Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Tieu luan chinh sach cong chính sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới của nước cộng hoà dân chủ nhân dân lào từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.52 KB, 67 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ Đại hội IV năm 1986, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khởi xướng và
lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước.Hai mươi năm qua, sự nghiệp đổi mới của
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
quan trọng. Đường lối, chính sách đối ngoại là một bộ phận trong tồn bộ đường
lối, chính sách nói chung của một chủ thể quyền lực chính trị. Là sự tiếp tục của
chính trị đối nội, chính sách đối ngoại có mục tiêu góp phần bảo vệ và nâng cao
vị trí của quốc gia trên trường quốc tế. Việc đề ra và thực thi chính sách đối
ngoại như thế nào đều có ảnh hưởng tới hồ bình, ổn định và phát triển của mỗi
quốc gia, cũng như sự hưng vong của mỗi dân tộc. Vì vậy cũng giống như các
chủ thể nắm quyền lực chính trị ở các nước khác, trong tổng thể đường lối và
chính sách của mình, Đảng và Nhà nước Lào ln rất quan tâm tới chính sách
đối ngoại. Trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt về mặt kinh tế và khoa học công nghệ trên thế giới, mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia đang diễn ra những chuyển biến quan trọng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV (1986) của Đảng nhân dân cách mạng
Lào về công tác đối ngoại theo tư duy mới, các bộ tộc Lào đã cố gắng tạo lập
mơi trường hồ bình nhằm phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình, phối hợp đấu tranh hướng tới
biện pháp giải quyết về mặt chính trị đúng đắn các vấn đề quốc tế có liên quan,
góp phần củng cố hồ bình, ổn định ở Đơng Nam Á, đóng góp vào sự nghiệp
chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Trong sự nghiệp đổi mới, địa vị của đất nước Lào trên trường quốc tế ngày
càng được củng cố và tăng cường. Quan hệ quốc tế, nhất là về mặt kinh tế được


2

mở rộng, do đó từng bước kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của


thời đại để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đúng như Đảng và Nhà
nước Lào đã khẳng định: Nguyện vọng tha thiết của nhân dân các bộ tộc Lào là
đoàn kết với các dân tộc trên thế giới. Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tiếp tục
thực hiện một cách nhất qn chính sách đối ngoại hồ bình, độc lập, hữu nghị
tốt với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau, trên
cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, bình đẳng đơi bên cùng
có lợi, góp phần cùng với các dân tộc trên thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội".
Thế giới ngày nay đang vận động, biến đổi rất nhanh chóng, phức tạp và khó
lường. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các bộ tộc Lào đang đứng
trước những vận hội mới, nhưng cũng đang đối diện với khơng ít thách thức to
lớn về nhiều mặt. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong điều kiện hội nhập
quốc tế hiện nay là phải bám sát sự biến động của tình hình trong nước và quốc
tế để đề ra chính sách đối ngoại có hiệu quả, nhằm phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào hướng tới mục tiếu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Việc nghiên cứu để nắm được q
trình hình thành và phát triển đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là một trong những vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ nhận thức đó em chọn
đề tài: "Chính sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới của nước Cộng hoà Dân
chủ nhân dân Lào từ năm 1986 đến nay" làm tiểu luận kết thúc mơn học
Chính sách cơng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


3

Đường lối, chính sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới của Đảng và Nhà
nước Lào cũng như các vấn đề liên quan đã được nhiều người quan tâm nghiên
cứu trực tiếp hoặc gián tiếp với những khía cạnh khác nhau.Những nội dung cơ

bản về chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước Lào
được thể hiện rõ nét trong văn kiện Đảng, các sách và bài viết, bài phát biểu của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Lào.
Trong thời kỳ đổi mới, khi nghiên cứu về chính sách và quan hệ đối ngoại
khơng thể không đề cập các văn kiện như: Văn kiện Đại hội III Đảng Nhân dân
cách mạng Lào Lào (Nxb Nhà in quốc gia Lào, 1982); Văn kiện Đại hội IV Đảng
Nhân dân cách mạng Lào (Nxb Nhà in quốc gia Lào, 1986); Nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương 5 khố IV (1988); Chuyển xuống nơng thơn và mở rộng
quan hệ với nước ngoài - Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương 7 khoá IV
(1989); Văn kiện Đại hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào ( Nxb Quốc gia Lào,
1991); Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương 5 khoá V (1992); Văn kiện
Đại hội VI Đảng Nhân dân cách mạng Lào (Nxb Quốc gia Lào, 1996); 5 kinh
nghiệm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào từ sự lãnh đạo đổi mới ( Ban Tuyên
huấn Trung ương, 2000); Văn kiện Đại hội VII Đảng Nhân dân cách mạng Lào
(Nxb Quốc gia Lào, 2001); Hiến pháp của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (sửa
đổi, bổ sung); Luật pháp về sự quản lý địa phương (2003); Văn kiện Đại hội VIII
Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993);
GS. Lương Ninh - PGS. Nguyễn Đình Vỳ - PGS. Đinh Ngọc Bảo: Đất nước Lào
lịch sử và văn hố (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); PGS.TS Nguyễn
Xuân Sơn và Th.S Thái Văn Long: Quan hệ đối ngoại của các nước ASEAN
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); Đề tài khoa học cấp Bộ: Quan hệ giữa


4

Việt Nam và Lào trong giai đoạn hiện nay của Viện Quan hệ quốc tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Hà Nội, 2000); Nguyễn Văn Lung: Một số vấn
đề về quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Lào (Tiểu luận tốt nghiệp lý luận chính
trị cao cấp lớp Ban Tổ chức Trung ương khoá 1999-2001); Dương Thị Huệ

(2004): Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối đối ngoại trong
những năm đổi mới từ 1991-2001 (Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh); Ngơ Chí Nguyện (2005): Q trình hoạch định và thực
thi đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ 1991 đến nay
(Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh)...
Các cơng trình và các bài viết nói trên, dưới góc độ và cách tiếp cận khác
nhau đã đề cập, phân tích từng mặt, từng khía cạnh của đường lối, chính sách đối
ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Lào; đồng thời nêu ra những bài học kinh
nghiệm lãnh đạo đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam, có giá trị tham
khảo hữu ích khi nghiên cứu có một cách tiếp cận, phạm vi nghiên cứu và sự
đánh giá khác nhau. Song, nhìn chung đều nhấn mạnh yêu cầu tất yếu của việc
đổi mới mạnh mẽ chính sách đối ngoại của Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào nói
riêng và của các nước nói chung nhằm hội nhập với khu vực và thế giới một cách
hiệu quả. Mặt khác, các cơng trình, bài viết cũng nêu bật những thành tựu cùng
với những khó khăn, hạn chế trong q trình tiến tới chính sách đối ngoại của
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Trong phạm vi nghiên cứu và cách tiếp cận
dưới góc độ của khoa học chính trị học, đề tài tiểu luận này mong muốn góp
thêm một tiếng nói trong việc nghiên cứu, đánh giá về quá trình hình thành ,
những kết quả của việc thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của CHDCND


5

Lào trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay và xu hướng vận động của nó
những năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, sự hình thành hồn thiện, phát
triển đường lối, chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, từ đây nêu và đánh giá đúng những
thành tựu và hạn chế của việc thực hiện đường lối, chính sách đó, đề xuất một số
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào
trong những năm tới.
3.2.Nhiệm vụ của tiểu luận
Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong thời kỳ đổi mới. Đánh giá kết quả việc
thực hiện chính sách đối ngoại trong điều kiện hội nhập quốc tế, chỉ ra những
nguyên nhân của thành tựu và hạn chế chủ yếu.
Đề xuất một số kiến nghị đối với công tác đối ngoại của Đảng và Nhà
nước Lào nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế trong những năm tới.
Việc nghiên cứu đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Lào được nhìn nhận, phân tích và đánh giá dưới góc độ của khoa học chính trị
học.
4. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào có thể
tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau về mặt thời gian, khơng gian và nội dung.
Song đề tài này tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của Cộng nhịa dân
chủ nhân dân Lào từ Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VI (1996)


6

đến nay. Đại hội VI với tính cách một dấu mốc bước ngoặt trong đường lối,
chính sách đối ngoại đổi mới do Đảng nhân dân cách mạng Lào khởi xướng từ
Đại hội IV (1986). Tuy nhiên, trong tính hệ thống của nó, đề tài có liên hệ, phân
tích chính sách đối ngoại từ Đại hội IV và việc thực hiện chính sách đó như là
nền móng ban đầu của q trình đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Lào trong điều kiện hội nhập quốc tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này, tác giả dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào về dân tộc
và thời đại, về các mối quan hệ quốc tế và về đường lối, chính sách đối ngoại.
Đây là cơ sở lý luận quan trọng nhất định hướng quá trình thực hiện đề tài tiểu
luận.
Về phương pháp nghiên cứu, tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp chặt chẽ các phương pháp
phân tích, tổng hợp thống kê, khảo sát văn bản, kết hợp giữa lý luận với thực
tiễn, lịch sử và lơgíc.
6. Những đóng góp mới của tiểu luận
Tiểu luận kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, từ đó
phân tích chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thời kỳ
đổi mới một cách lơgíc, hệ thống và luận giải dưới góc độ của khoa học chính trị.
Tiểu luận đi sâu phân tích, làm rõ chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, góp phần tổng kết
việc thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Lào trong 20
năm qua. Đồng thời, trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và quốc tế hiện
nay và những năm sắp tới, tiểu luận đề xuất một số kiến nghị đối với việc tăng


7

cường hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong điều kiện
từng bước đi sâu hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận
Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc
tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại và chính sách đối ngoại của nước Cộng hịa dân
chủ nhân dân Lào trong điều kiện hội nhập quốc tế. Những kiến nghị được đề
xuất trong tiểu luận sẽ góp phần nhất định vào thúc đẩy sự nghiệp đổi mới nói
chung và đổi mới chính sách đối ngoại nói riêng tiếp tục hồn thiện, phát triển.
Tiểu luận cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với những ai quan tâm tìm

hiểu về đường lối đổi mới nói chung và đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới
nói riêng của Đảng và Nhà nước Lào.
8. Kết cấu của tiểu luận
Kết cấu của bài tiểu luận gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận.
Trong đó phần nội dung gồm ba chương .
Chương 1: Một số vấn dề lý luận chung về chính sách cơng và chính sách
đối ngoại của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào .
Chương 2: Thực tiễn việc thực hiện chính sách đối ngoại của nước cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách đối
ngoại của nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong những năm tiếp theo.


8

NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH
CƠNG VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1.1.Khái niệm, vị trí thực hiện chính sách cơng trong quy trình
chính sách
1.1.1.1.Khái niệm về chính sách
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế xã
hội, khái niệm chính sách được thể hiện với các cách hiểu khác nhau:
Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt mục đích nhất
định dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế đề ra.
Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một
chính phủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Chính sách là phương thức hành động được chủ thể khẳng định và thực

hiện nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống hiện tại.
1.1.1.2.Khái niệm chính sách cơng
Chính sách cơng là một trong những vấn đề quan trọng của chính trị, tuy
nhiên cho đến nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, nhận thức về vấn đề này
vẫn chưa thực sự thống nhất.
Ở nước ta, chính sách cơng thường được hiểu là chính sách, với nghĩa hẹp
là những chủ trương cụ thể của Nhà nước trong một lĩnh vực nào đó. Một số
cơng trình đã cố gắng đưa ra quan niệm về chính sách: “Chính sách là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện


9

trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội
dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối,
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…” . Các nhà nghiên cứu có cách
tiếp cận cụ thể hơn: “Chính sách cơng là chương trình hành động hướng đích
của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực cơng cộng…Đó là chương trình hoạt
động được suy tính một cách khoa học, liên quan với nhau một cách hữu cơ và
nhằm những mục đích tương đối cụ thể, chủ thể hoạch định chính sách cơng
nắm quyền lực nhà nước, chính sách cơng bao gồm những gì được thực sự thi
hành chứ không phải chỉ những là tuyên bố”.
Như vậy, về cơ bản, các định nghĩa về chính sách cơng tập trung vào chính
sách quốc gia – những chương trình hành động của nhà nước nhằm đạt được các
mục tiêu nhất định. Các chính sách khác nhau về phạm vi, tính phức tạp, mục
tiêu ra quyết định, cách lựa chọn và tiêu chuẩn quyết định. Các chính sách cũng
được đề ra và thực hiện ở những cấp độ khác nhau, từ những quyết định mang
tính tương đối ngắn hạn đến những quyết định có tính chiến lược có ảnh hưởng
đến quốc kế dân sinh. Vì vậy, chính sách cần được hiểu một cách uyển chuyển.
Theo nghĩa rộng chính sách cơng bao gồm: những việc Nhà nước định làm

hoặc không định làm. Điều đó có nghĩa là khơng phải mọi mục tiêu của chính
sách cơng đều dẫn tới hành động, mà nó có thể là u cầu của chủ thể khơng
được hành động. Chính sách tác động đến các đối tượng của chính sách - là
những người chịu sự tác động hay điều tiết của chính sách. Phạm vi điều tiết của
mỗi chính sách rộng hay hẹp tùy theo nội dung của từng chính sách. Có thể chia
thành đối tượng trực tiếp và đối tượng gián tiếp. Chính sách cơng được Nhà
nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đồng hoặc của quốc gia, gắn
với việc phân phối và sử dụng các nguồn lực công của Nhà nước.


10

Khái qt lại, Chính sách cơng là quyết định của các chủ thể quyền lực
Nhà nước, nhằm quy định mục đích, cách thức và chế định hành động của
những đối tượng liên quan, để giải quyết những vấn đề nhất định mà xã hội đặt
ra. Đó là tổng thể các chuẩn mực, biện pháp, thủ thuật mà Nhà nước sử dụng để
quản lý xã hội.
1.1.1.3.Khái niệm thực hiện chính sách cơng
Thực hiện chính sách cơng là giai đoạn chính trong quy trình chính sách ,
giai đoạn các chính sách đi vào cuộc sống. Các chính sách được hoạch định xuất
phát từ yêu cầu khách quan của cuộc sống , từ những nhu cầu của xã hội và của
nhân dân. Thực hiện chính sách là q trình giải quyết những nhu cầu đó, đem
lại những biến đổi trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm phục vụ lợi ích
của nhân dân. Đó là chuỗi các hành động và biện pháp cụ thể để thi hành một
quyết định chính sách đã được thơng qua.
Về thực chất đó là q trình chuyển những tuyên bố trên giấy tờ của chính
quyền về các loại dịch vụ, mục tiêu, đối tượng, phương thức thành những hành
động nhất định nhằm phân phối lợi ích từ tun bố . Trong q trình thực hiện
chính sách, các nguồn lực về tài chính cơng nghệ, con người được đưa vào sử
dụng một cách có định hướng . Nói cách khác đây là q trình kết hợp giữa yếu

tố con người với các nguồn lực này một cách có hiệu quả theo những mục tiêu
đề ra.
Từ đó ta có thể có khái niệm thực hiện chính sách: Thực hiên chính sách là
giai đoạn biến các ý đồ chính sách thành những kết quả thực tế thông qua hoạt
động có tổ chức của các cơ quan trong bộ máy nhà nước , nhằm đạt tới mục tiêu
đề ra.
1.1.1.4.Vị trí của thực hiện chính sách cơng


11

Các chính sách là sản phẩm tư duy con người, bản thân chúng không thay
đổi được đời sống hiện thực. Nó chỉ phát huy tác dụng thơng qua hoạt động của
các chủ thể chính trị và hoạt động thực tiễn của quảng đại quần chúng nhân dân.
Một chính sách dù được hoạch định tốt nhưng nếu không đưa ra thực hiện , hoặc
thực hiện nhưng kết quả kém thì cũng khơng có ý nghĩa thực thi. Đối với nhân
dân kết quả thực tế của chính sách là quan trọng hơn ý định ban đầu của chính
sách .
Các chính sách được đưa ra nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà
cuộc sống đặt ra và việc thực hiện các chính sách là nhằm tạo ra thay đổi trên
lĩnh vực theo hướng các mục tiêu chính sách đề ra . Vì vậy thực hiện chính sách
có ý nghĩa quyết định tới việc thành cơng hay thất bại của một chính sách. Giai
đoạn này quan trọng vì:
Đã là quá trình thực hiện thi nội dung chính sách dưới tác động của nhiều
yếu tố . Trong nhiều trường hợp những khó khăn nảy sinh trong quá trình triển
khai sẽ dẫn tới sửa đổi mục tiêu và nội dung chính sách . Các chính sách cũng có
thể bị biến dạng, thậm chí bị sai lệch hẳn với ý tưởng ban đầu thông qua việc
thừa hành của bộ máy hành pháp.
Thông tin nhận được trong q trình triển khai chính sách sẽ giúp đánh giá
lại các mặt của quyết định chính sách và thay đổi nó sau này. Sự vận động của

chính sách từ lý thuyết sang giai đoạn triển khai cụ thể dẫn đến sự nhìn nhận lại
qua đánh giá và xây dựng lại chính sách. Trên thực tế thực hiện chính sách được
coi là giai đoạn tổng hợp của quy trình chính sách gồm hoạch định, thực hiện,
đánh giá.
Tóm lại thực hiện chính sách là việc tiếp nối và chịu sự quy định của gai
đoạn hoạc định chính sách , song khơng hồn tồn lệ thuộc vào kết quả của cơng


12

tác hoạch định mà có vị trí độc lập riêng và có ý nghĩa quyết định với tồn bộ
quy trình chính sách.
1.1.2.Những nội dung cơ bản của thực hiện chính sách cơng
1.1.2.1.Lựa chọn cơ quan thực hiện chính sách cơng
Cơ quan chủ chốt thực hiện chính sách: Các chính sách là phương tiện
quản lý của nhà nước , do đó việc thực hiện chính sách trước hết phải thuộc về
các cơ quan nhà nước. Mỗi chính sách cũng thường đề cập đến nhiều phạm vi và
chức năng quản lý xã hội nên sẽ có nhiều cơ quan đứng ra thực hiện. Để phát
huy tính hiệu quả của chính sách thì cần có một cơ quan được ủy quyền thống
nhất các hoạt động của chính sách . Cơ quan này có vai trị, trách nhiệm chính
trong việc thực hiện chính sách, đó là cơ quan có khả năng thực hiện chính sách
có hiệu quả hơn hoặc cơ quan có vị thế cao hơn so với các cơ quan khác.
Cơ quan phối hợp thực hiện chính sách: Đây là cơ quan góp phần thúc đẩy
hoặc loại bỏ những tiêu cực trong thực hiện chính sách. Để có thể hồn thành
được nhiệm vụ được giao các cơ quan này cần phải cóa đầy đủ các nguồn tài
chính, nhân lực, vật lực cho việc triển khai thực hiện chính sách, phải có đủ thẩm
quyền kỹ thuật chuyên môn để biến các mục tiêu thành các chương trình hành
động cụ thể, cơ quan này phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của mình.
Mối quan hệ phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chính
sách: Phân cơng và phối hợp hoạt động là nguyên tắc cơ bản của tổ chức quản lý

nhằm phát huy vai trò của từng bộ phận cũng như hiệu quả tổng hợp của toàn bộ
hệ thống. Yêu cầu là phải vừa phân công vừa phối hợp . Phân cơng là để giữa các
cơ quan khơng có sự trùng lặp chức năng, nhiệm vụ nhưng khi thực hiện chức
năng nhiệm vụ đó lại cần có sự phối hợp nhằm đảm bảo tập trung tạo nên sự liên


13

kết nhịp nhàng, ăn khớp và đồng bộ trong hoạt động của cả hệ thống để đạt mục
tiêu chung.
Xác định đối tượng chịu tác động của chính sách: Đối tượng chịu tác động
của chính sách bao gồm cac cá nhân tổ chức mà việc thực hiện chính sách sẽ ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích của họ. Chính sách nhà nước thường
có tác động trực thiếp hoặc gián tiếp đến một diện rất rộng các tầng lớp dân cư
trong xã hội theo các mức độ khác nhau. Các đối tượng có thể tán thành hoặc
khơng tán thành chính sách, cụ thể đối tượng của chính sách có thể phục tùng,
chấp nhận hoặc tích cực ủng hộ chính sách nào đó.
1.1.2.2.Tun truyền giải thích chính sách
Các chính sách được ban hành đều có tác động đến nhận thức tư tưởng của
những người có liên quan từ đó hình thành thái độ của họ đối với việc chấp hành
chính sách. Trong nhận thức của mỗi một chủ thể đều khơng giống nhau vì vậy
nên đối với chính sách thì thái độ của các cá nhân cũng khác nhau. Trong chính
sách thì việc tun truyền để mọi người cùng đi theo một con đường chung là
yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện chính sách thắng lợi. Do đó các cơ
quan nhà nước phải tuyên truyền, chuẩn bị dự luận cho việc thực hiện chính sách
để mọi người hiểu và đồng tình ủng hộ.
Phải huy động được sự ủng hộ chính trị về mọi mặt để mọi người chấp
nhận nó với nhiệt tình cao. Phải hướng tới tun truyền vào các đối tượng thực
hiện, các bên có liên quan đến chính sách và nên tiến hành tuyên truyền cho các
đối tượng cịn nghi ngờ và hiểu sai chính sách. Ngồi ra phải lơi kéo những

người có khả năng cung cấp cơ sở vật chất cho việc thực hiện chính sách. Đồng
thời kết hợp các hoạt động tuyên truyền , phổ biến chính sách với việc vận động
các đối tượng.


14

1.1.2.3.Triển khai thực hiện chính sách
Mục đích của giai đoạn tổ chức thực hiện chính sách là biến ý đồ chủ quan
về chính sách thành thực tế khách quan, biến chủ trương đường lối, pháp luật của
nhà nước thành hành động tự giác của quần chúng. Để thực hiện được tốt chính
sách thì chúng ta cần làm tốt các u cầu sau:
Có kế hoạch thực hiện chu đáo: để thực hiện chính sách một cách có hiệu
quả thì trước hết chúng ta phải xây dựng được kế hoạch một cách cụ thể ở tất cả
các nội dung cần triển khai . Đặc biệt kế hoạch này cần được phổ biến và phân
công cụ thể cho các đối tượng nhất định để hồn thành tốt nhiệm vụ dề ra trong
chính sách.
Cần phát huy tính chủ động trong tổ chức thực hiện trong q trình thực
hiện chính sách thì chúng ta ln có những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
chính sách . Do đó người lãnh đạo cần phải có sự chủ động trong việc thực hiện
chính sách ở các địa phương khác nhau.
Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tham gia thực
hiện chính sách trong giai đoạn này thì việc có ý nghĩa quan trọng là phải động
viên được cao nhất và sử dụng tổng hợp sức người, sức của để thực hiện chính
sách. Thực hiện chính sách là nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước
nhưng đó cũng là nhiệm vụ của các cá nhân và tổ chức có kiên quan đến lĩnh vực
mà chính sách điều chỉnh.
Triển khai thực hiện chính sách là giai đoạn tạo ra bước ngoặt cách mạng
thông qua các hành động thực tiễn nhưng cũng đầy khó khăn, phức tạp trong
thực tiễn, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của một chính sách Giai

đoạn này là giai đoạn rất khó khăn do phải thực hiện chính sách này trong thực tế
với những điều kiện tại các địa điểm khác nhau. Đồng thời để đảm bảo chính


15

sách được thực hiện thì phải khơng ngừng đấu tranh chống mọi hành vi đi ngược
lại chính sách đã được coi là đúng.
Cần có sự phối hợp thực hiện các chính sách: để đạt được hiệu quả cao thì
chúng ta cần có sự liên kết các hoạt động của con người, bộ phận, phân hệ và hệ
thống riêng rẽ nhằm thực hiện có kết quả và hiệu quả các mục tiêu chung của tổ
chức.
Giải quyết mâu thuẫn trong quá trình thực hiện chính sách: các chính sách
được đề ra đều nhằm đảm bảo lợi ích cho các nhóm người nhất định trong xã hội
đồng thời nó cũng gây ảnh hưởng đến các nhóm lợi ích khác trong xã hội. Do
vậy mỗi chính sách đề ra cần phải tính đến các yếu tố đó để đảm bảo được sự ổn
định trong xã hội.
1.2.CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NƯỚC CỘNG HỊA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO TRONG THỜI KỲ ĐỔIỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

1.2.1.Cơ sở lý luận thực hiện chính sách đối ngoại
Đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Lào được
xây dựng và thực thi trên cơ sở di sản lý luận quan trọng, đó là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và tư duy ngoại giao truyền
thống của nhân dân các bộ tộc Lào. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là cơ sở lý luận đầu tiên của đường lối, chính sách đối ngoại của Lào trong
thời kỳ đổi mới. có thể khái quát ở bốn điểm chính:
Thứ nhất: một trong những tư tưởng quan trọng trong chính sách đối ngoại
của Lênin là đề cao quyền dân tộc tự quyết. Với sự nhận thức đúng đắn các quy
luật của thời kỳ quá độ, để góp phần đấu tranh cho hồ bình và tiến bộ của nhân
loại, Lênin đã đề ra cương lĩnh dân tộc, trong đó Người khẳng định tất cả các

quốc gia dù lớn hay nhỏ, giầu hay nghèo đều có quyền bình đẳng ngang nhau


16

trên tất cả các lĩnh vực, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền tự quyết định vận
mệnh của mình, tự do lựa chọn chế độ chính trị - xã hội cho mình mà khơng có
một khn mẫu nào, một lực lượng nào bắt buộc tất cả các dân tộc phải thực
hiện theo mình. Cương lĩnh đó là sự thể hiện chính sách cùng tồn tại hồ bình
giữa các dân tộc, nhưng nó cũng là cơ sở đề cao dân tộc trên thế giới đấu tranh
cho một thế giới hoà bình, bình đẳng, chống lại những mưu toan, can thiệp và áp
đặt của các nước tư bản đế quốc đối với các nước khác.
Thứ hai: đó là tư tưởng cùng tồn tại hồ bình giữa các nước có chế độ xã
hội khác nhau. Từ sự nhận thức tính chất phức tạp của các mâu thuẫn trên thế
giới, của cuộc đấu tranh giai cấp và của các mối quan hệ quốc tế trên thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng như sự nhận thức được tính chất lâu dài, khó khăn,
phức tạp của thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã
đi tới nhận định rằng sự cùng tồn tại hồ bình giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội là một quy luật và là hình thức quan hệ quốc tế tất yếu trong thời kỳ quá
độ.
Nắm vững quy luật đó, ngay sau khi cách mạng tháng Mưới Nga thắng lợi
Lênin đã cơng bố "sắc lệnh hồ bình" trong đó Người đưa ra những nguyên tác
của một kiểu quan hệ quốc tế mới đó là chính sách cùng tồn tại hồ bình giữa các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở thừa nhận quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, nền độc lập của tất cả các quốc gia. Theo Lênin, một nền
hồ bình bền vững cho nước ngoài và thế giới phải được thiết lập trên cơ sở mơi
trường quốc tế hồ bình, và chung sống hồ bình với các nước là điều kiện để
Nhà nước Xơ viết cịn non trẻ có thể tồn tại và phát triển. Người viết: "Nước
Cộng hoà Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga mong muốn được sống hồ
bình với nhân dân tất cả các nước, đem tồn bộ lực lượng của mình vào cơng



17

cuộc kiến thiết trong nước, để ổn định sản xuất, vận tải và công tác quản lý xã
hội trên cơ sở chế độ Xô viết" .
Trong tư tưởng của Lênin, một nền hồ bình bền vững giữa các nước có
chế độ xã hội khác nhau không chỉ là những hiệp định hồ bình giữa cá nước mà
cịn là mối quan hệ hợp tác làm ăn, gắn bó lợi ích với nhau thông qua việc thúc
đẩy hợp tác liên kết mọi mặt. Người nói "chúng tơi đã nhiều lần tun bố về
nguyện vọng hồ bình của chúng tơi rằng chúng tơi cần hồ bình, cũng như việc
chúng tơi sẵn sàng dành cho tư bản nước ngoài những khoản tố nhượng và bảo
đảm vơ cùng hào phóng"; và Người khẳng định: "tơi thấy khơng có một lý do gì
mà một nhà xã hội chủ nghĩa như nước chúng tôi lại không thể có những quan hệ
làm ăn rộng rãi với các nước tư bản chủ nghĩa" ; phê phán quan điểm của một số
phần tử tả khuynh trong Đảng phản đối nước Nga ký kết hoà ước với các nước
đế quốc, Lênin đã chỉ rõ: "nếu theo những quan điểm ấy thì một nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa nằm giữa các nước đế quốc chủ nghĩa sẽ không thể ký kết một
hiệp ước kinh tế nào và sẽ không thể tồn tại, trừ phi bay lên cung trăng" . Tuy
nhiên, trong tư tưởng của Lênin, từng tồn tại hồ bình giữa Chủ nghĩa xã hội với
Chủ nghĩa tư bản là kết quả của đấu tranh, có vẫn bao hàm sự đấu tranh và là sự
thể hiện cụ thể của đấu tranh trong điều kiện của thời đại quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội. Như thế, trong tư tưởng của Lênin, việc cùng tồn tại hồ bình giữa các
quốc gia có chế độ chính trị -xã hội khác nhau vừa là quy luật của thời kỳ quá
độ, vừa là chiến lược và sách lược để chủ nghĩa xã hội tồn tại và phát triển trong
vòng vây của chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba: theo Lênin, chủ nghĩa xã hội phải biết tiếp thu những thành tựu
của văn minh nhân loại được tạo ra trong chủ ngĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Lênin cho rằng, sẽ khó có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội, nhất là ở



18

những nước nghèo như nước Nga nếu những người cộng sản cầm quyền không
biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học, kỹ thuật tiên tiến của chủ
nghĩa tư bản. Theo Lênin thì: "đó là một trong những biện pháp để nước Ngay
tranh thủ sự viện trợ kỹ thuật của các nước tiên tiến hơn về mặt này trong suốt
thời kỳ các nước XHCN và TBCN sẽ tồn tại bên cạnh nhau" Để trấn an các
đồng chí của mình về việc cần thiết phải áp dụng NEP, Lênin phân tích: "Bên
cạnh các đồng chí sẽ có các tư bản, cũng sẽ có các nhà tư bản nước ngồi, những
người được tô nhượng và những nhà trúng thầu, họ sẽ quơ của các đồng chí
những món lợi nhuận lên tới hàng trăm phần trăm: họ sẽ làm giàu bên cạnh các
đồng chí. Cứ để cho họ làm giàu; cịn các đồng chí thì sẽ học được ở bọn họ cách
quản lý kinh tế, chỉ có như thế, các đồng chí mới xây dựng được nước Cộng hồ
cộng sản chủ nghĩa" Đáp lại những người chống đối NEP, Lênin thậm chí đã cả
quyết sẵn sàng " đánh đổi một trăm người cộng sản tồi để lấy một chuyên gia tư
bản " " chính sách kinh tế mới " được Lênin ví von một cách hình ảnh rằng đó là
nhằm để cho tư sản cày xới trên mảnh đất của CNXH, từ đó những người cộng
sản sẽ gieo trồng những hạt giống của CNXH.
Thứ tư: trong chính sách đối ngoại mở cửa, Lênin đặc biệt coi trọng mối
quan hệ hợp tác làm ăn với các nước tư bản phát triển, các trung tâm KHKT tiên
tiến của thế giới như Mỹ, Đức, Pháp... Đó là những quốc gia tư bản giàu mạnh,
có nhiều lợi thế để nước Nga có thể thu hút các nguồn lực phục vụ cho sự phát
triển đất nước. Với chủ trương ấy nên mặc dù nước Nga chưa có quan hệ ngoại
giao với Mỹ và đang coi Nga như một kẻ thù, nhưng Lênin vẫn rất coi trọng
quan hệ với Mỹ.
1.2.2.Bối cảnh thực hiện chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào



19

1.2.2.1.Bối cảnh quốc tế
Trong những năm qua tình hình quốc tế đã có nhiều thay đổi và
diễn biến nhanh chóng với xu thế tồn cầu hóa đang làm chủ q trình thương
mại quốc tế tồn cầu. Tất cả các nước trên thế giới đều bị lơi cuốn vào vịng xốy
của nó, xu thế này bắt nguồn từ các cuộc cách mạng khoa học công nghệ của thế
giới .Với xu hướng tồn cầu hóa này thì thế giới dường như càng nhỏ bé hơn, thế
giới ngày càng phẳng về tất cả mọi mặt đặc biệt là thơng tin .Tồn cầu hóa làm
cho mọi ngóc ngách của thế giới đều có thể tiếp cận được với những thành tựu
tiến bộ của khoa học công nghệ và các vấn đề trong cuộc sống của con người.
Tồn cầu hóa làm cho kinh tế các nước phát triển nhanh chóng và
các nước liên kết với nhau rất chặt chẽ, do đó các nước trên thế giới dù ở bất kỳ
châu lục nào thì cũng phụ thuộc vào nhau rất nhiều. Các nước không chỉ phụ
thuộc vào nhau trong lĩnh vực kinh tế về tài nguyên, nguồn lao động, công nghệ
mà cả các vấn đề xã hội . Thế giới càng phát triển thì trái đất càng phải đối mặt
với rất nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi các nước phải cùng bắt tay để giải quyết
các vấn đề này, đó là các vấn đề mà khơng chỉ một quốc gia có thể nỗ lực làm
một mình, giải quyết một mình được mà phải có sự hợp tác với nhau. Đó là các
vấn đề phức tạp như thiên tai, ôi nhiễm môi trường, khủng bố, an ninh và đấu
tranh lại các thế lực xấu.
Trong thế giới có các nước phát triển và các nước đang phát triển,
các nước phát triển có trình độ khoa học cơng nghệ và nền kinh tế phát triển còn
các nước đang phát triển thì có nền kinh tế cịn kém phát triển. Do vậy để có thể
phát triển kinh tế thì các nước đang phát triển đặc biệt là các nước đóng cửa phải
mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đây là con đường duy nhất để các
nước đó phát triển kinh tế và là chuyến tàu cuối cùng rời ga trong cuộc đua phát


20


triển kinh tế và đảm trật tự. Chính vì vậy các nước trên thế giới đều chủ động mở
cửa và hội nhập với thế giới để có thể giúp đất nước mình phát triển và tránh tụt
hậu và nằm ngồi sự phát triển kinh tế với các nước khác trong khu vực và trên
thế giới.
Trong khu vực thì đã có Việt Nam và Trung Quốc là hai nước cùng
chế độ xã hội cũng đã thực hiện các chính sách đối ngoại linh hoạt và hai nước
này đã giành được những thành tựu to lớn trước hết về ngoại giao và kinh tế xã
hội. Từ đó giúp cho tình hình trong nước được đảm bảo về an ninh và người dân
tiếp tục tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa mà các nước đang theo đuổi. Cùng với
đó là các nước trong khu vực Đông Nam Á đều mở cửa và có các chính sách
ngoại giao linh hoạt nhằm tận dụng hết khả năng hợp tác với các nước trên thế
giới để các nước có thể cân bằng được các mối quan hệ đa chiều và phức tạp của
thế giới.
Tình hình thế giới đã có sự thay đổi nhanh chóng với sự sụp đổ của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở liên bang Xô Viết trong những năm đầu thập niên 90.
Việc chế độ xã hội này sụp đổ đã làm cho tình hình thế giới có những bất ổn, các
nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa đã mất đi chỗ dựa vững chắc. Từ đây thế giới
tồn tại một cực siêu cường Mỹ trong những năm đầu và trong những năm gần
đây là một thế giới đa cực với nhiều các lợi ích đan xen vào nhau.
1.2.2.2. Bối cảnh trong nước Lào
Trong những năm 80 nước Lào vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ xâm lược, đất nước đương đầu với rất nhiều khó khăn
cả về kinh tế và xã hội. Đất nước bị cuộc chiến tranh tàn phá đất nước phải bắt
đầu xây dựng nền kinh tế của mình với khơng nhiều thuận lợi. Cùng với đó trong
những năm này nước Lào vẫn đang trong giai đoạn bị cấm vận, quan hệ với


21


Trung Quốc bị ngưng trong các hoạt động ngoại giao giữa hai bên. Chính vì vậy
nước Lào trong những năm này ln ln gặp phải những khó khăn địi hỏi
người dân phải cố gắng để tập trung bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong giai
đoạn này nước Lào mới chỉ tập trung quan hệ với các nước trong cùng chế độ xẫ
hội chủ nghĩa còn các nước tư bản thì hầu như chưa có quan hệ ngoại giao tích
cực.
Những năm 90 tình hình quốc tế có nhiều thay đổi do sự sụp đổ của
liên bang Xơ Viết, chính vì vậy nó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình hình trong
nước Lào. Lào mất đi một chỗ dựa vững chắc, mất đi người bạn, người anh và cả
đối tác làm ăn vơ cùng quan trọng, điều này thậm chí cịn ảnh hưởng đến tư
tưởng của người dân và của một số Đảng viên.Do vậy trong giai đoạn này Lào
đã tích cực mở cửa để hội nhập với thế giới giúp cho đất nước mình phát triển
được. Nhờ vậy mà nước Lào đã phá bỏ được lệnh cấm vận của Mỹ, khôi phục
được quan hệ với Trung Quốc và gia nhập tổ chức ASEAN . Chính nhờ những
hoạt động ngoại giao không mệt mỏi này mà Lào đã từng bước thiết lập được
quan hệ của nước mình với các tổ chức quốc tế khác.
Từ năm 2000 đến này nước Lào ngày càng đẩy mạnh họat động
ngoại giao của mình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Nước Lào
đã có quan hệ bn bán với nhiều nước trên thế gới, có quan hệ với các đảng
cầm quyền và đảng cánh tả của các nước khác trong các châu lục khác nhau. Đặc
biệt Lào đã tích cực mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới để tích
cực thu hút đầu tư vào Lào. Nhờ vậy mà trong thập niên vừa qua kinh tế Lào đã
có sự tăng trưởng ổn định và bền vững với tốc độ tăng trưởng trung bình 6.5%
một năm và ngày cảng thu hút được nhiều nhà đầu tư vào đầu tư tại nước Lào.
Cùng với đó hình ảnh đất nước con người Lào đã tới với cộng đồng bạn bè quốc


22

tế nhiều hơn, Lào đã và đang tích cực tổ chức nhiều cuộc họp cấp cao của các tổ

chức mà Lào là thành viên để Lào có thể giúp cho các nước hiểu về Lào nhiều
hơn và giúp nâng cao hình ảnh của nước Lào trên trường quốc tế.
1.2.3.Nội dung cơ bản của chính sách
1.2.3.1.Cơ quan ban hành chính sách
Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
được Quốc hội của nước Lào họp và thảo luận tại các kỳ họp của Quốc hội từ đó
đưa ra các đường lối đối ngoại trong từng thời kỳ nhất định. Chính sách đối
ngoại được xây dựng và ban hành qua hai giai đoạn lớn là từ năm 1986 đến năm
1996 và từ năm 1996 đến năm 2010.
Quốc hội của Lào xây dựng và ban hành chính sách đối ngoại của
Lào từ đó được các cơ quan trực thuộc chịu trách nhiệm hướng dẫn và thi hành
chính sách này. Chính sách dối ngoại ln được Quốc hội xem xét là một trong
những chính sách quan trọng vì vậy mà việc ban hành và thực hiện nó là điều
cực kỳ cần thiết và mang lại những hiệu quả tích cực.
Quốc hội ln nắm bắt rõ tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và an
ninh các nước trên thế giới để có những thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của
thế giới, khu vực. Từ đó làm cho chính sách đối ngoại của Lào ln linh hoạt và
đúng trọng tâm trọng điểm mà Lào cần hướng tới.
1.2.3.2.Mục tiêu của chính sách
Mục tiêu của đường lối, chính sách đối ngoại của Lào là kế tục và phục
vụ mục tiêu đối nội, kết hợp biện chứng và hài hoà lợi ích dân tộc với nghĩa vụ
quốc tế. Mục tiêu của đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Lào trong thời kỳ đổi mới là hướng vào thực hiện mục tiêu xuyên suốt của cách
mạng Lào. Mục tiêu chiến lược chung của đường lối đối ngoại của Lào, dựa vào


23

sự phân tích đặc điểm nổi bật và xu hướng phát triển của thế giới trong thế kỷ
XXI, dựa vào sự thành công và kinh nghiệm của Lào trên lĩnh vực ngoại giao

trong những năm vừa qua để phát triển đường lối chung cũng như đường lối đối
ngoại do Đại hội VII Đảng NDCM Lào xác định:
Một là: giữ vững đường lối đối ngoại hồ bình, độc lập, hữu nghị và hợp
tác nhất quán, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước, ý thức chỉ dựa vào sức
mình là chính với việc ra sức giành lấy sức mạnh và thời cơ thuận lợi của thời
đại, góp phần bảo vệ thành quả của sự nghiệp cách mạng. Củng cố, nâng cao vai
trò của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trên trường quốc tế, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp chung các dân tộc trên thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hai là: tiếp tục thắt chặt và tăng cường hợp tác toàn diện với các nước bạn
chiến lược xã hội chủ nghĩa, coi đó là cơ sở vững bền cho Lào trong quá trình
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo lập thế
mạnh cho nước Lào trong quan hệ quốc tế, coi trọng việc vun đắp truyền thống
quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam.
Ba là: Coi trọng quan hệ hữu nghị và hợp tác có hiệu quả với các nước
láng giềng, tin cậy lẫn nhau, tạo lập bầu khơng khí hồ bình, lâu dài, tạo điều
kiện thuận lợi cho Lào trong sự nghiệp xây dựng đất nước, mở rộng quan hệ
quốc tế và hội nhập với khu vực cũng như với thế giới. Ngoài việc tăng cường
quan hệ bạn chiến lược với hai nước Việt Nam và Trung Quốc, Lào coi trọng
quan hệ và hợp tác có hiệu quả với các nước láng giềng ở Đơng Nam Á tham gia
vào tiến trình hợp tác liên kết khu vực trên cơ sở phát huy cao nhất.
Bốn là: tăng cường tình đồn kết và hợp tác với các nước không liên kết,
các nước đang phát triển để cùng nhau bảo vệ những lợi ích chính đáng về mặt


24

chính trị và kinh tế cho mình. Trong cương vị là thành viên phong trào khơng
liên kết, Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào tích cực tham gia cuộc đấu tranh của
các nước đang phát triển vì hồ bình, độc lập tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, thiết

lập trật tự quốc tế mới công bằng, dân chủ và cùng phát triển.
Năm là: tiếp tục phát triển quan hệ bình thường với các nước tư bản chủ
nghĩa, chủ động thu hút sự hợp tác và viện trợ trong nhiều hình thức từ các nước
cơng nghiệp phát triển, đáp ứng kịp thời sự đòi hỏi của phương hướng phát triển
kinh tế quốc gia của Lào. Do đó, đối với các nước Tư bản chủ nghĩa, Lào phải
giữ quan hệ bình thường với họ giữa nhà nước với nhà nước để Lào có điều kiện
tranh thủ sự viện trợ, vốn đầu tư, khoa học - công nghệ và kinh nghiệm quản lý
kinh tế, xã hội. Vấn đề đặt ra là Lào phải chủ động xây dựng kế hoạch hợp tác
với họ và giải thích rõ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Lào, tăng cường
sự hiểu biết lẫn nhau, tranh thủ các cơ hội thúc đẩy hợp tác trên cơ sở tôn trọng
độc lập chủ quyền, các bên cùng có lợi.
Sáu là: đẩy mạnh hội nhập, tham gia tích cực trong hoạt động của Liên
hợp quốc và tổ chức của khối các nước có sử dụng tiếng Pháp cũng như các thể
chế tài chính, các tổ chức quốc tế và khu vực, vì sự nghiệp hồ bình và phát
triển.
Bảy là: chăm lo phát triển quan hệ với các đảng chính trị ở các nước trên
cơ sở tơn trọng độc lập, tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
coi trọng việc thúc đẩy quan hệ với các đảng cầm quyền.
Tám là, phát triển hoạt động ngoại giao nhân dân rộng mở để tăng cường
sự hiểu biết giữa nhân dân Lào và nhân dân thế giới, vì hồ bình, tình hữu nghị
và thúc đẩy hợp tác, phát triển. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, hoạt động
ngoại giao của nhân dân có tác dụng rất quan trọng. Ngoại giao nhân dân được


25

thể hiện trong hoạt động của các hội hữu nghị, cơ quan tổ chức đoàn kết hay các
tổ chức xã hội, nghề nghiệp khác. Vì vậy Lào tất yếu phải củng cố các cơ quan,
tổ chức quần chúng, các tổ chức xã hội cho vững để hoạt động theo mục tiêu
củng cố tình đồn kết, hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa nhân dân các nước

trên thế giới. Đấu tranh cho những mục tiêu cao cả ấy vừa là lương tâm, trách
nhiệm, nghĩa vụ của các bộ tộc Lào đối với nhân loại tiến bộ, nhưng đó cũng là
nhằm bảo vệ và thực hiện hoá những lý tưởng tốt đẹp của Đảng nhân dân cách
mạng Lào và Nhà nước Lào. Tham gia tích cực cùng với nhân loại tiến bộ đấu
tranh cho những giá trị tốt đẹp của con người, đồng thời loại trừ những hành
động, những yếu tố tiêu cực, phản tiến bộ, phản nhân văn là một trong những
nhiệm vụ của đối ngoại Lào thời kỳ đổi mới.
1.2.3.3.Đối tượng của chính sách hướng tới
Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là
một chính sách có tầm quan trọng đặc biệt vì chính sách này hướng tới các nước
khác trên thế giới và nhân dân các nước đó.
Chính sách này hướng tới các nước có cùng chế độ xã hội và đã có
sự hợp tác, hỗ trợ lâu dài như các nước Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba, Triều
Tiên. Đặc biệt là gìn giữ và phát huy tinh thần đoàn kết giữa nhân dân các nước
đó với nhân dân Lào. Làm cho tình bạn ngày càng sâu sắc hơn.
Chính sách này đặc biệt hướng tới việc mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Đó là các nước rất
quan trọng trong việc giúp nước Lào có thể thực hiện thành cơng hội nhập quốc
tế. Đặc biệt là trên lĩnh vự kinh tế,xã hội đồng thời nó cũng hướng tới việc quảng
bá hình ảnh nước Lào tới nhân dân các nước khác trên thế giúp họ hiểu biết


×