Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của thành uỷ thành phố hồ chí minh giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.75 KB, 118 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân tài là tinh hoa của đất nước. Xã hội nào cũng cần đến nhân tài,
càng nhiều nhân tài, xã hội càng có nhiều cơ hội để phát triển. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài.”
[37, tr.451]. Từ lâu đời, dân tộc Việt Nam đã nhận thức sâu sắc giá trị của nhân
tài. Nhận thức ấy được cha ông ta tổng kết và coi đó là phương châm chỉ đạo
việc đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài của đất nước trong các thời đại.
Trên bia Tiến sĩ năm 1484 (ghi lại khoa thi năm 1442) ở Văn Miếu Quốc Tử
Giám đã khắc câu nói nổi tiếng:
Hiền tài là ngun khí của quốc gia; ngun khí mạnh thì thế
nước mạnh mà hưng thịnh; ngun khí suy thì thế nước yếu mà thấp
hèn; thì thế các bậc thánh vương, đế minh khơng đời nào là không lấy
việc vun trồng kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài làm cơng việc cần kíp [39, tr.4].
Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng, Nhà nước ta sớm có chủ trương trọng dụng và thu hút nhân
tài. Tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, quan điểm của Đảng trong các
thời kỳ cách mạng đã thể hiện rõ sự nhất quán về vấn đề trọng dụng và thu
hút nhân tài phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, quan điểm, chính sách lớn
của Đảng về trọng dụng và thu hút nhân tài đã được các cấp ủy đảng ở các địa
phương nhận thức, cụ thể hóa thành các chủ trương, chính sách phù hợp trong
từng thời kỳ cách mạng và lãnh đạo tổ chức thực hiện, đạt được kết quả quan
trọng. Nhân tài của đất nước đã được quan tâm vun trồng, bồi dưỡng và trọng
dụng, nhân tài ở ngoài nước, nhất là những người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đã được thu hút vì sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lực lượng này đã góp phần đáng ghi nhận vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.



2
Tuy nhiên, hiện nay, việc xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng,
thu hút nhân tài của khơng ít cấp ủy địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, yếu
kém, bất cập; chưa đồng bộ; chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ để
trọng dụng và thu hút nhân tài. Những hạn chế, bất cập ấy, đã ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển mọi mặt của địa phương và đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước; yêu
cầu của việc thực hiện chủ trương mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế; đi tắt, đón đầu, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa
nước ta với các nước trong khu vực và một số nước trên thế giới, theo kịp và
vượt các nước đó; xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên đất
nước ta, việc trọng dụng và thu hút nhân tài đáp ứng yêu cầu đó, càng cần
thiết và trở thành vấn đề cấp bách. Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đề ra các
chính sách đúng đắn hơn về vấn đề này. Các cấp ủy đảng ở địa phương cần
nhận thức sâu sắc, cụ thể hóa thành các chính sách phù hợp nhằm thực hiện
tốt chủ trương, chính sách của Đảng về trọng dụng và thu hút nhân tài.
Thành phố Hồ Chí Minh, theo lời phát biểu của ngun Tổng Bí thư
Nơng Đức Mạnh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ VIII:
Thành phố Hồ Chí Minh là đơ thị lớn nhất nước, một trung tâm
lớn về kinh tế, văn hố, khoa học, cơng nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế
quan trọng, mỗi thuận lợi hay khó khăn, mỗi thành cơng hay khơng
thành cơng, mỗi bước đi nhanh hay chậm, bền vững hay thiếu bền vững
của Thành phố đều có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp phát triển chung
của khu vực và cả nước [14, tr. 88].
Vì thế, Đảng bộ Thành phố cần có đội ngũ cán bộ tài năng để lãnh đạo tòan
diện các mặt của đời sống xã hội đảm bảo cho Thành phố phát triển bền vững.
Trong những năm qua, Thành ủy Thành phố đã coi trọng vấn đề này, đã
đề ra các chính sách và đầu tư khá lớn vào việc đào tạo nguồn nhân lực chất

lượng cao, thí điểm thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với các nhà khoa


3
học và cán bộ trẻ có trình độ đại học và trên đại học đến làm việc tại một số
địa bàn, lĩnh vực của Thành phố. Đồng thời, triển khai một số chương trình
lớn, như: Chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ; chương trình thu hút sinh viên
ưu tú và cán bộ công chức trẻ, giỏi đưa vào quy hoạch trở thành cán bộ lãnh
đạo, quản lý…Các chính sách đó được thực hiện đạt kết quả đáng ghi nhận,
thu hút nhiều người tài giỏi vào làm việc trong các tổ chức của hệ thống chính
trị (HTCT) Thành phố; bổ sung cho Thành phố một lực lượng cán bộ lãnh
đạo, quản lý và cán bộ chun mơn có chất lượng, đóng góp tích cực vào
cơng cuộc đổi mới, CNH, HĐH trên địa bàn.
Tuy vậy, việc xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu hút
nhân tài của Thành ủy Thành phố vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý;
chất lượng nhiều chính sách cịn thấp; việc triển khai thực hiện cịn nhiều yếu
kém; các chính sách đó chưa thực sự tạo động lực mạnh mẽ về trọng dụng và
thu hút nhân tài vào một số lĩnh vực cần thiết. Cạnh đó, nhiều tổ chức và cơng
ty nước ngồi thuê lao động trình độ cao với mức lương hấp dẫn đã hút nhiều
người tài của Thành phố sang làm việc ở các tổ chức, cơng ty đó. Nhiều người
có năng lực đã rời bỏ cơ quan nhà nước đến làm việc cho các doanh nghiệp,
tạo nên tình trạng “chảy máu chất xám” đáng báo động và suy nghĩ, trở thành
điều đáng quan tâm nhất trong cả nước.
Để đáp ứng nhiệm vụ nặng nề của sự nghiệp CNH, HĐH, đưa Thành
phố ngày càng tiến lên vững chắc, xứng đáng với vị trí và kỳ vọng của nhân
dân cả nước, địi hỏi Thành ủy phải luôn coi trọng xây dựng các thế hệ cán bộ
nối tiếp với nhiều người có đức, có tài, đủ sức đảm đương các trọng trách,
đồng thời ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nêu trên. Đạt được điều này, bên
cạnh việc triển khai thực hiện tốt công tác tổ chức, cán bộ, Thành ủy cần quan
tâm nhiều hơn nữa đến việc xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu

hút nhân tài, đặc biệt là chính sách trọng dụng, đãi ngộ thu hút người tài tham
gia hoạt động trong các đơn vị sự nghiệp công và cơ quan Nhà nước. Nghiên
cứu tìm giải pháp xây dựng và thực hiện tốt chính sách trọng dụng, thu hút


4
nhân tài của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nêu trên thực
sự là vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Là một cán bộ công tác tại Ban Tổ chức Thành ủy Thành phố, được học
tập có hệ thống lý luận về xây dựng Đảng, về cơng tác cán bộ, tơi mong muốn
được góp phần vào thực hiện nhiệm vụ cấp bách nêu trên. Vì thế, tôi chọn và
thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ: “Xây dựng và thực hiện chính sách trọng
dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh giai đọan
hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, vấn đề nhân tài và chính sách trọng dụng, thu hút
nhân tài được Trung ương và nhiều địa phương quan tâm, được các cơ quan
và nhiều nhà khoa học nghiên cứu, thể hiện trong đề án của Trung ương và
những đề tài khoa học, sách, bài viết đăng trên các báo, tạp chí, như:
* Đề tài, đề án khoa học, sách:
- Viện xây dựng Đảng, chun đề Cơng tác vận động trí thức, Giáo trình
cơng tác quần chúng của Đảng (2006), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
Chuyên đề đã làm rõ vai trị, nhiệm vụ và thực trạng đội ngũ trí thức
nước ta hiện nay; các quan điểm của Đảng đối với trí thức và cơng tác trí
thức; những chính sách và biện pháp về cơng tác vận động trí thức trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đồng thời, khẳng định: trí thức có
vai trị đặc biệt quan trọng, quyết định thắng lợi trong xây dựng CNXH,
nhất là thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có
tiềm năng phát triển mạnh, nhưng về cơ cấu đội ngũ còn thiếu cân đối so
với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Về năng lực trình độ, phần lớn chưa

đáp ứng được địi hỏi của cơng cuộc đổi mới. Vì thế, để phát triển đội ngũ
trí thức, cần quán triệt các quan điểm của Đảng đối với trí thức và cơng tác
trí thức, trên cơ sở đó đề ra những chính sách và biện pháp về cơng tác vận
động trí thức.


5
- Chính phủ đã có dự thảo Đề án về chính sách phát hiện, bồi dưỡng, trọng
dụng và đãi ngộ đối với người có tài năng trong hoạt động cơng vụ (2010).
Dự thảo hiện đang trong giai đoạn triển khai đóng góp ý kiến. Dự thảo
đề cập đến những nội dung cơ bản như: Phần I: Sự cần thiết và cơ sở khoa
học của đề án; Phần II: Thực trạng chính sách phát hiện, bồi dưỡng, trọng
dụng và đãi ngộ đối với người có tài năng trong hoạt động cơng vụ; Phần III:
Những nội dung chính của đề án; Phần IV: Các hoạt động của đề án; Phần V:
Các kết quả chủ yếu của đề án; Phần VI: Tổ chức triển khai thực hiện.
Nhìn chung, Đề án được xây dựng khá tồn diện, phản ánh đầy đủ tình
hình thực tiễn, cơ sở khoa học, thực trạng hiện nay, thống nhất khái niệm thế
nào là tài năng và tài năng trong hoạt động công vụ, đề ra mục tiêu, giải pháp,
các kết quả chủ yếu sẽ đạt được và công tác chỉ đạo triển khai thực hiện.
- Nguyễn Đắc Hưng (2007), Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước,
Nxb. Chính trị quốc gia.
Cuốn sách gồm 4 chương: Khái niệm và các giai đoạn phát triển nhân
tài, Tìm hiểu về văn hóa và con người Việt Nam, Kinh nghiệm trong lịch sử
Việt Nam và một số nước về phát triển nhân tài, Những nội dung cơ bản về
phát triển nhân tài.
- Tiến sĩ Ngô Huy Tiếp (chủ biên) (2008), Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với trí thức nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia.
Cuốn sách gồm 3 chương: Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với đội
ngũ trí thức Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn; Mục tiêu, phương
hướng và giải pháp cơ bản đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

đội ngũ trí thức; Một số giải pháp cơ bản.
Cuốn sách đã nêu ra những vấn đề lý luận về đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức Việt Nam; thực trạng đội ngũ trí thức và
thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức; hệ thống
các mục tiêu, phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức.


6
* Các bài báo khoa học:
- Bài “Phát hiện, đào tạo, sử dụng nhân tài” của đồng chí Vũ Khoan,
nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Ngun Phó thủ tướng Chính phủ, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 4-2009.
Bài báo đã đặt ra và giải quyết các vấn đề:
+ Hiền tài là ai, họ có những tố chất gì ?: Hiền tài là người tài - đức vẹn
toàn và đều ở mức độ xuất chúng, hơn người. Từ đó nêu và phân tích nên hiểu
thế nào về đức, tài của hiền tài.
+ Hiền tài do đâu mà có ?: Khâu đầu tiên đương nhiên là việc phát hiện
nhân tài. Sau đó đào tạo nhân tài là khâu cực kỳ quan trọng. Khâu cuối cùng
là sử dụng nhân tài. Để phát hiện, đào tạo, sử dụng nhân tài cần phải có một
số điều kiện tiên quyết: quyết tâm cao, kế hoạch đồng bộ, nhận thức thống
nhất, kiên quyết đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ, mạnh
dạn đổi mới cơ chế, chính sách đãi ngộ người tài.
- Bài “Nhân tài lãnh đạo, quản lý” của đồng chí Nguyễn Khánh,
nguyên Bí thư Trung ương Đảng, ngun Phó thủ tướng Chính phủ, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 4-2009.
Bài báo nêu câu hỏi: Thế nào là nhân tài ? và trả lời: Đương nhiên,
nhân tài là người vừa có đức vừa có tài, ở tầm quốc gia là nguyên khí quốc
gia. Lý giải thế nào là đức, thế nào là tài và đưa ra ý kiến là phải phân tích cho
rõ đức đến đâu và tài đến đâu.

Bài báo đánh giá trong việc phát hiện và bồi dưỡng, sử dụng nhân tài
lãnh đạo, quản lý ở nước ta thời gian qua còn khơng ít khuyết điểm, nêu ra
những ngun nhân chủ quan cần đặc biệt chú ý, từ đó đưa ra các giải pháp:
mở rộng nguồn phát hiện người tài; nâng cao trách nhiệm của Bí thư cấp ủy,
người đứng đầu cơ quan trong phát hiện, sử dụng nhân tài; cải tiến việc lập hồ
sơ, quản lý hồ sơ và cách lấy phiếu tín nhiệm của tập thể; cân nhắc kỹ việc
thành lập Hội đồng tuyển chọn để thực sự có chất lượng.


7
- Bài: “Xuân về nói chuyện đào tạo cán bộ trẻ tài năng” của GS.VS.
Đào Trọng Thi, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà
Nội, Tạp chí Xây dựng Đảng số 2, 3 năm 2007.
Bài báo nêu: đội ngũ cán bộ trẻ, tài năng là bộ phận tinh hoa của nguồn
nhân lực; phát hiện, tuyển chọn đội ngũ cán bộ tài năng được ví như việc “đãi
cát tìm vàng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã rất quan tâm công tác
phát hiện, đào tạo nhân tài. Một số trường đại học trên cả nước trong thời gian
qua đã có nhiều sáng kiến trong việc đào tạo cử nhân khoa học tài năng. Bài
báo cũng nêu lên kinh nghiệm đào tạo nhân tài thành công của các nước trên
thế giới. Phần cuối của bài viết, tác giả đưa ra quan điểm cá nhân về một số
giải pháp cần thực hiện để có đội ngũ cán bộ trẻ, tài năng, đó là: Đảng và Nhà
nước cần khẩn trương hoạch định và thực thi một chiến lược quốc gia về nhân
tài; Động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia phát hiện, tuyển chọn, đánh
giá cũng như giám sát quá trình sử dụng đội ngũ cán bộ tài năng; trong cơng
tác nhân tài, các cấp ủy đóng vai trò rất quan trọng, nhất là ở khâu sử dụng
cán bộ; q trình triển khai cơng tác nhân tài cần kết hợp khai thác triệt để
tiềm năng to lớn của đất nước với sức mạnh của thời đại.
Các công trình khoa học nêu trên ở những mức độ, khía cạnh khác nhau
đã bàn đến vấn đề trọng dụng và thu hút nhân tài. Nhiều cơng trình đã phân
tích cơ sở lý luận và thực tiễn trọng dụng, thu hút nhân tài ở một số lĩnh vực,

địa phương, trong đó có nói đến Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đến nay
chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống về
xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài của Thành
ủy Thành phố giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng
và thực hiện chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy, khảo sát,


8
đánh giá thực trạng vấn đề này, luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm thực hiện tốt việc xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu hút
nhân tài của Thành ủy đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và thực hiện chính
sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng việc xây dựng, thực hiện chính sách
trọng dụng và thu hút nhân tài của Thành ủy từ năm 1997 đến nay, chỉ ra ưu,
khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt
việc xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành
ủy đến năm 2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xây dựng và thực hiện chính sách
trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi
Đề tài khảo sát việc xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu
hút nhân tài của Thành ủy từ năm 1997 đến nay.

Phương hướng và các giải pháp đề xuất trong luận văn có giá trị đến
năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Đảng và về công tác cán bộ; luận văn tiếp thu, kế thừa có chọn lọc kết quả
nghiên cứu về lý luận của các cơng trình khoa học liên quan.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng xây dựng và thực hiện chính
sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy và các cấp ủy của Thành phố


9
trong thời gian qua. Các báo cáo tổng kết của các cấp ủy, sở khoa học công
nghệ, sở nội vụ Thành phố về vấn đề này.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, kết hợp sử dụng các phương pháp: lịch sử - lôgic, khảo sát, tổng
kết thực tiễn, phân tích - tổng hợp và phương pháp chuyên gia.
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp của luận văn
- Quan niệm về xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu hút
nhân tài của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Những kinh nghiệm về xây
dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua.
- Các giải pháp thực hiện tốt việc xây dựng và thực hiện chính sách
trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo phục vụ quá trình xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, thu hút
nhân tài của Thành ủy và các cấp ủy trong Đảng bộ Thành phố.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo phục vụ giảng dạy, học tập ở Trường Cán bộ Thành phố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngòai phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


10
Chương 1
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỌNG DỤNG,
THU HÚT NHÂN TÀI CỦA THÀNH ỦY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. THÀNH ỦY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ CHÍNH SÁCH TRỌNG
DỤNG, THU HÚT NHÂN TÀI

1.1.1. Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh và Thành ủy Thành phố
1.1.1.1. Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh có tổng diện tích tự nhiên 2.095,24 km 2 và
được phân chia thành 24 quận, huyện với 317 phường, xã, thị trấn. Thành phố
Hồ Chí Minh nằm ở trung tâm Nam bộ - phía Nam của Đơng Nam bộ và rìa
Bắc của Tây Nam bộ, là đầu mối giao thông lớn, nối liền các tỉnh trong vùng
và là cửa ngõ của cả nước ra thế giới.
Từ xa xưa, Sài Gòn - Gia Định là trung tâm của vùng đất mới ở Phương
Nam Tổ quốc. Khi thực dân Pháp xâm lược và đơ hộ nước ta, Sài Gịn là thủ phủ
của Nam Kỳ thuộc địa và đồng thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp… Khi đế
quốc Mỹ thay thực dân Pháp chia cắt nước ta, Sài Gịn là thủ đơ của “Việt Nam
Cộng hoà”, chế độ thực dân mới của Mỹ. Từ ngày miền Nam được hồn tồn
giải phóng, Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc Trung ương.

Suốt quá trình trên 300 năm hình thành và phát triển, trong đó với 35
năm Thành phố mang tên Bác, Sài Gịn và nay là Thành phố Hồ Chí Minh
ln là trung tâm chính trị, qn sự, kinh tế, văn hố, xã hội của miền Nam
đất nước. Đặc biệt, trong phát triển kinh tế, Thành phố đóng vai trị quan
trọng của cả nước và khu vực: là đô thị lớn nhất nước; đầu tàu trong tăng
trưởng kinh tế, thu hút đầu tư, tạo nguồn thu cho ngân sách và giải quyết các
vấn đề xã hội; trung tâm thương mại - dịch vụ và xuất nhập khẩu; trung tâm
công nghiệp của vùng và cả nước; đầu mối giao thông vận tải, thông tin liên
lạc; trung tâm văn hoá xã hội - khoa học - đào tạo - y tế lớn của cả nước.


11
Từ năm đầu sau giải phóng (1975), dân số Thành phố Hồ Chí Minh có
khoảng 3 triệu người. Đến năm 2010, Thành phố có quy mơ dân số thường
xun trên 7,2 triệu người, nếu tính cả dân số vãng lai là gần 10 triệu người.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ngày càng có xu hướng giảm, ngược lại, tỷ lệ tăng
dân số cơ học lại có xu hướng tăng nhanh. Thành phố là nơi hội tụ của dân
các miền: Bắc - Trung - Nam, kể cả người Hoa, người Khơme…; nơi gặp gỡ
và hoà hợp sớm nhất của hai nền văn hố Đơng - Tây, nơi có nhiều thành
phần giai cấp, tầng lớp dân cư và tôn giáo. Nhờ có mơi trường kinh tế, điều
kiện làm ăn sinh sống và học tập thuận lợi, nên số người trong độ tuổi lao
động có xu hướng tăng nhanh trong cơ cấu dân số của Thành phố.
1.1.1.2. Khái quát về Đảng bộ và Thành ủy
Theo Báo cáo số liệu công tác tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, 6 tháng
đầu năm 2010, Đảng bộ Thành phố có 156.377 đảng viên, 2.762 tổ chức cơ sở
đảng (trong đó: Đảng bộ cơ sở: 1.005, chi bộ cơ sở: 1.757), 68 đơn vị cấp trên
cơ sở trực thuộc Thành ủy (trong đó: Khối quận - huyện: 24, Khối Thành phố:
26, Khối Trung ương: 15, và 3 Đảng ủy cơ sở của 3 doanh nghiệp trực thuộc
Thành ủy) [15, tr.21].
Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố hiện nay có: 69 đồng chí. Tham

mưu, giúp việc cho Thành ủy có: Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, Ban Dân
vận, Ủy ban kiểm tra và Văn phòng Thành ủy.
Về Ban Tổ chức Thành ủy, được quy định chức năng, nhiệm vụ như sau:
* Chức năng:
Ban Tổ chức Thành ủy là cơ quan tham mưu của Thành ủy, mà trực tiếp và
thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực Thành ủy về công tác xây dựng
Đảng thuộc lĩnh vực tổ chức - cán bộ, chính sách cán bộ, đảng viên và bảo vệ
chính trị nội bộ của HTCT Thành phố; đồng thời, là cơ quan chuyên môn, nghiệp
vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ của Thành phố.
* Nhiệm vụ: (liên quan đến công tác tổ chức, cán bộ)


12
- Nghiên cứu đề xuất với Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy,
Thường trực Thành ủy:
+ Cụ thể hóa chủ trương, chính sách, nhiệm vụ và các giải pháp
về cơng tác tổ chức, cán bộ.
+ Tham mưu cho Thành ủy về công tác quản lý cán bộ, đề bạt,
bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ diện Thành ủy, Ban Thường vụ Thành
ủy quản lý; quy hoạch, đào tạo nguồn cán bộ trẻ của Thành phố và
công tác cán bộ nữ.
+ Nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách đối với cán
bộ thuộc thẩm quyền quyết định của Ban Chấp hành, Ban Thường
vụ Thành ủy.
- Thẩm định:
+ Các đề án về tổ chức bộ máy, cán bộ do tổ chức đảng cấp
dưới đề xuất trình Thành ủy.
+ Thẩm định và trình Ban Thường vụ, Thường trực Thành ủy
nhân sự dự kiến đề bạt, bổ nhiệm theo phân cấp quản lý cán bộ.

- Hướng dẫn, kiểm tra:
+ Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các ban Thành ủy, đảng đoàn, ban
cán sự đảng và các cấp ủy trực thuộc Thành ủy triển khai thực hiện nghị
quyết, chủ trương của Đảng và của Thành ủy về cơng tác tổ chức, cán
bộ, chính sách cán bộ.
+ Hướng dẫn các cấp ủy trực thuộc Thành ủy về chuyên môn,
nghiệp vụ công tác tổ chức, cán bộ.
- Phối hợp với các ban Thành ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn,
các đảng ủy trực thuộc Thành ủy trong công tác xây dựng Đảng về
tư tưởng, tổ chức, cán bộ. Phối hợp với Sở Nội vụ hướng dẫn các cơ
quan chính quyền của Thành phố trong việc thể chế hóa các nghị
quyết, quyết định của Đảng về lĩnh vực tổ chức, cán bộ.


13
- Thực hiện một số nhiệm vụ do Ban Thường vụ Thành ủy
ủy quyền.
* Tổ chức bộ máy:
- Lãnh đạo Ban Tổ chức Thành ủy có Trưởng ban và các Phó
Trưởng ban (trong đó, có 1 Phó Trưởng ban là Giám đốc Sở Nội vụ
kiêm nhiệm).
- Các phòng trực thuộc Ban Tổ chức Thành ủy: gồm 8 phòng:
+ Văn phòng Ban
+ Phòng Tổ chức cán bộ
+ Phòng Quy hoạch - đào tạo
+ Phòng quản lý Ban, ngành, sở Thành phố và đảng bộ Bộ,
ngành Trung ương
+ Phòng quản lý Quận, Huyện
+ Phòng Tổ chức cơ sở đảng, đảng viên
+ Phòng Bảo vệ Chính trị nội bộ

+ Phịng Chính sách [48, tr.1-3].
Phòng Quy hoạch - Đào tạo cán bộ là cơ quan chuyên trách tham mưu về
công tác phát hiện, đào tạo nhân tài của Thành phố, có nhiệm vụ:
- Tham mưu xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện đề án, kế
hoạch công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ đương nhiệm và cán bộ
dự bị diện Thành ủy quản lý; cán bộ công chức các lĩnh vực theo sự chỉ
đạo của Ban Thường vụ Thành ủy.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan, các phịng quản lý
chọn cử cán bộ cơng chức tham gia các lớp, khóa đào tạo; phối hợp với
các trường đào tạo quản lý các lớp học, góp phần nâng cao chất lượng
hiệu quả đào tạo, tham mưu xây dựng các chính sách, chế độ đào tạo.
- Tham mưu kế hoạch quy hoạch tạo nguồn cán bộ dài hạn của
Thành phố trong nhiệm kỳ và hàng năm, tổ chức triển khai, hướng dẫn,


14
kiểm tra việc thực hiện công tác quy hoạch cán bộ dài hạn của các sở,
ngành, quận, huyện.
- Tham mưu xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện chương
trình đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ nhằm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý
cho HTCT của Thành phố, cán bộ khoa học các ngành mũi nhọn, đồng
thời góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của Thành phố.
- Theo dõi, cập nhật hồ sơ và thực hiện các chế độ, chính sách
theo quy định đối với cán bộ thuộc chương trình đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ
và quy hoạch dài hạn [56, tr. 4].
1.1.2. Chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài của Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Quan niệm về nhân tài và vai trò của nhân tài
* Quan niệm về nhân tài:
Khái niệm “nhân tài” là một khái niệm hiện đang có nhiều cách diễn giải.

Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Nhân tài: người có tài” [63, tr.1239].
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam: “Nhân tài (nhân: người, tài: tài
năng): Người có tài năng, có thể đảm đương việc khó” [35, tr.1318].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về nhân tài như sau:
Nhân tài: Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc ấy.
Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho
việc thợ rèn, người giỏi nghề rèn thì giao cho việc thợ mộc, như thế
thì hai người đều thất bại cả hai [38, tr.633].
Như vậy, nhân tài thường được hiểu là người tài năng, có thể gánh vác
được những việc khó khăn mà người bình thường khơng làm được hoặc làm
hiệu quả khơng cao, là người có năng lực làm việc và được đặt đúng việc.
Từ những điểm nêu trên, có thể quan niệm: Nhân tài là người có những
phẩm chất, năng lực vượt trội, có thể đảm đương việc khó, trong một điều
kiện xã hội nào đấy, có ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ, có cống hiến xuất


15
sắc trong một hoặc nhiều lĩnh vực chuyên môn cho xã hội, cho quốc gia và
loài người khi được đặt đúng việc.
Nhân tài có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Về năng lực trí tuệ: nhân tài thường là người có trí thơng minh, có năng
lực tư duy tốt, khơng bị bó hẹp trong những khn mẫu sẵn có, ln tìm ra cái
mới, có tư duy lơgic, phân tích, tổng hợp, có tính sáng tạo cao... Trong đó, sáng
tạo là một chỉ số rất quan trọng để có thể phân biệt giữa người tài năng và người
bình thường vì nó chính là sự kết tinh cao nhất của năng lực tư duy.
Về kỹ năng: nhân tài là người biết lắng nghe và biết chọn lựa thơng tin bổ
ích, biết diễn đạt, trình bày vấn đề khoa học, biết giao lưu tư tưởng làm cho
người nghe dễ hiểu và dễ tiếp thu. Quan sát hết sức tinh tế, nhạy bén, xử lý
nhanh, chính xác các dữ liệu, thơng tin, đồng thời, nêu ra những ý tưởng mới độc
đáo. Họ thường có hiểu biết vừa rộng, vừa sâu khá nhiều lĩnh vực gắn với

chun mơn của mình, có khả năng giải quyết được những vấn đề mới phát sinh
mà người bình thường khơng giải quyết được. Vì vậy, họ đóng góp được nhiều
cho xã hội. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá tài năng. Bởi chính thơng
qua những đóng góp này đã thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất năng lực của mỗi
người và được mọi người thừa nhận.
Về phẩm chất đạo đức: nói đến đạo đức của nhân tài, trước hết, phải
nói đến tình thương u đồng loại, tới lòng bao dung, vị tha sâu sắc, giàu tính
nhân văn, sống khơng chỉ cho riêng mình mà ln mong muốn và phấn đấu vì
hạnh phúc của mọi người. Trong hoạt động của nhân tài đều có tính mục đích
cao, động cơ trong sáng, có tinh thần trách nhiệm, khiêm tốn học hỏi, cầu tiến
bộ, có ý chí phấn đấu vươn lên mãnh liệt với tinh thần chủ động, độc lập cao.
Như vậy, đặc điểm chung của những tài năng là thơng minh, giàu tính
sáng tạo và một số phẩm chất nổi bật như: ý chí mạnh mẽ, lao động ở cường
độ cao, liên tục, bền bỉ, say mê sáng tạo, giàu cảm xúc…Nhân tài phải có đủ
tư chất - đó chính là phẩm chất lương thiện, là đạo đức và ý chí, trong đó,
lương thiện là phẩm chất quan trọng hàng đầu, cịn ý chí là nguồn năng lực vô


16
tận, có sức mạnh dẫn dắt con người vượt qua được thử thách, cam go để đi
đến những mục tiêu cao đẹp. Nhân tài là người giỏi, nhưng nhân tài không thể
tách rời tập thể, nhất là trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, cùng với phẩm hạnh
tốt, điều quan trọng nữa là nhân tài phải hòa hợp với mọi người, tập hợp được
mọi người, lao động và chia sẻ cùng mọi người.
Tùy từng lĩnh vực công tác mà tiêu chuẩn về nhân tài có khác nhau. Tiêu
chuẩn về nhân tài trong chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy
Thành phố dựa trên nền tảng cơ bản là tiêu chuẩn cán bộ được quy định trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba (Khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và những điểm bổ
sung trong Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, tại Hội nghị

Trung ương lần thứ chín (Khóa X), gồm tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn riêng
của từng loại cán bộ như: cán bộ lãnh đạo đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân;
cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản
lý kinh doanh. Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau, đó là quan hệ
giữa đức và tài, phải coi trọng cả đức và tài, trong đó, đức là gốc.
Hiện nay, trong xã hội có một quan niệm khá phổ biến là lấy bằng cấp
cao hay cấp bậc cao, chức danh cao là tiêu chí của nhân tài. Điều này chưa
hồn tồn chính xác, bởi vì, bằng cấp cao, chức danh cao, cấp bậc cao và tài
năng là hai thuật ngữ có liên quan với nhau chứ khơng có nghĩa đồng nhất.
Tất nhiên, trong nhóm người có học vấn cao và cấp bậc cao có tần suất là
nhân tài cao hơn ở các nhóm người khác, nhưng điều quan trọng để phân biệt
rõ nét nhất giữa nhân tài và người bình thường là khả năng sáng tạo và mức
độ đóng góp cho xã hội. Tài năng được đánh giá ở thành tích xuất sắc và
những cống hiến lớn lao cho sự phát triển xã hội.
Đánh giá về mức độ tài năng cũng có nhiều cấp độ, có người chỉ đạt
mức độ tài năng bình thường; có người tài năng lỗi lạc, xuất chúng; cao hơn
nữa gọi là thiên tài. Người tài thì nhiều, thời nào cũng có, nhưng thiên tài thì
rất hiếm, họ là những vĩ nhân, những tinh hoa mà hàng trăm năm, thậm chí
nhiều thế kỷ mới có một người như: C.Mác, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh.


17
Tài năng hay hình thức cao cấp của nó là thiên tài, được xem xét ở ba mặt:
những thuộc tính cá thể, phụ thuộc vào sự di truyền nhất định; phải có những
điều kiện sinh học, xã hội để hình thành; chỉ được thực hiện đầy đủ trong một
môi trường tối ưu nào đó. Cho nên, vai trị giáo dục của gia đình và nhà trường,
xã hội là rất quan trọng cho việc hình thành tài năng. Người có tài năng nếu được
phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng kịp thời và được trọng dụng thì khơng những sẽ có
nhiều cơ hội bộc lộ tài năng sớm hơn mà cịn có điều kiện trưởng thành và thành
đạt nhanh hơn, chắc chắn hơn, cao hơn, do đó, có khả năng đóng góp nhiều hơn

cho đất nước. Ngược lại, tài năng mà không được bồi dưỡng và sử dụng thỏa
đáng thì sẽ khơng có điều kiện phát triển và bị thui chột.
* Vai trò của nhân tài:
Trong tất cả các dạng tài nguyên đã có, khơng gì có thể sánh với tài
ngun do chính con người sản sinh ra, đó là nhân tài. Nhân tài là bộ phận
tinh túy, có giá trị nhất của nguồn nhân lực. Bằng sức sáng tạo của mình, tài
năng đem lại cho xã hội một chất lượng mới của sự phát triển. Lịch sử nhân
loại đã chứng minh, từ xưa đến nay, nhân tài là nhân tố quyết định sự hưng
thịnh của mỗi quốc gia, nhân tài đặt đúng vị trí thì nước mạnh, đặt khơng
đúng vị trí thì nước yếu. Vì thế, nhiều nước trên thế giới coi phát triển nhân
tài là quốc sách của mọi quốc sách, là bí quyết để xây dựng đất nước phồn
vinh, người dân ấm no, hạnh phúc.
Nói về vai trị của nhân tài, V.I. Lênin coi nhân tài, các chuyên gia là
những con người đặc biệt và phải trân trọng, giữ gìn như giữ gìn con ngươi
của mắt, nếu khơng như thế “thì khơng có thể nói đến một thành cơng quan
trọng nào cho sự nghiệp kiến thiết xã hội chủ nghĩa được” [36, tr. 429, 430].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của nhân tài đối với sự
nghiệp kiến thiết đất nước. Người viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến
thiết cần có nhân tài” [37, tr. 451].
Đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT và quan hệ với nhân
dân, nhân tài trong các lĩnh vực này có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng, góp


18
phần to lớn xây dựng Đảng, HTCT vững mạnh, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân, nâng cao uy tín, vị thế của Đảng, tập hợp đơng đảo nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng. Và suy cho đến cùng, những thiên tài trên
lĩnh vực này là một nhân tố quyết định thắng lợi cả trong đấu tranh giành
chính quyền, cả trong xây dựng đất nước. V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
những cán bộ tài giỏi của Đảng ta là những người như thế.

Thực tiễn đã chứng minh ở bất cứ hoàn cảnh nào, nếu những người
lãnh đạo đất nước quy tụ được nhiều hiền tài cống hiến cho đất nước,
cho nhân dân thì cho dù đất nước gặp mn vàn khó khăn cũng sẽ vượt
qua và phát triển.
1.1.2.2. Chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh - quan niệm, nội dung và vai trị
* Quan niệm về chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài:
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “chính sách” là chủ trương và các biện
pháp của một đảng phái, một Chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội:
chính sách đối ngoại của nhà nước; chính sách dân tộc [63, tr. 368].
Trong khoa học xây dựng Đảng và khoa học tổ chức, “chính sách”
được hiểu là:
Hệ thống mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc cùng các giải pháp
về những vấn đề vĩ mô như phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an
ninh, quốc phòng, quan hệ đối ngoại, chăm lo đời sống nhân dân,
xây dựng các lực lượng chính trị của đất nước từng giai đoạn cách
mạng. Chính sách cịn là những giải pháp lớn đặt ra để đáp ứng
những yêu cầu thiết yếu của đất nước và nhân dân trong từng thời
gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể và với những đối tượng
cụ thể, như chính sách huy động sức người, sức của trong chiến
tranh, chính sách đầu tư, phát triển, xóa đói giảm nghèo trong hịa
bình [41, tr. 150].


19
Cũng theo Đại từ điển tiếng Việt, “trọng dụng” là tin cậy và giao cho
những công việc, chức vụ quan trọng, xứng đáng với tài năng: trọng dụng nhân
tài; được cấp trên trọng dụng. Thu hút là làm cho người ta ham thích mà dồn hết
sự chú ý vào: bộ phim thu hút khán giả từ đầu đến cuối. [63, tr. 1713, 1593]
Trong cơng tác cán bộ, chính sách thường được gắn với cơng tác cán bộ,

đó là chính sách cán bộ. Theo Sách tra cứu các cụm từ về tổ chức:
“Chính sách cán bộ” là hệ thống các quan điểm, chủ trương,
mục tiêu…của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về công tác
cán bộ, kèm theo các giải pháp thực hiện các mục tiêu đó, nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ
chính trị trong mỗi thời kỳ. Chính sách cán bộ bao gồm ba bộ phận:
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chính sách sử dụng và quản lý
cán bộ; chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần
cán bộ [41, tr. 150].
Từ những điểm trình bày ở trên, qua thực tiễn ở Thành phố Hồ Chí Minh
có thể quan niệm: Chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm, chủ trương, mục tiêu kèm
theo các giải pháp thực hiện của Thành ủy về sự tin cậy và giao cho những cán
bộ có tài của Thành phố những cơng việc, chức vụ quan trọng tương xứng với
tài năng của họ và làm cho những nhân tài ở ngoài khu vực nhà nước, ngoài
phạm vi quản lý của Thành ủy và các cấp ủy của Thành phố và ở những tỉnh,
thành phố khác ham thích, vào làm việc đạt hiệu quả cao ở các tổ chức, cơ
quan, đơn vị và trở thành cán bộ do Thành ủy và các cấp ủy đó quản lý.
Như vậy, chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy Thành
phố Hồ Chí Minh gồm hai bộ phận chủ yếu là: hệ thống các quan điểm, chủ
trương, các mục tiêu…và các giải pháp thực hiện về sự tin cậy và giao cho
những cán bộ có tài trong đội ngũ cán bộ hiện tại của Thành phố những công
việc, chức vụ quan trọng xứng đáng với tài năng của họ; hệ thống các quan
điểm, mục tiêu và các giải pháp thực hiện về việc làm cho những người có tài


20
ở ngoài đội ngũ cán bộ của Thành ủy, ham thích, vào làm việc trong các tổ
chức, cơ quan, đơn vị và trở thành cán bộ của Thành ủy.
* Nội dung của chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài của Thành ủy:

Thực hiện các tinh thần trên, trong thời gian qua và hiện nay, Thành ủy
đã đề ra các chủ trương, chính sách để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, thu
hút, sử dụng đãi ngộ những người có trình độ cao vào làm việc trong các cơ
quan nhà nước như sau:
- Chương trình thu hút sinh viên giỏi, cán bộ trẻ có triển vọng để đào tạo
trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý (chương trình quy hoạch cán bộ dài hạn):
Mục tiêu của chương trình là phát hiện, thu hút những sinh viên tốt nghiệp
đại học vào loại khá, giỏi, cán bộ trẻ qua thực tiễn cơng tác có triển vọng phát
triển để đào tạo trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý quận, huyện, sở, ban, ngành
Thành phố thơng qua việc bố trí, đào tạo tồn diện trong thực tiễn cơng tác; tập
trung ln chuyển cán bộ trẻ về đào tạo ở phường, xã, thị trấn.
- Chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ:
Chương trình này nhằm thu hút, tuyển chọn, đào tạo cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, các ngành cho HTCT và cán bộ khoa học, công nghệ mũi
nhọn của Thành phố, bổ sung và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ
nhiệm vụ chính trị của Thành phố trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế. Nội dung chủ yếu của chương trình là đào tạo trình độ
thạc sĩ đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong HTCT và đào tạo trình độ
tiến sĩ cho các ngành khoa học cơng nghệ mũi nhọn của Thành phố.
- Chính sách thu hút cán bộ có trình độ đại học và trên đại học về cơng
tác tại phường, xã, thị trấn:
Bên cạnh Chương trình quy hoạch cán bộ dài hạn, nhằm thu hút mạnh
mẽ cán bộ trẻ, sinh viên tốt nghiệp đại học trở lên về công tác tại phường, xã,
thị trấn, Thành ủy - Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố đã quyết định ban
hành nội dung của chính sách gồm:


21
+ Được ưu tiên trong tuyển dụng đối với những ngành nghề đang có nhu
cầu tuyển dụng tại các phường, xã, thị trấn, nhất là ở các xã có điều kiện sinh

hoạt, đi lại khó khăn (như một số xã ở huyện Cần Giờ, Củ Chi, Bình Chánh) và
lĩnh vực nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, thủy lợi, bảo vệ thực vật…
+ Về mức khuyến khích:
Cán bộ cơng tác ở xã và thị trấn có trình độ đại học chính quy: phụ cấp
1.000.000 đồng/người/tháng; đại học khơng chính quy: phụ cấp 625.000
đồng/người/tháng.
Cán bộ cơng tác ở phường có trình độ đại học chính quy: phụ cấp
750.000 đồng/người/tháng; đại học khơng chính quy: phụ cấp 500.000
đồng/người/tháng.
Cán bộ có trình độ thạc sĩ cơng tác tại phường, xã, thị trấn (ngồi chính
sách khuyến khích cho cán bộ có trình độ đại học về công tác tại phường, xã, thị
trấn nêu trên) được hưởng mức khuyến khích 500.000 đồng/người/tháng [62, tr.2].
- Chế độ, chính sách đối với cán bộ được cử đi đào tạo:
Nhằm tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tạo điều kiện thuận
lợi cho cán bộ được cử đi đào tạo, Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Kết luận
số 59-KL/TU, ngày 23/7/2009, về một số chính sách hỗ trợ cán bộ được cử đi
đào tạo nâng cao trình độ, kiến thức, từ nguồn ngân sách đào tạo của Thành phố.
Đối tượng được hỗ trợ gồm: cán bộ, công chức đương nhiệm và dự bị các chức
danh diện Thành ủy quản lý; cán bộ diện quy hoạch dài hạn; cán bộ được tuyển
chọn đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ; cán bộ, công chức trong biên chế của Thành phố
được cử đào tạo cao cấp, cử nhân chính trị chuyên ngành trở lên.
Kết luận 59-KL/TU cũng đặc biệt quan tâm hỗ trợ cho cán bộ tự đào
tạo chuyên ngành phù hợp nhiệm vụ đang đảm nhận hoặc hướng quy hoạch.
Theo đó, người tốt nghiệp thạc sĩ được hỗ trợ: 15 triệu đồng; tiến sĩ: 25 triệu
đồng; học ngoại ngữ được hỗ trợ từ 5 - 10 triệu đồng; riêng tiếng Lào và
Campuchia từ 10 - 20 triệu đồng. Để khuyến khích và tăng cường cử cán bộ
đi đào tạo theo hình thức chính quy tập trung, Thành phố đã áp dụng chính


22

sách biên chế dự trữ, tức là, cán bộ, công chức được cử đi học tập trung, dài
hạn từ 1 năm trở lên được chuyển sang biên chế dự trữ, được hưởng lương
và các khoản phụ cấp theo quy định hiện hành; trong quá trình học tập được
xét nâng bậc như cán bộ, cơng chức; thành tích học tập là cơ sở để xét nâng
bậc lương niên hạn.
- Chính sách đào tạo nguồn nhân lực công nghệ sinh học:
Nhằm nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ lĩnh vực cơng nghệ
sinh học đáp ứng yêu cầu nhân lực của Trung tâm công nghệ sinh học thuộc
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Thành phố chủ trương đào tạo 100
thạc sĩ, tiến sĩ giai đoạn 2008 - 2012. Hình thức đào tạo là đào tạo ở nước
ngoài, ưu tiên chọn các nước mạnh về công nghệ sinh học như Cuba, Úc,
Canada, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ, Israel, Singapore; kinh phí do ngân sách Thành
phố cấp và tranh thủ các nguồn học bổng nước ngồi.
- Chính sách thu hút chun gia:
Để khuyến khích, thu hút các chun gia trong và nước ngồi, Thành
ủy - UBND Thành phố đã có cơ chế đặc thù về tiền lương cộng thêm các
khoản phụ cấp như tiền nhà, đi lại, vé máy bay.
Cùng với các chính sách cụ thể trên, Thành ủy đã tập trung chỉ đạo công
tác cán bộ, tăng cường thực hiện tốt đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) “Về chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Thành ủy đã tiến hành
khảo sát, đánh giá tình hình đội ngũ cán bộ Thành phố, ban hành nhiều văn bản
về cán bộ và công tác cán bộ như: Nghị quyết 13-NQ/TU ngày 22/1/1997 về
công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ; Kế hoạch 04-KH/TU ngày 20/8/2001 về
đánh giá tình hình cơng tác cán bộ, đề ra phương hướng công tác quy hoạch
đào tạo cán bộ đương nhiệm và dự bị các chức danh diện Thành ủy quản lý; Kế
hoạch 17-KH/TU ngày 3/6/2002, Quy định 375-QĐ/TU ngày 10/7/2002 về
luân chuyển và chính sách đối với cán bộ được luân chuyển; Chỉ thị 02-CT/TU
và Kế hoạch 05-KH/TU ngày 12/7/2006 về quy hoạch cán bộ theo Nghị quyết



23
42-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực,
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH Thành phố.
Qua mỗi giai đoạn phát triển, căn cứ tình hình thực tiễn của Thành phố,
Thành ủy luôn xác định trọng tâm, trọng điểm, chọn lựa những vấn đề mang tính
đột phá để thí điểm rút kinh nghiệm trên cơ sở vận dụng sáng tạo các chỉ đạo của
Trung ương. Trên cơ sở kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ chín (Khóa X)
về tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược cán bộ, Thành ủy đã tập trung chỉ đạo
thực hiện theo những nội dung mới được bổ sung trong chiến lược cán bộ.
* Vai trị của chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy:
Vai trò của chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy được
xem xét trong những mối quan hệ chủ yếu sau đây:
Đối với sự chuyển biến trong công tác cán bộ của Thành ủy: Chính
sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy được xem là một trong những
bước đột phá của Thành phố trong công tác cán bộ. Chính từ đột phá này, chất
lượng đội ngũ cán bộ của Thành phố ngày càng được nâng lên, xuất hiện
nhiều cán bộ giỏi, trong đó có nhiều cán bộ trẻ. Sự đột phá đó tạo đà cho sự
chuyển biến tốt về các khâu của công tác cán bộ của các cấp ủy, từ xác định
tiêu chuẩn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển, đánh giá, bố trí, sử
dụng đến khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
Đối với việc chuyển biến, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp
ủy, chính quyền, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị về công tác cán bộ: Chính sách
được ban hành và thực hiện đã có tác dụng làm chuyển biến nhận thức trong
cấp uỷ, chính quyền, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị và trong toàn HTCT về sự
cần thiết phải tập trung cho công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ và yêu cầu phải trọng dụng, thu hút người tài giỏi vào làm việc trong các
cơ quan đảng, chính quyền, đồn thể, các lĩnh vực đời sống xã hội trên địa
bàn Thành phố.
Đối với đội ngũ cán bộ của Thành phố: Chính sách đã tạo động lực cho

đội ngũ cán bộ phấn đấu vươn lên để được khẳng định, cống hiến, góp phần
nâng chất lượng hoạt động trong các cơ quan, đơn vị.


24
Chính sách được ban hành và thực hiện góp phần tạo ra đội ngũ cán bộ
các ngành, các cấp, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT từ thành phố
đến cơ sở có chất lượng, thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
Thành phố, củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ
và các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, nâng cao uy tín của đảng bộ
trong nhân dân Thành phố.
* Quan hệ giữa chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài:
Trong các khâu: Phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng
và trọng đãi nhân tài thì khâu trọng dụng nhân tài là quan trọng nhất, nó có tác
dụng gắn kết các khâu thành chu trình tổng thể, hợp lý và chi phối các khâu
khác. Trọng dụng nhân tài là nhân tố đột phá để hình thành và phát triển chiến
lược về nhân tài của quốc gia, thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lượng và sử
dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Trọng dụng nhân tài mở đường và thúc đẩy cho việc phát triển và tuyển
chọn nhân tài. Trong xã hội, ở bất kỳ thời điểm nào cũng có nhân tài, nếu
được trọng dụng thì nhân tài sẽ nảy nở và tự bộc lộ. Ngược lại, nếu khơng
được trọng dụng thì nhân tài chỉ là tiềm năng và ngày càng mai một đi. Trọng
dụng nhân tài là sức ép lên khâu phát hiện và tuyển chọn, nên không thể chậm
trễ hoặc thiếu tích cực trong phát hiện, thiếu mềm dẻo trong tuyển chọn để
đáp ứng tốt nhất nhu cầu sử dụng nhân tài. Như vậy, trọng dụng nhân tài sẽ
mở đường cho việc phát hiện và tuyển chọn như một nhu cầu tự nhiên, điều
này càng có khả năng phát triển trong nền kinh tế thị trường khi trọng dụng
nhân tài sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Trọng dụng nhân tài chính là việc đưa nhân tài vào sử dụng, qua sử
dụng phát hiện được những điểm mạnh, yếu của nhân tài, lý giải nguyên nhân

và có phương hướng để đào tạo, giáo dục. Chỉ có qua thực tiễn, người sử
dụng mới thấy cần tiếp tục bồi dưỡng gì và bồi dưỡng như thế nào để nhân tài
ngày càng phát triển. Cũng chính thơng qua sử dụng, bản thân nhân tài mới
thấy được mình cần trang bị thêm những kiến thức, kỹ năng gì. Với ý nghĩa
đó, trọng dụng nhân tài thúc đẩy quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhân tài.


25
Trọng dụng nhân tài còn tạo động lực to lớn cho sự cạnh tranh của
chính các nhân tài, ai cũng sẽ nỗ lực vượt lên trên nhân tài hiện có, vượt lên
chính bản thân mình. Cạnh tranh như vậy làm cho nhân tài nảy nở, phát triển
và nâng cao chất lượng cống hiến không chỉ của một mà nhiều nhân tài.
1.2. THÀNH ỦY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG VÀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỌNG DỤNG, THU HÚT NHÂN TÀI QUAN NIỆM, NỘI DUNG, QUY TRÌNH

1.2.1. Quan niệm, nội dung xây dựng và thực hiện chính sách
trọng dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
1.2.1.1. Quan niệm, nội dung xây dựng chính sách trọng dụng,
thu hút nhân tài của Thành ủy
* Quan niệm về xây dựng chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài
của Thành ủy:
Để đưa ra quan niệm về xây dựng chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài
của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cịn phải làm rõ khái niệm “xây dựng”.
Theo Đại từ điển tiếng Việt:
Xây dựng là làm nên, gây dựng lên: xây dựng nhà máy, công trường,
xây dựng, Bộ xây dựng, xây dựng chính quyền, xây dựng hợp tác xã, xây
dựng gia đình; tạo ra cái có giá trị tinh thần, có nội dung nào đó; xây dựng cốt
chuyện, xây dựng đề cương; (thái độ, ý kiến) có tinh thần đóng góp làm tốt
hơn: ý kiến xây dựng, thái độ xây dựng [63, tr. 1856].
Từ quan niệm về “chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài của Thành ủy”

và khái niệm “xây dựng” nêu trên, có thể quan niệm: xây dựng chính sách trọng
dụng, thu hút nhân tài của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh là toàn bộ hoạt
động của Thành ủy, của các cơ quan tham mưu giúp việc, của các tổ chức, cán bộ
có liên quan dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy xây dựng và ban hành các
quyết định của Thành ủy về trọng dụng và thu hút nhân tài nhằm phát huy năng
lực, phẩm chất của những cán bộ có tài của Thành phố xứng đáng với tài năng
của họ và những người có tài, có đức ngồi phạm vi quản lý của Thành ủy và các


×