Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

chất lượng các đảng bộ xã ở tỉnh cao bằng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.71 KB, 110 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở,
nơi triển khai trực tiếp đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
đến với mỗi người dân. Tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên có vai
trị quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Đảng, sự nghiệp cách mạng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
“Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” đã đánh giá:
Khơng ít tổ chức cơ sở đảng chưa nhận thức và thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng… Năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa, và tổ chức
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và của cấp ủy cấp trên của tổ chức cơ sở đảng còn yếu… Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý
chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc Đảng, tự phê bình và phê bình
yếu. Tình yêu thương đồng chí bị giảm sút… [16, tr.107-108].
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
đảng trong tình hình mới, nhất là các tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh:
Tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời
kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi khó khăn,
nội bộ mất đồn kết…Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc
vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ [23, tr.259].
Cao Bằng là một tỉnh miền núi nằm ở vùng Đông Bắc của Tổ quốc, là
nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc khác nhau. Thực tế mấy chục năm xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc, Cao Bằng đã chứng tỏ khả năng phát triển kinh tế - xã



2
hội của mình, đã góp phần to lớn vào sự nghiệp tái thiết lại đất nước sau nhiều
năm bị chiến tranh tàn phá, thể hiện sức mạnh của con người miền núi trong
việc chế ngự, cải tạo thiên nhiên, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước
chuyển hướng sản xuất từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, đời sống của nhân
dân các dân tộc được cải thiện một bước.
Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan của một tỉnh miền núi, Cao
Bằng gặp khơng ít khó khăn trong q trình phát triển. Là địa bàn quần cư của
nhiều thành phần tộc người như: Tày, Nùng, Thái, Mông, Dao, Lô lô, Sán
Chỉ… cư trú đan xen không chỉ trong phạm vi xã mà có khi trong cả bản,
làng; tổ chức và hoạt động của Đảng trong điều kiện đa tộc người cư trú xen
kẽ, đa dạng về phong tục tập quán, ngôn ngữ, trình độ sản xuất là yếu tố thuận
lợi trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng quê
hương, đất nước; song cũng để lại khó khăn nhất định trong việc tạo ra sự
đồng thuận để triển khai, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; với địa hình hiểm trở, chia cắt, bản, làng
xa trung tâm xã, khó khăn cho tổ chức đời sống dân cư, triển khai chính sách
của Đảng; phong tục tập quán, định kiến tộc người, đói nghèo, thất học…hạn
chế lớn đến nguồn phát triển đảng viên, gây nên tình trạng “trắng” đảng viên
ở nhiều thơn, bản. Lợi dụng những khó khăn trên, các thế lực thù địch đã và
đang ra sức chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện chủ nghĩa ly khai, phá
hoại từ cơ sở - các tế bào phát triển của thể chế và xã hội. Sự chống phá của
các thế lực thù địch ở Cao Bằng thường được thể hiện bằng nhiều thủ đoạn,
trong đó có lợi dụng tự do tôn giáo để truyền đạo trái phép, tạo ra tình huống
chuyển đổi tín ngưỡng, đức tin rồi làm lu mờ ảnh hưởng ý thức hệ chính
thống mà Đảng ta đang ra sức xây dựng, củng cố ở cơ sở. Sự chống phá của
các thế lực thù địch còn thể hiện ở việc chúng đẩy mạnh cổ vũ, khuyến khích
chủ nghĩa dân tộc cực đoan để tạo ra các tình huống ly khai, thiết lập các khu



3
vực tự trị tộc người, mà địa bàn người Mông, Dao là một trong những “điểm
nóng” nằm trong kịch bản của các thế lực thù địch. Tất cả những vấn đề đó đặt
ra u cầu rất lớn đối với cơng tác đảm bảo an ninh dân tộc, an ninh tôn giáo …
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, các đảng bộ xã là đơn vị trực tiếp
lãnh đạo toàn thể nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân; là nơi diễn ra các hoạt động xây
dựng nội bộ Đảng. Xét một cách toàn diện, sự lãnh đạo của đảng bộ xã quyết
định đến việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và nông thôn, đặc biệt là thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn.
Song trên thực tế, chất lượng các đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng cịn thấp,
chưa theo kịp sự biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội đất nước. Nhiều đảng
bộ xã chưa đủ năng lực đáp ứng những nhiệm vụ nặng nề mà Đảng và sự
nghiệp cách mạng đặt ra trong giai đoạn mới. Các khâu lãnh đạo từ ban hành
nghị quyết đến tổ chức thực hiện nghị quyết đều yếu, các nguyên tắc và tổ
chức hoạt động của Đảng được vận dụng trên thực tế vào tình hình từng tộc
người, từng địa bàn nhiều khi tùy tiện, vừa thiếu tập trung, vừa thiếu dân
chủ…Thực trạng đó nếu khơng được khắc phục sẽ có nguy cơ làm giảm chất
lượng các đảng bộ xã, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của tỉnh nhà, mà
còn tạo ra lực cản đối với tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp và nơng thơn ở vùng núi phía Bắc.
Do vậy, để hướng mạnh về cơ sở, nâng cao chất lượng của các đảng bộ
xã, đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, việc đánh giá đúng chất
lượng của các đảng bộ xã từ đó có những phương hướng, giải pháp để nâng
cao chất lượng của các đảng bộ này đang đặt ra một cách cấp thiết.



4
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa X
khẳng định:
Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận dân cư cư
trú, sinh sống. Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò quan rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi
khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư [20, tr.34].
Với những lý do trên, tôi xin chọn đề tài nghiên cứu “Chất lượng các
đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành xây dựng Đảng, nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn công tác xây dựng các đảng bộ cơ sở nói chung, nâng cao
chất lượng các đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của các tổ chức cơ
sở đảng nói chung, các đảng bộ xã nói riêng, nên ngay từ khi ra đời và trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm nâng cao chất
lượng của các tổ chức cơ sở đảng. Trong các văn kiện của mình, Đảng ta ln
xác định mục đích, u cầu, các quan điểm chỉ đạo và các giải pháp chủ yếu
xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đồng thời tập trung củng cố các tổ chức cơ
sở đảng yếu kém, nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sở đảng nhất là
những nơi trọng yếu, địa bàn quan trọng theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
của từng thời kỳ.
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
khóa X về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, việc đánh giá đúng chất

lượng, tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sở


5
đảng trong đó có các đảng bộ xã càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều cá nhân, tập thể các nhà khoa học và các cán bộ hoạt động thực tiễn.
Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có những bài viết, bài nói
mang tính định hướng và chỉ đạo rất quan trọng đề cập đến chất lượng của các
tổ chức cơ sở đảng nói chung, các đảng bộ xã nói riêng như:
- Tiến sĩ Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (năm 2008), Hệ thống chính trị
cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi vùng dân tộc
thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Tiến sĩ Hồng Chí Bảo chủ biên (2000), Hệ thống chính trị cơ sở
nơng thơn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Cúc, Ngơ Ngọc Thắng, Đồn Minh Huấn (2006), Đổi mới
kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
- PGS.TS Nguyễn Văn Biều chủ nhiệm (2001), Đổi mới phương thức
lãnh đạo của các đảng bộ xã ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn
hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- PGS.TS Đỗ Ngọc Ninh chủ nhiệm (2008), Vai trò của đội ngũ đảng
viên là người nghỉ hưu trong các hoạt động của các tổ chức đảng ở khu vực
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Phạm Xuân Tiên (1993), Nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở Đảng nông thôn miền Bắc giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Phạm Văn Minh (1998), Chất lượng tổ chức cơ sở Đảng nông thôn
tỉnh Sơn La hiện nay - thực trạng và giải pháp nâng cao, Luận văn thạc sỹ

khoa học chính trị chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


6
- Dương Trung Ý (2002), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Đỗ Ngọc Ninh, Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng nông thôn
(cấp xã) ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học
chính trị chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
- Dương Trung Ý (2008), Chất lượng các Đảng bộ vùng trung du Bắc Bộ
hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Bùi Đức Ái (2001), Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng nơng thơn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sỹ khoa học chính trị chuyên
ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của tác giả Bùi Đức Ái, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã đề cập đến chất lượng các tổ chức
cơ sở đảng nói chung, chất lượng đảng bộ xã nói riêng cũng như những biện
pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng, trong đó có các đảng bộ xã. Các cơng trình cũng cũng đã cung cấp
những tư liệu quan trọng về cách tiếp cận nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên chưa
có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về chất lượng các đảng bộ xã
của tỉnh Cao Bằng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chất lượng và nâng cao chất lượng
các đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng hiện nay. Qua đó đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng của các đảng bộ xã đến năm 2020.


7
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Phân tích vai trị, đặc điểm của các xã và đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng
hiện nay; trình bày quan niệm về chất lượng của các đảng bộ xã và tiêu chí
đánh giá chất lượng các đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng giai đoạn hiện nay.
Đánh giá đúng thực trạng chất lượng và nâng cao chất lượng các đảng bộ xã
của Cao Bằng những năm vừa qua, chỉ rõ ưu khuyết, điểm, nguyên nhân và những
bài học kinh nghiệm. Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng của các đảng bộ xã của tỉnh Cao Bằng đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chất lượng của các Đảng bộ xã của tỉnh Cao
Bằng trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề chất lượng các đảng bộ xã của
tỉnh Cao Bằng từ năm 2005 đến nay, xác định phương hướng và giải pháp
nâng cao chất lượng các đảng bộ xã ở Cao Bằng đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về xây dựng
các tổ chức cơ sở đảng; kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các cơng
trình khoa học, các luận án, luận văn đã công bố và bảo vệ; sử dụng các chỉ
thị, nghị quyết, các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn công tác Đảng ở địa
phương những năm vừa qua.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; đồng thời sử dụng các phương pháp chuyên ngành như: điều tra,


8
khảo sát thực tiễn, phương pháp chuyên gia, tổng kết kinh nghiệm…
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp khoa học của luận văn
Làm rõ quan niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng các Đảng bộ xã ở tỉnh
Cao Bằng hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao
chất lượng các đảng bộ xã đến năm 2020.
6.2. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong quá trình nâng cao chất lượng các đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng trong
những năm tới, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
nghiên cứu, giảng dạy mơn xây dựng Đảng ở trường chính trị tỉnh Cao Bằng,
các Trung tâm bồi dưỡng chính trị tỉnh hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÁC ĐẢNG BỘ XÃ CỦA TỈNH CAO BẰNG
HIỆN NAY- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC XÃ VÀ ĐẢNG BỘ XÃ Ở TỈNH CAO BẰNG
HIỆN NAY


1.1.1. Khái quát về các xã ở tỉnh Cao Bằng - vị trí, vai trị, đặc điểm
Tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng là một tỉnh miền núi biên giới nằm phía Đơng Bắc của Tổ
quốc. Phía Bắc và Đơng Bắc giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), phía Tây
giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang; phía Nam giáp tỉnh Bắc Cạn và Lạng
Sơn. Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.719.56 km2 có một tầm quan trọng về
các mặt kinh tế, chính trị, quốc phịng.
Cao Bằng có địa thế tương đối hiểm trở, bị chia cắt bởi các dãy núi đá
xen kẽ núi đất tạo thành những vùng sinh thái khác nhau, có thể chia thành:
Tiểu vùng núi đá vơi chiếm 32% diện tích đất tự nhiên, có độ cao trung bình
từ 700m - 1000m, phân bố chủ yếu ở các huyện phía Bắc và Đơng Bắc của
tỉnh (gồm các huyện Trùng Khánh, Hạ Lang, Quảng Uyên, Phục Hòa, Thông
Nông, Hà Quảng, một số xã miền Bắc huyện Thạch An, Đơng Nam huyện
Bảo Lạc, Đơng Bắc huyện Ngun Bình). Địa hình vùng này rất phức tạp bao
gồm các dãy núi đá vôi phân cách với các đỉnh nhọn dạng tai mèo, ghồ ghề
lởm chởm cao thấp khác nhau, nhiều hang hốc tự nhiên, xen kẽ giữa các dãy
núi là những thung lũng hẹp. Tiểu vùng núi đất nằm ở phía Tây, Tây Nam có
độ cao trung bình từ 700m - 1000m chiếm 18% diện tích đất tự nhiên tồn
tỉnh, chủ yếu phân bố ở các huyện Nguyên Bình, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Thạch
An và một phần diện tích phía Nam của huyện Hịa An. Địa hình vùng này
gồm các hệ thống dãy núi đá vôi phân cách nhau, kéo dài theo hướng Tây Bắc
- Đông Nam, xen kẽ các dãy núi dài là các thung lũng hẹp và đáng chú ý nhất


10
là hai hệ thống núi: hệ thống núi cao Bảo Lạc, Nguyên Bình, cao trên 1900m
so với mặt nước biển; hệ thống núi Ngân Sơn, Thạch An cao hơn 1600m so
với mặt nước biển. Tiểu vùng đồi núi thấp, là vùng chuyển tiếp giữa vùng đất
cao và vùng đất bằng ở độ cao trung bình 200m - 600m, chiếm 38% diện tích
đất tự nhiên, đặc trưng của vùng đất này là thung lũng hẹp nằm xen kẽ giữa

các dãy núi cao có độ dốc lớn như: thung lũng Hịa An, Ngun Bình, Thạch
An, thung lũng sơng Bắc Vọng, sơng Qy Sơn (Trùng Khánh), Cần n
(Thơng Nơng). Tiểu vùng cịn lại bao gồm thị xã Cao Bằng và một phần
huyện Hòa An chạy dọc theo sơng Bằng, chiếm 12% diện tích đất tự nhiên,
đây là vùng có địa hình bằng phẳng nhất, là vựa thóc lớn của tỉnh.
Cao Bằng là một miền đất hấp dẫn, có cảnh quan thiên nhiên thơ mộng
như: thác Bản Giốc - một kỳ quan thiên nhiên hùng vĩ, từ lâu đã đi vào nghệ
thuật tranh ảnh, động Ngườm Ngao - một điển hình của quá trình xâm thực tự
nhiên vẫn đang nối tiếp mạnh mẽ với những nét hoang sơ do thiên nhiên kiến
tạo, các di tích lịch sử của Cao Bằng như: đền Vua Lê, thành nhà Mạc, Chùa
Kỳ Sầm, khu di tích lịch sử Pác Bó với núi Các Mác, suối Lênin, Khai Phắt,
Nà Ngần, khu rừng Trần Hưng Đạo… Tất cả những cái đó khơng chỉ nói lên
sự giàu đẹp của q hương “gạo trắng nước trong” mà cịn là những chiến
cơng, những trang sử oanh liệt, những tấm gương sáng ngời về truyền thống
u nước, ý chí quật cường, tinh thần đồn kết trong xây dựng và bảo vệ tổ
quốc do biết bao thế hệ cha ông để lại mà người đời và các thế hệ mai sau mãi
cịn soi mình. Cao Bằng tự hào được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn làm căn
cứ cách mạng của cả nước trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Phát
huy truyền thống cách mạng của mình, nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã
đóng góp đáng kể sức người, sức của cho hai cuộc kháng chiến, đặc biệt
truyền thống đó được chứng minh trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương,
đập tan hành động xâm lược của quân bành trướng Trung Quốc. Trong sự
nghiệp đổi mới, nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn chấp hành tốt chủ


11
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nổi bật là xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới
của Đảng trên địa bàn tỉnh nhà.
Tuy là tỉnh miền núi nhưng Cao Bằng có nhiều sơng ngịi gồm: hệ

thống sơng Bằng Giang (sơng Bằng, sơng Hiến, các nhánh sơng Ngun
Bình, sông Dẻ Dào); hệ thống sông Gâm (sông Gâm và các nhánh sông Nho
Quế, sông Neo); sông Bắc Vọng, sông Quây Sơn. Các dòng chảy chủ yếu bắt
nguồn từ Trung Quốc. Ngồi ra cịn có rất nhiều sơng hồ khác với chất lượng
tốt và trữ lượng nước đủ cung cấp cho sinh hoạt và nhu cầu phát triển kinh tế.
Nguồn lâm sản ở Cao Bằng cũng rất phong phú với nhiều loại cây như:
nghiến, trai, sến, trúc, thông, keo, sa mộc... và một số cây công nghiệp như
trám, dẻ, chè đắng... đặc biệt rừng ở đây cịn có các loại cây dược liệu quý
hiếm như bạch truật, ba kích, hà thủ ơ... cùng với nhiều lồi động vật q như
gấu, hươu, nai và các loại chim. Đây cũng là nơi tập trung nhiều loại khoáng
sản như: quặng sắt, quặng măng-gan, quặng thiếc, bơ-xít, lưu huỳnh,
vonphơram, bạc, vàng... có trữ lượng khá lớn và chất lượng tốt.
Cao Bằng có đường biên giới chung với Trung Quốc dài 312 km, gồm
161 cột mốc và cửa khẩu: Tà Lùng (Quảng Uyên), Lý Quốc, Thị Hoa (Hạ
Lang), Ngọc Khê (Trùng Khánh), Hùng Quốc (Trà Lĩnh), Sóc Hà (Hà Quảng).
Đó là thuận lợi rất cơ bản, tạo điều kiện tốt cho sự giao lưu nhân dân và Chính
quyền hai nước, đồng thời là cửa ngõ thơng thương để trao đổi sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ hai bên. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng: quan hệ giữa hai nước
Việt Nam, Trung Quốc không phải lúc nào cũng thuận buồm, xi gió, các hoạt
động xâm nhập trái phép qua biên giới, xâm canh, xâm cư, phá hoại đường biên,
mốc giới, buôn bán ma túy… vẫn diễn ra âm thầm. Chính vì vậy, ngồi việc tận
dụng những lợi thế của vùng biên để phát triển kinh tế, chúng ta vẫn phải đề cao
ý thức cảnh giác, chống lại các hoạt động phá hoại, bảo vệ mối quan hệ hịa
bình, hữu nghị giữa hai bên Việt Nam, Trung Quốc.


12
Theo kết quả cuộc Tổng điều tra dân số ngày 01/4/2009, dân số Cao Bằng
là 510.884 người, trong đó nữ 257.757 người, chiếm 50,45%, nam 253.127
người, chiếm 49,55%. Số người trong độ tuổi lao động của tỉnh Cao Bằng là

335.829 người; trong đó thành thị có 59.200 người, nơng thơn có 276.629 người.
Vị trí, vai trị các xã của tỉnh Cao Bằng
Trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, xã có vị trí, vai trị đặc biệt quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,văn hóa, xã hội. Là cấp cuối
cùng trong hệ thống tổ chức 4 cấp của hệ thống chính trị, xã là nơi cộng đồng
dân cư làm ăn, sinh sống, liên kết chặt chẽ với nhau trong các mối quan hệ
anh, em, họ tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, nghề nghiệp, quan hệ kinh tế… Xã
được hình thành từ các làng, mỗi làng, xã đều có đặc điểm chung về cấu trúc
văn hóa, phong tục tập quán… nhưng nó cũng có nhiều nét riêng biệt. Xã nằm
trong hệ thống chính trị, là một thiết chế xã hội, có đầy đủ các tổ chức như:
Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội, các
tổ chức kinh tế… hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Xã
là nơi tập trung lực lượng lớn lao động, đất đai; là nơi sản xuất ra lương thực,
thực phẩm ni sống tồn xã hội, nơi tổ chức thực hiện, biến mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở thành hiện thực cuộc sống. Xã
cũng là nơi phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân; là nơi
kiểm nghiệm trên thực tế sự đúng đắn cả các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước; là nơi bổ sung, hồn chỉnh các chủ trương, chính
sách đối với nơng nghiệp và nông dân.
Đặc điểm các xã của tỉnh Cao Bằng
Đặc điểm về địa lý tự nhiên: Cao bằng có 179 xã trên tổng số 199 các
đơn vị cơ sở cấp xã, (chiếm 94,7%). Đa số các xã của Cao Bằng là xã miền
núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên giới, các hộ gia đình thường
khơng tập trung, nằm rải rác ở lưng chừng đồi, núi; các xóm cách xa nhau


13
hàng chục km, đường giao thơng đi lại khó khăn. Địa hình các xã thường
phức tạp, bao gồm các dãy núi đá vôi phân cách với các đỉnh nhọn dạng tai

mèo, ghồ ghề lởm chởm cao thấp khác nhau, nhiều hang hốc tự nhiên, xen kẽ
giữa các dãy núi là những thung lũng hẹp, diện tích đất canh tác lúa nước rất
ít. Khí hậu ở những nơi này thường rất khắc nghiệt, khơ, nóng về mùa hè,
lạnh giá về mùa đơng, nhiều nơi có tuyết rơi, sương muối, nguồn nước khan
hiếm ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt cũng như sản xuất của nhân dân.
Đặc điểm về kinh tế - xã hội: Các xã ở Cao bằng là đơn vị cơ sở sản
xuất nơng nghiệp mang nặng tính tự cấp, tự túc, chuyển hướng sản xuất hàng
hóa cịn chậm, hiệu quả thấp, chưa đều giữa các vùng và chưa vững chắc. Các
xã vùng cao, vùng biên giới, kinh tế chủ yếu là thuần nơng, phát rừng làm
nương, tình trạng du canh, dư cư vẫn cịn tồn tại. Nhìn chung đời sống nhân
dân các xã còn ở mức thấp và gặp nhiều khó khăn. Cao Bằng có 5 huyện
trong tổng số 62 huyện nghèo nhất cả nước; trong số 179 xã tồn tỉnh có 138
xã đặc biệt khó khăn; đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo chiếm 23,96%.
Các xã của Cao Bằng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc như:
Tày, Nùng, Dao, Mông, Kinh, Sán Chỉ, Lô Lơ... họ vốn có truyền thống u
nước, lao động cần cù, sáng tạo, đoàn kết, thương yêu, dũng cảm hy sinh cho
độc lập tự do và sự phát triển của đất nước. Song do sống lâu ở vùng rừng núi
cao, vùng sâu, vùng xa, xa các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, giao
thơng trắc trở nên đời sống vật chất, tinh thần của họ cịn gặp nhiều khó khăn.
Các hoạt động văn hóa thiếu thốn, ít được tiếp cận với thơng tin bên ngồi
dẫn tình trạng xa lạ với xã hội hiện đại, hình thành tâm lý bảo thủ, tự ti, an
phận… Đây là điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch mua chuộc, lơi kéo,
kích động, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị các xã nhìn chung cịn yếu, trình
độ thấp, đào tạo khơng cơ bản, quen với phong cách lãnh đạo, quản lý theo kiểu
quan liêu, giấy tờ, sự vụ, không sâu sát nhân dân; năng lực quản lý, điều hành


14
cịn hạn chế, khả năng vận dụng, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước còn lúng túng, chưa đủ sức giải quyết các vấn
đề phức tạp diễn ra ở cơ sở… Nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, những
hạn chế đó càng bộc lộ rõ. Đây là một trong những trở ngại cho việc tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
Đặc điểm về an ninh - quốc phòng: Là một tỉnh biên giới có đường
biên dài 312 km, các xã giáp biên giới Việt -Trung (gồm 46/179 xã) còn là
“phên dậu” có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ độc lập chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ, gìn giữ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của
tỉnh. Cùng với các lực lượng vũ trang, nhân dân các xã góp phần to lớn trong
việc bảo vệ đường biên, mốc giới, chống buôn bán trái phép… sẵn sàng đối
phó với các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Tuy nhiên, tình hình an ninh trật tự tại các xã biên giới còn bất ổn.
Nhiều gia đình ở đây có nguồn gốc di cư từ Trung Quốc sang, hiện nay có
người thân quan hệ hôn nhân không hợp pháp với người Trung Quốc hoặc đi
làm ăn tại Trung Quốc. Theo số liệu thống kê của các ngành chức năng, số
phụ nữ đi làm ăn và sang lấy chồng Trung Quốc là 2026 người, trong đó đi
trước tháng 2 năm 1979 là 59 người, sau tháng 2 năm 1979 là 1967 người; tại
các xóm đặc biệt khó khăn, có xóm 100% đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo
Tin lành (xóm Cao Lù - Ca Thành - Nguyên Bình), các thế lực thù địch
thường lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, gây ảnh
hưởng xấu đến đời sống sản xuất và thuần phong mỹ tục của nhân dân. Do
đường lối đối ngoại đúng đắn của ta Trung Quốc đã bình thường hóa quan hệ
nhưng họ vẫn theo đuổi chiến lược vừa “rắn”, vừa “mềm” nhằm chi phối
chúng ta. Để thực hiện âm mưu này phía Trung Quốc vẫn thường xuyên gây
ra sự mất ổn định ở khu vực biên giới như: phá hoại đường biên, mốc giới,
công khai xâm lấn phá hoạt mùa màng, gây chiến tranh tâm lý bằng nhiều thủ
đoạn, bắt cóc, bn bán phụ nữ, trẻ em, vận chuyển ma túy… gây khơng ít


15

khó khăn cho cuộc sống của nhân dân các xã biên giới, ảnh hưởng đến công
tác lãnh đạo, chỉ đạo của hệ thống chính trị cơ sở.
1.1.2. Các Đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng - vị trí, vai trị, chức năng,
đặc điểm
Vị trí, vai trị các đảng bộ xã của tỉnh Cao Bằng
Các đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng trực tiếp lãnh đạo nhân dân sống trên
địa bàn thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở, các đảng bộ xã là một bộ phận, đồng thời
lãnh đạo hệ thống ấy. Các đảng bộ giữ vai trò là hạt nhân chính trị, lãnh đạo
trực tiếp mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng trên địa bàn các xã.
Các đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng là nền tảng của Đảng, là chủ thể trực
tiếp đưa đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nghị quyết, chủ trương của cấp trên đến với nhân dân và lãnh đạo, tổ chức
thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương nghị quyết; lãnh đạo mọi hoạt động
ở xã, thị trấn đảm bảo cho các hoạt động đi đúng đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các đảng bộ xã ở tỉnh Cao Bằng lãnh đạo nhân dân đóng góp những kinh
nghiệm cho Đảng để Đảng sửa đổi, bổ xung làm cho chủ trương, chính sách cho
đúng hơn và đề ra chủ trương, chính sách mới phù hợp với địa phương. Các
đảng bộ xã là cầu nối liền Đảng với nhân dân ở cơ sở, nắm bắt tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng chính đáng của đơng đảo nhân dân phản ánh với Đảng. Thơng qua
hoạt động của mình, đảng bộ xã còn là chủ thể trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết
nạp đảng viên, tiến hành tất cả các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng.
Chức năng các đảng bộ xã của tỉnh Cao Bằng
Theo quy định số 95-QĐ/TW, ngày 3/3/2004 của Ban Bí thư Trung
ương khóa IX về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã:
Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện
đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo



16
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị xã vững
mạnh, nơng thơn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm
tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước [8, tr.18].
Là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở có nghĩa là các đảng bộ xã luôn
phải quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với địa phương, cụ thể hóa thành
nhiệm vụ, mục tiêu, chương trình hành động để thực hiện đạt kết quả tốt. Hoạt
động lãnh đạo của đảng bộ các xã phải thể hiện rõ sự định hướng chính trị
đúng đắn cho các hoạt động trên địa bàn, đảm bảo cho các hoạt động đó đi
đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các đảng bộ xã còn trực tiếp lãnh đạo xây dựng Chính quyền, các đồn thể
chính trị - xã hội, các tổ chức hội nghề nghiệp, lãnh đạo hoạt động các tổ chức
đó theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong xây dựng tổ chức và hoạt động
của các tổ chức đó.
Trong giai đoạn cách mạng mới muốn thực hiện tốt chức năng lãnh đạo
chính trị ở cơ sở, các đảng bộ xã phải thông hiểu, nắm vững, chấp hành, quán
triệt và vận dụng đúng đắn sáng tạo nghị quyết, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các cơ quan cấp trên cho phù hợp
với điều kiện thực tế ở nơng thơn. Trên cơ sở đó đề ra các đề án, chủ trương,
giải pháp đồng bộ; đồng thời đảng bộ lãnh đạo xây dựng Chính quyền, các tổ
chức quần chúng, các tổ chức kinh tế xã hội khác. Các đảng bộ có kế hoạch
tiến hành kiểm tra thường xuyên các hoạt động trong hệ thống chính trị ở cơ sở,
kịp thời biểu dương những đơn vị làm tốt, ngăn chặn những tiêu cực, đảm bảo
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cấp trên thực hiện có
hiệu quả. Mọi hoạt động lãnh đạo của đảng bộ nhằm phát triển tồn diện nơng
nghiệp, nơng thơn, xây dựng đời sống văn hóa mới, nâng cao đời sống vật chất



17
tinh thần cho nhân dân, khơi dậy các phong trào cách mạng của quần chúng
nhân, thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, bảo vệ tổ quốc tại địa phương. Đồng thời, các đảng bộ xã phải tiến hành
các hoạt động xây dựng nội bộ đảng, nâng cao chất lượng lãnh đạo của mình.
Đặc điểm các đảng bộ xã của tỉnh Cao Bằng
Các đảng bộ xã của tỉnh Cao Bằng đều là đảng bộ cơ sở, khơng có đảng
bộ bộ phận ở các thơn, làng, các chi bộ xóm trực thuộc đảng ủy xã, tức là
khơng có đảng bộ trung gian, các đảng bộ xã của tỉnh đều là đảng bộ 2 cấp.
Hầu hết các đảng bộ xã ở Cao Bằng đều có bề dày truyền thống cách mạng,
đều trưởng thành trong q trình đấu tranh giành Chính quyền, chống thực
dân, đế quốc xâm lược. Trong cuộc đấu tranh đó các đảng bộ xã và nhân dân
các dân tộc trong tỉnh đã đóng một phần khơng nhỏ góp sức người, sức của cho
cách mạng. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất nước, phát
huy truyền thống cách mạng của mình các đảng bộ xã đã lãnh đạo nhân dân xây
dựng nông thôn mới, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng.
Các đảng bộ xã ở Cao Bằng hoạt động trong điều kiện khó khăn của
vùng miền núi về điều kiện tự nhiên, về trình dộ dân trí; trình độ, năng lực của
đảng viên ở đây đã từng bước được nâng lên về mọi mặt nhưng so với yêu
cầu nhiệm vụ vẫn chưa ngang tầm; trình độ lý luận, chính trị, chun mơn,
nghiệp vụ cịn thấp và chưa đồng đều; tuổi đời đảng viên tương đối cao, chất
lượng đội ngũ cán bộ cấp ủy còn thấp, cơ cấu chưa đồng đều.
1.2. CHẤT LƯỢNG CÁC ĐẢNG BỘ XÃ Ở TỈNH CAO BẰNG HIỆN NAY –
QUAN NIỆM, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐẢNG BỘ

1.2.1. Quan niệm về chất lượng của các đảng bộ xã
Quan niệm về chất lượng. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “chất lượng” là

cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật [25, tr.331]. Theo Từ điển
triết học: “chất lượng” (chất) là tính quy định bản chất của sự vật, tính quy
định những đặc điểm và tính chất vốn có của sự vật như nó đang tốn tại, chứ


18
khơng phải sự vật nào khác; tính quy định đó phân biệt sự vật ấy với sự vật
khác [24, tr.150].
Từ những điều trình bày ở trên có thể quan niệm: Chất lượng các đảng bộ
xã ở của Cao Bằng là tổng hợp những thuộc tính bản chất, đặc trưng biểu hiện
ở khả năng lãnh đạo và hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao; ở kết quả,
mức độ xây dựng nội bộ đảng bộ trong sạch, vững mạnh trên các mặt chính trị,
tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho đảng bộ luôn thực hiện tốt chức năng hạt
nhân lãnh đạo chính trị ở xã. Chất lượng đó được biểu hiện ở các tiêu chí sau:
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng các đảng bộ xã
của tỉnh Cao Bằng
Đánh giá đúng thực chất chất lượng tổ chức cơ sở đảng có ý nghĩa rất
quan trọng trong cơng tác xây dựng Đảng. Thông qua việc đánh giá chất
lượng giúp cấp ủy đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng, củng cố, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng. Trong những năm qua Ban
tổ chức Trung ương đã dày công nghiên cứu, ban hành nhiều hướng dẫn về
đánh giá tổ chức cơ sở đảng và đảng viên như Hướng dẫn số 355, 416; Hướng
dẫn số 9,10; Hướng dẫn số 18,20 và Hướng dẫn số 01-HD/BTCTW ngày 1410-2006.
Qua 2 năm (2006,2007) thực hiện Hướng dẫn số 01-HD/BTCTW ngày
14-10-2006, việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên đã đi
vào nền nếp, tuy nhiên vẫn chưa phản ánh đúng thực chất chất lượng tổ chức
cơ sở đảng và đảng viên. Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 2-2-2008 của Ban chấp
Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ: việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng
và đảng viên hàng năm cịn hình thức và chạy theo thành tích, chưa phản ánh
đúng thực chất chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Nhằm

khắc phục những hạn chế, yếu kém, ngày 10-10-2008, Ban tổ chức Trung
ương đã ban hành Hướng dẫn số 20-HD/BTCTW về đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên thay thế Hướng dẫn số 01 và thực hiện từ năm


19
2008. Hướng dẫn lần này có một số điểm mới đáng chú ý là: việc đánh giá,
xếp loại tổ chức cơ sở đảng phải căn cứ vào thực hiện nhiệm vụ chính trị được
giao, chất lượng hoạt động, sự vững mạnh của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên là chính; đồng thời kết hợp
với phương pháp chấm điểm và thông báo công khai để cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân được biết; các tiêu chí của tổ chức cơ sở đảng trong
sạch vững mạnh cũng được cụ thể hơn và có yêu cầu cao hơn trước đây; đồng
thời xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy các cấp, nhất là cấp ủy cấp trên trực
tiếp trong việc chỉ đạo, kiểm tra, thẩm định và quyết định về chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên.
Từ những quan niệm về chất lượng các đảng bộ xã của Cao Bằng như
đã trình bày ở trên; đồng thời dựa vào tinh thần các văn kiện của Đảng, nhất
là hướng dẫn số 20-HD/BTCTW ngày 10-10-2008 của Ban tổ chức Trung
ương Đảng, có thể đưa ra các tiêu chí sau đây để đánh giá chất lượng của các
đảng bộ xã của Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương.
Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá chất lượng của các
đảng bộ xã. Bởi vì suy cho cùng, hiệu quả lãnh đạo của một đảng bộ xã phải
thể hiện trước hết ở kết quả lãnh đạo hồn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị
của đảng bộ, mà nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là lãnh đạo hoàn thành tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã - hội của xã. Kết quả đó được thể hiện ở những
tiêu chí cụ thể sau đây:
Lãnh đạo thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,

nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nơng thơn
tồn diện gắn với chế biến nơng sản hàng hóa, đẩy mạnh việc áp dụng khoa
học, kỹ thuật, làm ra nhiều sản phẩm trên một đơn vị diện tích gieo trồng,
nâng cao thu nhập cho bà con nông dân.
Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện và nâng cao đời sống


20
vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện chính sách xã hội; khơi dậy
và phát huy được nhiều nguồn đầu tư cho sự phát triển của xã, có biện pháp
khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, thu hút được nhiều chương
trình, dự án, nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội nông thôn
vào địa bàn xã, phát triển ngành nghề sản xuất, giải quyết việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động. Đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng như
tiến hành xây dựng mới, nâng cấp các cơng trình thủy lợi, hệ thống giao
thông nông thôn, trường học, trạm xá, trụ sở làm việc và các cơng trình
phúc lợi… phục vụ tốt cho việc phát triển kinh tế - xã hội và đời sống cho
nhân dân, góp phần tạo ra diện mạo mới của nông nghiệp, nông thôn trên
địa bàn xã.
Hoàn thành các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội và các nghĩa vụ
đối với Nhà nước; thực hiện có hiệu quả mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, thực
hiện xã hội hóa giáo dục, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, tiến tới
phổ cập trung học phổ thơng; nâng cao trình độ dân trí, phát huy dân chủ, tăng
trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện tốt chương trình
truyền thơng dân số, đạt các chỉ tiêu về kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia
đình, làng, bản văn hóa.
Thứ hai, lãnh đạo tốt cơng tác tư tưởng ở cơ sở
Đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cho quần
chúng nhân dân ở cơ sở; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bồi dưỡng lịng u nước, ý chí tự

lực, tự cường, giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng, tạo sự đồng thuận
trong quần chúng nhân dân ở cơ sở.
Bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của quần chúng
nhân dân để giải đáp sát thực, kịp thời; khắc phục những biểu hiện phai nhạt
lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân; chủ động và kiên quyết phê phán
những quan diểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động, góp phần làm


21
thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Quan tâm giáo dục, rèn luyện cho quần chúng nhân dân đặc biệt là thế hệ
trẻ để mỗi người thực sự trong sáng về phẩm chất đạo đức lối sống, hết lịng vì
sự nghiệp cách mạng. Tổ chức thực hiện, rộng khắp, có chiều sâu, thiết thực,
hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
trong cán bộ, đáng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở. Đẩy mạnh cuộc đấu
tranh phịng chống tham nhũng, mở rộng dân chủ, cơng khai hóa các chế độ,
chính sách để nhân dân được giám sát; xây dựng thiết chế bảo vệ những người
có cơng trong cuộc đấu tranh phịng chống tham nhũng, lãng phí, biểu dương,
nhân rộng những tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư.
Thứ ba, lãnh đạo giữ vững an ninh quốc phịng và trật tự an tồn xã
hội ở cơ sở.
Lãnh đạo tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho
nhân dân và vận động nhân dân thực hiện đúng chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an tồn xã hội ở xã, khơng để xảy ra những điểm nóng, những hành động gây
rối, phá hoại, giải quyết tốt những mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân
dân. Lãnh đạo hoàn thành tốt các chỉ tiêu tuyển quân, các nhiệm vụ quân sự
địa phương, xây dựng nền quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân
trên địa bàn xã.
Thứ tư, lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.

Tăng cường lãnh đạo Chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các đồn thể
chính trị - xã hội, thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết của Đảng và tổ chức thực
hiện có hiệu quả. Lãnh đạo xây dựng Chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ
cán bộ thật sự vững mạnh, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đối với Chính
quyền phải xác định phạm vi lãnh đạo và nhiệm vụ quản lý chính quyền cơ
sở, hồn thiện bộ máy, cải cách hành chính, giáo dục phẩm chất đạo đức cho


22
cán bộ đảng viên, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn phương
thức lãnh đạo. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ đối với
Chính quyền, Mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội, làm cho Đảng thực
hiện đúng chức năng lãnh đạo chính trị, phát huy hiệu lực của cơ quan Chính
quyền, các tổ chức kinh tế và đồn thể chính trị - xã hội; khơi dậy và phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Trong quá trình lãnh đạo, tổ chức đảng không can thiệp quá sâu, không
trực tiếp giải quyết các vấn đề thuộc về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền,
đồn thể và các tổ chức kinh tế xã hội. Tổ chức Đảng định hướng, nắm cơng
tác tổ chức cán bộ, phát huy vai trị của đảng viên trong tổ chức đó bằng việc
lắng nghe, tơn trọng ý kiến của nhân dân
Thứ năm, các đảng bộ được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Các đảng bộ xã phải cụ thể hóa, luật pháp hóa đường lối, chỉ thị, nghị
quyết của đảng bộ cấp trên về phát triển kinh tế xã - hội, an ninh, quốc phòng
ở cơ sở, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với các nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội. Nắm vững và vận dung sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới tư duy, kiên định nguyên tắc chiến lược, sáng
tạo về sách lược, phương pháp, chống bảo thủ, giáo điều, lạc hậu. Phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Coi trọng nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, kịp thời tổng kết thực tiễn để bổ xung, hoàn hiện đường lối.
Các đảng bộ xã tăng cường công tác tư tưởng, tuyên truyền sâu rộng chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giáo dục phẩm
chất đạo đức cách mạng, chăm lo củng cố khối đoàn kết thống nhất trong đảng
bộ, thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình, bám sát thực tiễn, lắng nghe
nguyện vọng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, kiên quyết chống lại


23
các luận điệu sai trái, góp phần làm thất bại âm mưu phá hoại của kẻ thù. Rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; quan tâm giáo
dục và rèn luyện cán bộ đảng viên để mỗi người thực sự là tấm gương sáng về
phẩm chất đạo đức, lối sống, hết lịng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng. Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đổi mới nội dung hình thức
sinh hoạt chi bộ, xây dựng cơ chế để nhân dân tham gia giám sát cán bộ, đảng
viên. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phịng chống tham nhũng, lãng phí, đẩy lùi các
biểu hiện tiêu cực, chống tư tưởng thực dụng, tệ cục bộ, quan liêu, tham nhũng
và sự thối hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đổi mới
và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, tăng cường sự
lãnh đạo của cấp ủy đảng trên lĩnh vực tư tưởng; kiện toàn tổ chức, nâng cao
phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng ở cơ sở.
Chú trọng việc sắp xếp, kiện toàn bộ máy Đảng và hệ thống chính trị sao
cho gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
phương thức hoạt động của từng tổ chức trong hệ thống, tinh giản biên chế, cải
tiến lề lối làm việc. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ
cơ sở thực sự có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có trình độ trí tuệ, năng
lực lãnh đạo, quản lý; quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ gia đình có cơng với

cách mạng, thực hiện tốt các khâu trong công tác quy hoạch cán bộ. Quán triệt
và thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời đề cao trách nhiệm
của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức; đổi mới
mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu trong quy trình cơng tác cán bộ: đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ; nâng
cao chất lượng đảng viên về tư tưởng, chính trị, trình độ, năng lực, phẩm chất
đạo đức, lối sống; đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.
Thứ sáu, các đảng bộ có mối liện hệ gắn bó mật thiết với nhân dân,


24
được nhân dân tin tưởng, yêu mến
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
các chủ trương, chính sách của đảng bộ phải phù hợp với nguyện vọng của
dân, đặc biệt cần hướng mọi hoạt động của Đảng xuống cơ sở, chủ trương
hướng về cơ sở phải trở thành hành động thiết thực của hệ thống chính trị.
Xác định chính sách cụ thể, phù hợp với các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân
tộc ở cơ sở… nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng. Xây
dựng và hoàn thiện cơ chế đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân như: thực
hiện có hiệu quả cải cách bộ máy nhà nước ở cơ sở trước hết là cải cách hành
chính, tổ chức thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, thể chế hóa vai trị
tham gia quản lý nhà nước, tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân…Đặc biệt trong tình hình hiện nay, cấp ủy thường xuyên chỉ
đạo, bám sát nhân dân, lắng nghe nguyện vọng và xử lý kịp thời các ý kiến
của nhân dân; phát huy vai trò gương mẫu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
Tóm lại: Một đảng bộ xã có chất lượng, tức là đảng bộ đó phải lãnh
đạo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh tế, xã hội, tổ chức chính quyền, Mặt
trận và các đồn thể nhân dân vững mạnh, đảng bộ và các chi bộ trực thuộc

trong sạch, vững mạnh, an ninh chính trị, trật tư, an toàn xã hội ở xã được giữ
vững, đời sống của nhân dân trên địa bàn được nâng lên, uy tín đảng bộ đối
với nhân dân ngày càng được củng cố và nâng cao.
Từ quan niệm về chất lượng của các đảng bộ xã cho thấy việc nâng cao
chất lượng đảng bộ các xã ở Cao Bằng rất quan trọng, vừa mạng tính cấp bách,
vừa mang tính thường xuyên, vừa là hoạt động tăng cường, phát huy nội lực
của đảng bộ, đồng thời vừa địi hỏi sự tham gia tích cực của các tổ chức trong
hệ thống chính trị của quần chúng nhân dân trong việc xây dựng đảng bộ và sự
quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của tổ chức đảng cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp.
Cũng từ quan niệm về chất lượng các đảng bộ xã, để nâng cao chất


25
lượng cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp như: nâng cao trình độ học
vấn, chun mơn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực tư duy nhất là năng lực tư
duy chính trị, tư duy kinh tế và năng lực tổ chức thực hiện cho đội ngũ cán bộ
đảng viên, nhất là cấp ủy viên và cán bộ chủ chốt; nâng cao bản lĩnh chính trị,
rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tính tiên phong gương mẫu của đội
ngũ cán bộ đảng viên; thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng,
nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình, tăng cường kỷ luật; xây dựng
khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ đảng; phát huy vai trị của các tổ chức
trong hệ thống chính trị và của nhân dân tham gia xây dựng đảng bộ; nâng
cao chất lượng các bản quy chế, duy trì và thực hiện nghiêm các quy định,
chương trình, kế hoạch của cấp ủy và chính quyền cấp trên…
1.2.3. Những vấn đề chủ yếu về nâng cao chất lượng các đảng bộ xã
của tỉnh Cao Bằng
Thứ nhất, quan niệm về nâng cao chất lượng của các đảng bộ xã.
Trên cơ sở quan niệm về chất lượng các đảng bộ xã của tỉnh Cao Bằng,
hiện nay có thể hiểu hoạt động nâng cao chất lượng các đảng bộ xã ở đây như
sau:“Là hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên và các đảng bộ xã

thực hiện đồng bộ các giải pháp làm cho chất lượng các đảng bộ xã những
năm sắp tới cao hơn chất lượng hiện tại, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của nó”.
Thứ hai, những cơng việc chủ yếu cần thực hiện để nâng cao chất
lượng các đảng bộ xã của tỉnh Cao Bằng.
Một là: nâng cao trình độ nhận thức, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt của đảng
bộ… đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Hai là: nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tác
phong cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, thể hiện rõ tính tiên phong, gương mẫu
trước quần chúng, thực sự là tấm gương để quần chúng noi theo.
Ba là: thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, sắp xếp tinh gọn bộ


×