấp ủy đảng ở tỉnh
Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các văn bản của Đảng, Nhà nước, các
quy định của tỉnh Vĩnh Phúc liên quan đến công tác bồi dưỡng cán bộ và quá
trình tổ chức, triển khai công tác bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ
sở của các cấp ủy đảng ở tỉnh Vĩnh Phúc
Công tác bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cơ sở có rất nhiều nội dung, nhiều
hoạt động, nhiều chủ thể tham gia. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đề
cập cơng tác bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp
vụ cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở của Trường chính trị tỉnh và các trung tâm
bồi dưỡng chính trị cấp huyện ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Vĩnh Phúc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, ngồi ra luận văn cịn sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích và tổng hợp, lơgic và lịch
sử, trong đó chú trọng khảo sát, điều tra, tổng kết thực tiễn để rút ra kết luận.


7
6. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm rõ thêm vị trí, vai trị và mối
quan hệ giữa công tác bồi dưỡng cán bộ và chất lượng đội ngũ cán bộ; những
căn cứ khoa học của việc nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng cán bộ,
nhất là cán bộ chủ chốt trong giai đoạn hiện nay.
Về mặt thực tiễn, luận văn chỉ rõ thực trạng chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cơ sở ở tỉnh Vĩnh Phúc và ngun nhân của nó - nhìn từ góc độ
cơng tác bồi dưỡng cán bộ, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản,
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định
chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị
nói chung, lý luận chính trị Mác- Lênin nói riêng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên tỉnh Vĩnh Phúc. Những kết luận được rút ra trong luận văn và những giải
pháp trình bày trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập ở các trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính
trị cấp huyện nói chung, ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.



8
Chương 1
CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
Ở TỈNH VĨNH PHÚC - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ VÀ CÔNG TÁC BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ - KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRỊ

1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, cán bộ chủ chốt
Cán bộ và cán bộ lãnh đạo chủ chốt là một bộ phận rất quan trọng trong
lực lượng cách mạng của Đảng Cộng sản và nhân dân ta. Trong nghiên cứu
khoa học cũng như trong thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, việc xác
định nội hàm của khái niệm về các chủ thể cán bộ, cán bộ chủ chốt là một vấn
đề rất cần thiết. Từ lâu, các khái niệm cán bộ, cán bộ chủ chốt đã được nhiều
nhà khoa học và cán bộ nghiên cứu nêu lên. Trong nhiều văn kiện của Đảng
và Nhà nước, nhiều cơng trình, đề tài nghiên cứu khoa học về xây dựng đội
ngũ cán bộ, khái niệm cán bộ và cán bộ chủ chốt vẫn tiếp tục được tiếp cận;
danh từ cán bộ và cán bộ chủ chốt ngày càng được định nghĩa chính xác hơn,
rõ ràng hơn đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ cũng như
trong nghiên cứu về cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ở nước ta
hiện nay.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998 viết: “Cán bộ là
người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong các cơ quan nhà nước; cán
bộ là người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người thường khơng có chức vụ”; ví dụ: cán bộ nhà nước, cán bộ
khoa học, cán bộ chính trị [51, tr.105]…
Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, 1999 viết:
“Cán bộ là người trong cơ quan nhà nước”(1)…và “Cán bộ là người giữ chức



9
vụ, phân biệt với người bình thường, khơng giữ chức vụ trong các cơ quan tổ
chức nhà nước”(2) v.v… [52, tr.249].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã để lại trong
nhiều tác phẩm của mình quan niệm của các ông về cán bộ và đội ngũ cán bộ.
C. Mác viết: “Muốn thực hiện tốt những tư tưởng thì cần có những con người
vận dụng một lực lượng thực tiễn” [32, tr.154].
V.I. Lênin viết: “Chính trị là một khoa học và một nghệ thuật, không
phải từ trên trời rơi xuống mà địi hỏi phải có sự cố gắng, rằng giai cấp vô sản
muốn thắng giai cấp tư sản thì phải tạo ra những nhà chính trị giai cấp thực sự
của mình, những nhà chính trị vơ sản và khơng thua kém các nhà chính trị của
giai cấp tư sản” [29, tr.80-81]. Những nhà chính trị giai cấp mà Lênin đề cập
đến ở đây chính là những cán bộ nòng cốt trong các phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đội ngũ cán bộ ấy tất yếu phải
được đào luyện trong phong trào cách mạng của quần chúng; là lực lượng chủ
yếu đưa yếu tố tự giác thay thế tính tự phát trong phong trào cách mạng của
quần chúng, giác ngộ giai cấp công nhân và nhân dân lao động để thực hiện
bằng được mục tiêu của cách mạng.
Khi bàn về cán bộ, V.I.Lênin khẳng định: “Giai cấp vô sản thực hiện
vai trị lãnh đạo của mình thơng qua chính đảng vơ sản, cịn chính đảng vơ sản
thực hiện sự lãnh đạo của mình trước hết thơng qua các cán bộ lãnh đạo của
những nhóm ít nhiều có tính chất ổn định, gồm những người có uy tín nhất, có
ảnh hưởng nhất và người ta gọi đó là các lãnh tụ” [29, tr.30].
Như vậy cán bộ và cán bộ chủ chốt đã được các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đề cập đến rất sớm. Các khái niệm này đã xuất hiện ngay
từ khi các lãnh tụ của giai cấp vơ sản phát hiện vai trị sứ mệnh lịch sử tồn
thế giới của giai cấp cơng nhân. “Cán bộ”, “cán bộ lãnh đạo chủ chốt” hoặc
“những nhà chính trị giai cấp”, “những con người vận dụng một lực lượng

thực tiễn”… đều là cách gọi một bộ phận nòng cốt trong lực lượng cách mạng


10
- đội ngũ cán bộ của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân, của cách mạng.
Một điểm đặc biệt rõ nét trong luận điểm của các nhà kinh điển là: cán bộ gắn
liền với giai cấp; là của giai cấp; vai trò của cán bộ gắn liền với vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân;
gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản và giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động tồn thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại đã sáng lập Đảng Cộng sản và
Nhà nước Việt Nam, Người đã trọn đời chăm lo xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính trị - xã hội, của các lực
lượng vũ trang nhân dân. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ rất
rõ ràng, gần gũi và dễ hiểu: “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính
sách cho đúng” [33, tr.40]. Theo Người, cán bộ dù ở cấp nào cũng có những
chức trách và nhiệm vụ quan trọng. Cán bộ là những người tạo nên sự kết nối,
gắn bó, liên hệ giữa Đảng và Chính phủ với dân chúng.
Theo Luật cán bộ, công chức được Quốc hội ban hành năm 2008 thì:
Cán bộ là cơng dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh trong cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
Qua phân tích trên, khái niệm cán bộ được hiểu theo hai nghĩa:
Một là, cán bộ là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước,
được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ nhiệm hoặc bầu cử để giữ
một chức danh nào đó trong bộ máy nhà nước. Theo nghĩa này, khái niệm cán

bộ có sự khác biệt với những người không là cán bộ khi họ không làm việc
trong bộ máy cơ quan nhà nước, không hưởng lương từ ngân sách nhà nước.


11
Hai là, cán bộ là những người giữ những chức vụ nhất định trong một
tổ chức, là nòng cốt, bộ khung của một tổ chức. Theo nghĩa này, cán bộ khác
với nhân viên, cơng chức bình thường, khơng giữ chức vụ trong bộ máy.
Khái niệm cán bộ chủ chốt cũng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề
cập. Nội dung chủ yếu khi bàn về khái niệm cán bộ chủ chốt được thể hiện:
- Khi nói đến cán bộ chủ chốt là nói tới một bộ phận cán bộ quan trọng
nhất, là những người đứng đầu, có vai trị quyết định phương hướng phát triển
của một tổ chức. Trong cuốn “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo
trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới” của PGS.TS Trần Xuân Sầm viết:
cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những cán bộ lãnh đạo nhưng là lãnh đạo tồn
diện, có trọng trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải
quyết các vấn đề và chịu trách nhiệm trước tập thể.
Tuy có những ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung, nội hàm khái niệm
cán bộ chủ chốt đều có chung những nội dung cơ bản. Đó là: Cán bộ chủ chốt
là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong một tập
thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và quyền
điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ
của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối dẫn dắt toàn bộ hoạt
động của một tổ chức nhất định.
Đây là bộ phận cán bộ rất quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động
của tổ chức và của cả hệ thống chính trị. Việc xác định cán bộ chủ chốt hay
không chủ chốt nên căn cứ vào chức trách cụ thể của mỗi người cán bộ và đặt
nó trong mối quan hệ với tồn bộ hệ thống tổ chức. Có cán bộ ở cương vị này,
trong tổ chức này là chủ chốt, nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác thì
khơng phải là chủ chốt.

Như vậy có thể hiểu khái niệm cán bộ và cán bộ lãnh đạo chủ chốt với
nhiều cách và dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung khi bàn về cán bộ và
công tác cán bộ, mỗi cách tiếp cận đều nêu lên những nội dung chủ yếu phù


12
hợp với những vấn đề đang được nghiên cứu. Tuy vậy, khi đề cập đến vấn đề
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của cấp cơ sở trong hệ thống chính trị, tại
một địa bàn cụ thể ở nước ta hiện nay thì cán bộ và cán bộ chủ chốt cần được
hiểu trên những tiêu chí chủ yếu sau:
- Cán bộ là những người làm việc trong một tổ chức nhất định: trực
tiếp hoặc tham gia vào hoạt động lãnh đạo trong một phạm vi nhất định; có
chức vụ hoặc được các cơ quan có thẩm quyền giao cho những quyền hạn
nhất định.
- Cán bộ phải được đào tạo, huấn luyện, có trình độ chun mơn có thể
hồn thành các nhiệm vụ được giao phó;
- Phải được tổ chức và nhân dân tín nhiệm.
Đó cũng chính là những điều kiện đầu tiên để đề bạt, bổ nhiệm, bố trí
cán bộ. Cịn người cán bộ có phát huy được vai trị của mình hay khơng lại
địi hỏi ở sự nỗ lực cố gắng của bản thân người cán bộ; ở quá trình đào tạo,
bồi dưỡng, kiểm tra và tạo điều kiện để người cán bộ hoàn thành chức trách
nhiệm vụ; ở sự tác động của tổ chức và công tác cán bộ nơi người cán bộ đó
đang hoạt động.
Bàn về cán bộ và cán bộ chủ chốt cũng cần phải có phương pháp xem
xét tồn diện và lịch sử, khơng thể cứng nhắc khi xác định các cương vị lãnh
đạo chủ chốt, ở cương vị này, họ là cán bộ chủ chốt nhưng cũng với con
người ấy được đặt trong các mối liên hệ khác lại không phải là cán bộ chủ
chốt. Trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, có thể xác định một số chức
danh chủ chốt như:
- Trong tổ chức đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động theo nguyên

tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thơng thường, các đồng chí trong Ban
thường vụ các cấp ủy là những người được phân công chịu trách nhiệm phụ
trách một mảng công việc, hoặc đứng đầu một cơ quan, đơn vị. Vì vậy, họ là
những cán bộ chủ chốt của cơ quan, đơn vị đó.


13
- Trong tổ chức bộ máy nhà nước: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân là các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp và hành pháp ở địa phương, Chủ
tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân là những người chịu
trách nhiệm trước đảng bộ và nhân dân trong xã, trước cấp trên trong việc tổ
chức các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống nhân dân. Họ
là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở địa phương
- Trong các đồn thể chính trị - xã hội, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và
trưởng các đoàn thể nhân dân là những người chiyuj trách nhiệm trong việc tổ
chức chăm lo lợi ích cho hội viên, tổ chức các hoạt động của các đoàn thể, tổ
chức các phong trào cách mạng của nhân dân. Học là người chịu trách nhiệm
trước Đảng, chính quyền và nhân dân về mọi hoạt động của tổ chức, đồn thể
đó. Họ là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tổ chức đồn thể đó
Với nhận thức trên, ở địa bàn cơ sở, cán bộ chủ chốt bao gồm: Bí thư,
phó Bí thư đảng ủy, Chủ tịch UBND, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc, Chủ tịch Hội Nơng dân, Bí thư Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ.
1.1.1.2. Khái niệm bồi dưỡng
Trong công tác cán bộ cũng như trong đời sống thường ngày, chúng ta
rất hay dùng cụm từ đào tạo, bồi dưỡng để chỉ một hoạt động rất quan trọng
của công tác cán bộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và của từng
người cán bộ. Tuy giữa đào tạo và bồi dưỡng đều có chung một mục đích là
trang bị tri thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành các phẩm chất nhân cách cho
con người, đều có chung một phương thức là thông qua người truyền thụ là

các giảng viên, báo cáo viên và đối tượng được truyền thụ tri thức là học viên
và thông qua các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng… Nhưng giữa đào tạo và bồi
dưỡng là khái niệm không đồng nhất.
Đào tạo là quá trình truyền thụ tri thức một cách hệ thống, cơ bản, với
thời gian lâu dài hơn. Quá trình đào tạo là quá trình tạo ra một chất mới cho


14
người học, từ chưa có đến có đầy đủ những tri thức cơ bản của một lĩnh vực
nhất định. Sau khi được đào tạo, người học đạt đến một trình độ mới, một giá
trị mới về chất.
Bồi dưỡng là hoạt động nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức mới, nâng
cao kỹ năng chuyên môn cho người học khi những kiến thức, kỹ năng được
đào tạo trước đây đã lạc hậu hoặc khơng đủ để thực hiện có hiệu quả cơng
việc được giao. Bồi dưỡng thường có thời gian ngắn, một hoặc hai tuần, dài là
một hai tháng. Bồi dưỡng được xác nhận bởi các chứng chỉ. Trong đời sống
xã hội hiện thực, do sự biến đổi nhanh chóng của khoa học-công nghệ, tri
thức mới luôn được sản sinh, hiện thực cuộc sống ln thay đổi, do đó con
người muốn hồn thành nhiệm vụ, cơng việc của mình thì phải được bồi
dưỡng thường xuyên.
Trong công tác lãnh đạo, quản lý do sự thay đổi trong đời sống kinh tế xã hội diễn ra thường xuyên dưới tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ
và phát triển của khoa học quản lý làm cho những kiến thức kỹ năng chuyên
môn của cán bộ trong mỗi cơ quan luôn bị lạc hậu đòi hỏi người cán bộ phải
được bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ, năng lực và các phẩm
chất cần thiết khác. Từ nhận thức đó, có thể hiểu,
Bồi dưỡng cán bộ là toàn bộ các hoạt động của chủ thể quản lý cán bộ
và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm bổ xung, cập nhật kiến thức
mới, góp phần nâng cao năng lực, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cho người
cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Theo phân cấp quản lý, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là các

hoạt động của cấp ủy cơ sở, của Ban Chấp hành Huyện ủy, Thường vụ Huyện
ủy và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là các trường chính trị, các trung
tâm bồi dưỡng chính trị… nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức mới, góp phần
nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ được giao.


15
1.1.2. Vị trí, vai trị đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Ở nước ta đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng là bộ phận rất quan trọng trong nền hành
chính quốc gia, có thể nói tầm quan trọng ấy tựa như xương sống của một cơ
thể. Nền hành chính nước ta khơng chỉ nằm trong hệ thống hành pháp như
cách hiểu của nhiều nước trên thế giới. Do đặc điểm cấu trúc của thế chế
chính trị ở nước ta nền hành chính được quan niệm theo nghĩa rộng. Nó bao
gồm hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước của Nhà nước, hoạt
động xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội vì một mục tiêu chung là phát
huy sức mạnh tổng hợp của đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, chúng ta càng thấy rõ vị trí, vai trị của đội ngũ
cán bộ, cơng chức nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở.
Vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được thể hiện qua
các mối quan hệ sau đây:
Thứ nhất, quan hệ với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước.
Giữa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và đội ngũ cán bộ chủ chốt có mối quan hệ biện chứng. Có cán bộ tốt
mới có thể đề ra đường lối, chủ trương đúng; chỉ có trên cơ sở đường lối đúng
mới có thể sản sinh ra đội ngũ cán bộ tốt. Người cán bộ là người đem chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thi hành trong nhân dân, đồng thời

nắm tình hình nhân dân để báo cáo với Đảng và Nhà nước để hiểu rõ mà xây
dựng chủ trương, chính sách, pháp luật cho đúng với nguyện vọng của nhân
dân. Quan hệ giữa đường lối, chính sách với cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở là mối quan hệ nhân quả. Khơng có đội ngũ cán bộ tốt thì đường
lối, chủ trương, chính sách đúng cũng khơng thể thành hiện thực trong cuộc
sống. Bởi vì đội ngũ cán bộ chính là nhân tố quyết định sự thành bại của
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.


16
Thứ hai, quan hệ với hệ thống tổ chức bộ máy
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở nói riêng là nhân tố hàng đầu và “động” nhất của hệ thống
tổ chức bộ máy. Là người lập ra tổ chức và điều hành tổ chức bộ máy song
đội ngũ cán bộ lại chịu sự chi phối ràng buộc của tổ chức. Tổ chức quyết
định phương hướng và hành động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có sức mạnh khi gắn với tổ chức và nhân danh
tổ chức. Tách khỏi tổ chức thì cán bộ chủ chốt mất sức mạnh quyền lực và
hiệu lực do tập thể tạo nên. Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt là kết quả
tổng hợp của các khâu quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng,
đánh giá, điều động, bổ nhiệm, kiểm tra, giám sát, phê bình…và sự nỗ lực
phấn đấu của từng người.
Muốn có cán bộ lãnh đạo, quản lý tốt thì phải có tổ chức bộ máy vững
mạnh. Tổ chức mạnh khiến từng người mạnh và từng người mạnh khiến cả tổ
chức mạnh. Do đó, muốn có cán bộ lãnh đạo, quản lý tốt thì phải gắn cơng tác
xây dựng đội ngũ cán bộ với tổ chức và chăm lo xây dựng tổ chức. Xây dựng
tổ chức phải đi đôi với xây dựng con người và xây dựng con người phải gắn
với xây dựng tổ chức.
Trên cơ sở nhiệm vụ chính trị mà xây dựng tổ chức, xác định cần bao
nhiêu cán bộ, những loại cán bộ gì, tiêu chuẩn ra sao, căn cứ vào đó mà lựa

chọn, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo cho phù hợp làm cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ln thích ứng với tổ chức, tạo điều kiện cho sự phát triển của tổ
chức. Để có thể kết hợp cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt với thiết
kế tổ chức bộ máy, phải thực hiện nguyên tắc từ tổ chức, từ cơng việc mà bố
trí sắp xếp cán bộ chủ chốt chứ không phải làm ngược lại.
Sự cồng kềnh, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của bộ máy là
nguyên nhân làm giảm vai trò và tác dụng của đội ngũ cán bộ chủ chốt; làm
cho cán bộ không phát huy được tính năng động sáng tạo, đồng thời cũng là
nguyên nhân của tính quan liêu và nhiều biểu hiện tiêu cực khác.


17
Thứ ba, quan hệ với chức trách và công việc
Trong qúa trình thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố, vai trò của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là cực kỳ quan trọng. Họ là người vạch ra kế
sách để thực hiện mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hóa ở nước ta, đồng
thời lại là người quản lý q trình thực hiện và cũng chính là người gương
mẫu thực hiện những mục tiêu đó. Có thể khẳng định rằng, không thể thực
hiện thành công sự nghiệp đổi mới ở nước ta với một nền hành chính vừa
cồng kềnh, vừa thiếu dân chủ và một đội ngũ cán bộ chất lượng thấp, cơ cấu
không hợp lý. Cần phải xem đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt là nguồn
nhân lực để khai thông mọi nguồn lực khác trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế, là trung tâm của nguồn lực “con người”.
Thứ tư, quan hệ với phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân
Tiến hành bồi dưỡng cán bộ phải kết hợp với phong trào quần chúng
mới có hiệu quả. Vì đây là mối quan hệ có tính biện chứng.
Thực tiễn cuộc sống mà tiêu biểu là phong trào cách mạng của quần
chúng làm sản sinh những cán bộ lãnh đạo, quản lý tốt, có chất lượng cao. Đó
là mơi trường rèn luyện, thử thách và sàng lọc cán bộ. Mặt khác cán bộ lại là
người tuyên truyền, tổ chức duy trì phong trào cách mạng của quần chúng.

Khơng thể có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo tốt nếu không duy trì được
phong trào cách mạng của quần chúng và cũng khơng thể có phong trào cách
mạng sơi nổi, liên tục nếu khơng có đội ngũ cán bộ chủ chốt tốt. Do đó, muốn
có đội ngũ cán bộ lãnh đạo tốt thì khi tiến hành cơng tác bồi dưỡng cán bộ
phải quan tâm xây dựng phong trào cách mạng của quần chúng, thông qua
phong trào để lựa chọn, đánh giá cán bộ để đưa đi đào tạo, bồi dưỡng. Cán bộ
được đào tạo, bồi dưỡng rồi lại phải được thử thách, rèn luyện trong phong
trào cách mạng của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở “cán
bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đấy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Sở dĩ cán bộ có vai trị lãnh đạo quản lý vì ở nước ta chỉ có Đảng Cộng sản


18
Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Do đó, khi người cán bộ là
người đảng viên nắm các chức vụ quyền lực trong bộ máy nhà nước thì dễ
dẫn đến quan liêu, hách dịch, xa rời quần chúng, lợi dụng chức quyền để tham
nhũng, lãng phí, xa hoa, hưởng lạc. Điều này đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo
chủ chốt phải không ngừng rèn luyện tu dưỡng phẩm chất đạo đức và năng
lực để hết lòng phụng sự nhân dân, thật sự vừa là người lãnh đạo vừa là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Có thể nói rằng, một Nhà nước mạnh trước hết được thể hiện ở đội
ngũ cán bộ, công chức nhất là ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Xây
dựng và củng cố đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là một tất yếu
khách quan để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và thực hiện hiệu
quả công tác quản lý của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở có vai trò quyết định trong sự
nghiệp đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
sướng và lãnh đạo. Trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục, rèn luyện,
bồi dưỡng nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách
mạng, trình độ trí tuệ, năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo quản lý ở cấp cơ sở là công việc rất quan trọng và cần thiết. Đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần được xem xét cả số luợng và chất lượng. Đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đủ về số lượng, đáp ứng về cơ cấu và chất
lượng mới có thể thực hiện được vai trị của mình.
1.1.3. Vị trí, vai trị, nội dung, hình thức và phương pháp bồi dưỡng
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.1.3.1. Vị trí, vai trị của cơng tác bồi dưỡng cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở
Trong lịch sử đấu tranh của xã hội loài người, mọi giai cấp thống trị đã
thông qua hệ thống giáo dục làm công cụ truyền bá những tư tưởng chính trị
của mình, để tạo ra được những người có khả năng chuyển hóa ý thức giai cấp
trong thực tiễn, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Điều đó càng cần


19
thiết trong việc xây dựng một lực lượng tiên phong, có trình độ lãnh đạo,
quản lý tốt nắm giữ những cương vị trọng trách trong hệ thống bộ máy thống
trị và lãnh đạo. Lênin đã chỉ rõ: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của
mình những lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào” [26, tr.473].
Bồi dưỡng với chức năng chủ yếu là trang bị kiến thức, kinh nghiệm kỹ
năng hành động; đồng thời giúp người học hình thành những phẩm chất chính
trị, tư tưởng, đạo đức để tạo nên những phẩm chất tư duy và hành động đáp
ứng yêu cầu đặt ra của cách mạng. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng người học
tiếp thu những tri thức, kinh nghiệm của loài người, và quy luật của tự nhiên,
xã hội để vận dụng vào trong thực tiễn cơng tác của mình.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu có ý nghĩa quyết định đến trình độ
và chất lượng của cán bộ. Chất lượng của đội ngũ cán bộ được biểu hiện ở
kiến thức, năng lực, phẩm chất và hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều

hành của người cán bộ. Chất lượng của đội ngũ cán bộ được hình thành do
nhiều nhân tố tác động, trong đó được hình thành qua con đường đào tạo, bồi
dưỡng và thông qua tự học tập rèn luyện trong phong trào đấu tranh cách
mạng. Chính vì vậy, muốn xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trước hết phải bắt đầu từ việc chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện
và giáo dục cán bộ.
Nhận thức được tầm quan trọng và vai trị của cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng trong sự nghiệp cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan
tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cốt cán. Chủ tịch Hồ Chí Minh
coi việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo có tâm và có
tầm, hay nói cách khác vừa hồng vừa chuyên là một trong những nội dung
quan trọng để xây dựng được một Đảng mạnh. Người chỉ rõ là Đảng phải
không ngừng nâng cao năng lực trí tuệ. Mà trí tuệ của Đảng được quyết định


20
bởi trình độ của đội ngũ đảng viên. Bởi vậy, ngay từ đầu khi chuẩn bị cho
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, nhất là từ khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh
đã rất chú trọng đến việc học, đặc biệt là học tập lý luận của đảng viên. Học
tập, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là phương thức quan trọng để mỗi đảng viên
cũng như toàn Đảng khắc phục được bệnh chủ quan duy ý chí. Bởi vì, theo
Người, nguyên nhân của căn bệnh này là “kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc
lý luận suông”. Người chỉ rõ: “Làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng
cũng phải học. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà yêu cầu
họ làm cách mạng thì họ sẽ khơng làm trịn được nhiệm vụ” [41, tr.224].
Người quan niệm để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên tùy theo yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng, phải không ngừng nâng cao về phẩm chất và năng
lực, về đức, về tài, về trình độ lý luận, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ

chuyên môn đến sự hiểu biết thực tiễn, từ lề lối làm việc, phương pháp và
phong cách lãnh đạo, cơng tác đến cuộc sống bình thường, mẫu mực của một
cơng dân. Hơn thế nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra việc giáo dục lý luận cho
cán bộ, đảng viên là một nhiệm vụ thường xuyên.
Năm 1941, từ nước ngoài trở về trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng
trong nước, Người quan tâm ngay đến việc mở lớp huấn luyện về chương
trình Việt Minh cho cán bộ và các lớp dạy chữ cho đồng bào dân tộc. Người
chỉ đạo một chương trình hành động gắn với việc trả lời 5 câu hỏi:
Huấn luyện cho ai ?
Huấn luyện những gì ?
Huấn luyện trong bao lâu ?
Huấn luyện ở đâu ?
Lấy gì ăn mà huấn luyện ?


21
Trên tất cả, Người nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định
được đúng đắn mục đích huấn luyện - tức là huấn luyện để làm gì. Về phía
người học, tư tưởng của Người được thể hiện rõ qua lưu bút của Người trong
trang đầu quyển sổ vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương.
“Học để

làm việc
làm người
làm cán bộ.

Học để

phụng sự đoàn thể
Giai cấp và nhân dân

Tổ quốc và nhân loại [43, tr.729].

Năm 1947, Người chỉ ra: “Các cơ quan cần phải rất chú ý đến việc huấn
luyện cán bộ. Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn
luyện. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy” [37, tr.273]. Đồng thời,
theo Người đào tạo cán bộ không phải là vấn đề cả một thời điểm mà của suốt
cả quá trình hoạt động của cán bộ. Vấn đề là ở chỗ “không phải vài ba tháng
hoặc vài ba năm mà đào tạo được một cán bộ tốt. Cần phải công tác đấu tranh,
huấn luyện lâu năm mới được” [43, tr.619].
Nói cách khác, “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [37, tr.269],
“Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối
quý báu; phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho cơng
việc chung của chúng ta”[37, tr.273].
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 2, tháng 3/1931 đã nhấn mạnh:
“Việc đào tạo nhân tài để làm việc Đảng là một vấn đề rất cần kíp…là điều
kiện cốt yếu cho sự phát triển của Đảng” [3, tr.254]. Hội nghị cũng nêu rõ:
Ban Trung ương và các xứ phải đặc biệt mở các lớp huấn luyện
đồng chí, đào tạo các cán bộ am hiểu con đường chính trị và những
chính sách tổ chức mới, biết đối phó với các biến cố xảy ra bởi
những thời cục thay đổi ở trong xứ và trên trường quốc tế và đủ


22
năng lực lãnh đạo dân chúng trong cuộc đấu tranh địi tự do, hịa
bình, cơm áo [4, tr.248].
Tư tưởng đó được quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
nước ta cả trong cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, trong kháng
chiến chống thực dân đế quốc và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì
vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta khơng ngừng được nâng cao
về trình độ chun mơn nghiệp vụ, năng lực, từng bước trưởng thành và đã

hoàn thành nhiệm vụ được giao trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, yêu cầu đào tạo, bồi
dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ chế quản
lý ngày càng trở nên cấp bách. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) đã đề ra
mục tiêu cải cách nền hành chính nhà nước, trong đó vấn đề đào tạo, bồi
dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Đặc
biệt, chiến lược cán bộ thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) đề ra, đã chỉ rõ việc học tập là quyền lợi và
nghĩa vụ của cán bộ “mọi cán bộ, công chức phải có kế hoạch thường xun học
tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, chun mơn và năng lực thực tiễn, bồi
dưỡng đạo đức cách mạng” [14, tr.89]. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng
xác định: tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là
khâu then chốt để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý nhà
nước, đảm bảo thành công của sự nghiệp cách mạng.
Thực tiễn cách mạng cũng đã chứng minh rằng, ở đâu, lúc nào Đảng,
Nhà nước chăm lo đầy đủ công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện
cán bộ thì ở đó đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, hồn thành tốt nhiệm vụ;
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước được thực hiện đầy đủ, phong trào
quần chúng mạnh mẽ, dân tin Đảng và gắn bó với Đảng, ngược lại nếu nơi
nào cấp ủy đảng, chính quyền khơng chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thì
nơi đó hoạt động lãnh đạo kém, phong trào quần chúng yếu.
1.1.3.2. Nội dung bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở


23
Nội dung, hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong
mỗi giai đoạn có khác nhau. Nó chịu sự quy định của đường lối, mục tiêu,
nhiệm vụ của cách mạng đặt ra. Khi nhiệm vụ cách mạng thay đổi thì nội
dung, hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phải thay đổi. Nhất là trong
mỗi bước ngoặt của cách mạng đặt ra. Khi nhiệm vụ cách mạng thay đổi thì nội

dung, hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phải thay đổi. Nhất là trong
mỗi bước ngoặt của cách mạng. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng được quy định bởi
nội dung của nhiệm vụ chính trị, đó là tính tất yếu khách quan, vì nhiệm vụ cách
mạng ln đặt ra và địi hỏi những lực lượng tổ chức thực tiễn tương ứng cả về
tư duy, trí tuệ, cả về phẩm chất và năng lực. Chỉ có sự tương ứng về trí tuệ, về tư
duy thì đổi mới có thể ngang tầm về năng lực hành động, mới đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn. Cách mạng nước ta đã và đang có sự thay đổi, nhiệm vụ chính
trị của Đảng đã có sự thay đổi. Từ nhiệm vụ trọng tâm là lãnh đạo nhân dân
giành chính quyền, giành độc lập tự do sang nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng
kinh tế, địi hỏi cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ phải có sự thay đổi
cả về nội dung, hình thức và phương pháp. Đó là địi hỏi của thực tiễn cách
mạng nước ta đối với mỗi người cán bộ và với công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ trong giai đoạn mới.
Để có nội dung bồi dưỡng phù hợp với từng loại cán bộ, một trong
những vấn đề quan trọng là xác định được nhu cầu cần bồi dưỡng của cán bộ.
Xác định nhu cầu bồi dưỡng là bước đầu tiên rất quan trọng. Bởi vì nếu khơng
xuất phát từ nhu cầu thì rất dễ xảy ra tình trạng nhiều bằng cấp, chứng chỉ
nhưng học xong khơng áp dụng được gì vì nội dung xa rời thực tế, không thiết
thực cho công việc của cán bộ. Khi đánh giá nhu cầu bồi dưỡng cần xem xét
đến nhu cầu của xã hội, các chương trình phát triển kinh tế đặc thù của từng
vùng, yêu cầu về ngành nghề cần đào tạo, hiện trạng chất lượng nguồn nhân
lực. Việc xác định nhu cầu đào tạo của một ngành, lĩnh vực rất có ý nghĩa cho
các cơ sở chuẩn bị đào tạo.


24
Xác định các mục tiêu bồi dưỡng là khâu quan trọng để xác định nội
dung bồi dưỡng. Đó là quá trình xác định những thơng tin, kiến thức mà
người học cần thu nhận được khi kết thúc khóa đào tạo, bồi dưỡng; là những
kỹ năng cần có mà người học có thể làm được sau khóa đào tạo, bồi dưỡng;

về nhận thức đó là những quan điểm hoặc niềm tin mà người học có được sau
đào tạo, bồi dưỡng.
Xây dựng nội dung bồi dưỡng phải dựa trên cơ sở của nhu cầu, mục
tiêu bồi dưỡng và phù hợp với đối tượng được bồi dưỡng. Xác định nội dung
bồi dưỡng phải đảm bảo thực hiện các mục tiêu của chương trình bồi dưỡng.
Lựa chọn phương pháp bồi dưỡng là hết sức quan trọng vì phương pháp tốt sẽ
ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả bồi dưỡng.
Hiện nay, theo quy định của Ban Tổ chức Trung ương, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ và theo Quyết định số 184QĐ/TW, số 185-QĐ/TW của Ban Bí thư, nội dung bồi dưỡng cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở hiện nay được quy định gồm: Bồi dưỡng lý luận chính trị - hành
chính; quản lý nhà nước, quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước; các kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại
ngữ, tin học…
1.1.3.3. Hình thức và phương pháp bồi dưỡng cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở
Hình thức đào tạo, bồi dưỡng cần đa dạng phong phú. Kết hợp đào tạo
chính quy với các hình thức khác, phù hợp với từng loại cán bộ. Tăng cường
và nâng cao chất lượng các lớp bồi dưỡng theo chuyên đề. Kết hợp đào tạo tại
trường, lớp với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của cấp uỷ cơ sở thơng qua việc sắp
xếp, bố trí, luân chuyển cán bộ của cấp uỷ cơ sở, thông qua việc rèn luyện
trong thực tiễn công tác, trong lao động sản xuất, trong phong trào quần
chúng ở cơ sở.


25
Có chế độ khuyến khích và bắt buộc cán bộ tự học, tự nghiên cứu. Định
kỳ kiểm tra kiến thức và trình độ nghiệp vụ đối với từng loại cán bộ cơ sở.
Có quy chế kiểm sốt việc sử dụng cán bộ sau đào tạo đảm bảo làm
đúng ngành nghề và chấp hành sự phân công của tổ chức.
- Kiện toàn hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở địa phương cần được củng cố,
tăng cường để đảm nhiệm tốt việc đào tạo, bồi dưỡng các loại cán bộ theo
phân cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, kinh phí đào tạo, bồi
dưỡng, cải tiến việc biên soạn giáo trình, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên của các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở địa phương và các trung tâm
bồi dưỡng chính trị quận, huyện, thị xã…
1.1.4. Căn cứ để tiến hành công tác bồi dưỡng cán bộ chủ chốt
Để làm tốt công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ được giao cần phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi
đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý để đề ra chương trình, mục tiêu của khóa
học, vì mỗi loại cán bộ có chức trách, u cầu riêng về trình độ, tiêu chuẩn.
Những căn cứ để tiến hành công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt là:
Một là, căn cứ vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt đối với sự nghiệp
cách mạng của đất nước.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Họ là một trong những
nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công hay thất bại của tổ chức.
Khi đánh giá về vai trò của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rằng:
cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt,
khơng chạy thì động cơ dù có tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng bị tê
liệt. Cán bộ là những người đem đường lối, chính sách của Chính
phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng khơng thể thực hiện được [37, tr.54].


×