Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH NGỮ VĂN LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.28 KB, 7 trang )

Nhà văn Nga Ai – ma – tốp đã từng viết: “Khơng thể nói về chiến
tranh một cách giản đơn, khơng thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ
nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm
trái tim con người và kể chuyện về nó khơng phải là điều dễ dàng”. Quả
đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh đối với các nhà văn, nhà thơ Việt
Nam là điều không hề dễ dàng. Tuy nhiên, Phạm Tiến Duật – nhà thơ
quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ bảo vệ Tổ quốc
lại nhìn hiện thực đầy đau thương ấy bằng một cái nhìn nhân văn và vơ
cùng cao đẹp. Vượt lên bao mất mát, đau thương của con người, ông đã
bung nở cho đời những vần thơ diệu kì về tình u nước, tình đồng đội gắn
bó keo sơn qua áng văn thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”. Bài
thơ đã khắc họa được nổi bật hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn với tư
thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp nguy hiểm và ý
chí chiến đấu cháy lên trong trái tim các anh.
Sức cuốn hút của bài thơ chính là ở tiếng thơ sôi nổi, trẻ trung pha
lẫn chút ngang tàng, tinh nghịch và giàu chất suy tưởng của những người
lính lái xe Trường Sơn giữa nơi trận địa phủ đầy cái chết. Kết hợp với tiếng
thơ ấy còn là ở cách sử dụng những hình ảnh giản dị, mộc mạc nhưng lại
như lột tả hết được những hiểm nguy, gian khổ nơi chiến trường, vừa khắc
họa đậm nét được hình ảnh những người lính lái xe. Tất cả những đặc sắc
về nghệ thuật ấy như đã làm hiện lên trước mắt người đọc cả một bài ca
tuyệt đẹp về người chiến sĩ.
Trong bài thơ, nhà thơ đã vẽ nên một hình ảnh hết sức chân thực,
độc đáo và mới lạ nhưng cũng rất đỗi gần gũi và gắn bó với người lính, đó
chính là hình ảnh những chiếc xe khơng kính:
“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Nói rằng, bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh độc đáo và mới lạ như
vậy là bởi từ xưa đến nay, trong kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam,
những chiếc xe có được đưa vào thơ ca thường được tác giả mĩ lệ hóa,
mang ý nghĩa tượng trưng nhiều hơn là tả thực. Điều đó ta đã được gặp


trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên hay “Bài ca lái xe đêm” của
Tố Hữu và trong nhiều cách thể hiện của những nhà thơ khác nữa. Những
đối với Phạm Tiến Duật thì lại hoàn toàn khác, người chiến sĩ trẻ lúc bấy
giờ đã đưa vào chính câu thơ của mình những gì hiện có, những gì là chân
thực nhất nơi chiến trường Trường Sơn ác liệt mà với người chiến sĩ thì đó
chính là những chiếc xe – hình ảnh ln ln gắn bó, ln ln kề vai sát
cánh, cùng họ vượt qua biết bao gian khổ, hiểm nguy. Điều đặc biệt hơn
nữa là, những chiếc xe khơng kính trong hai câu thơ trên lại xuất hiện
bằng một hình ảnh tả thực, thực đến khơng tưởng, thực đến trần trụi. Hình
ảnh tả thực ấy được diễn tả bằng một câu thơ đầy chất văn xi, với
giọng điệu pha chút ngang tàng: “Khơng có kính khơng phải vì xe khơng


có kính”. Cấu trúc thơ trên giống như một lời đáp. Trong hai câu thơ trên,
nhà thơ còn tinh tế sử dụng điệp ngữ “khơng có kính”, cùng với điệp từ
“bom” và những động từ mạnh như “giật”, “rung”, chính những từ ngữ
ấy đã vừa khắc họa một cách chân thực và rõ nét hiện thực tàn khốc của
chiến tranh, lí giải được ngun nhân vì sao xe khơng có kính lại vừa lí giải
được chất lính trong cách nói phóng túng của nhà thơ.
Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu nhất có lẽ lại là hồn
cảnh để những người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, ý chí
chiến đấu và sức mạnh tinh thần lớn lao của mình. Bước vào cuộc chiến
với những chiếc xe khơng kính, họ vẫn ln hiện lên với tinh thần lạc
quan, yêu đời:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Đọc những câu thơ trên, ta mới thực sự thấy được vẻ đẹp trong tâm
hồn họ và mới thấy khâm phục những con người ấy. Công việc lái xe của
các anh vốn vô cùng hiểm nguy bởi giặc không ngừng xối bom đạn để tàn
phá những con đường huyết mạch vốn là mạch máu nuôi sống chiến

trường đánh Mĩ. Sống và làm việc trong một hoàn cảnh như vậy, có lẽ
khơng ai là khơng lo lắng cho tính mạng của chính bản thân mình. Thế
nhưng các anh vẫn luôn hiện lên với một tinh thần lạc quan, yêu đời. Dù
luôn phải đi tiếp tuyến cho chiến trường miền Nam, luôn phải giáp mặt với
tử thần, với cái chết nhưng các anh vẫn ln có tư thế “ung dung”, đường
hoàng mỗi khi ngồi trước tay lái. Cách xưng hô “ta ngồi” trong câu thơ
trên vang lên nghe mới thật kiêu hãnh và tự hào làm sao! Điệp ngữ
“nhìn” với cách ngắt nhịp đều đặn tạo ra một giọng thơ rắn rỏi đã thực sự
diễn tả được sự tập trung cao độ cùng tư thế ung dung, thanh thản, làm
chủ tình thế của những người chiến sĩ ngồi cầm lái trên những chiếc xe
Trường Sơn năm ấy.
Đoàn xe càng sống động bao nhiêu thì hình ảnh người lính lái xe lại
càng đáng khâm phục biết bấy nhiêu:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào
tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Đó là những câu thơ tả thực chính xác đến từng chi tiết. Trải qua
nhiều đêm thiếu ngủ, xe khơng có kính chắn gió, lại chạy nhanh nên người
cầm lái phải đối mặt với biết bao khó khăn, hiểm nguy. Cảm nhận được
hết những khó khăn, chơng gai, gian lao ấy khơng phải chỉ bằng tinh thần
duy lí mà người lính cịn cảm nhận bằng cả trái tim, cả tầm hồn trẻ trung,
luôn lạc quan, yêu đời của mình. Có thế các anh mới thấy phía trước cái
thênh thang của đất trời, nào là “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy


thẳng vào tim” rồi sao trên trời cùng những cánh chim cùng lúc sa xuống
đất như ùa vào, rơi rụng, va đập, quăng quật vào buồng lái, vào mặt mũi.
Điều đó đã được tác giả khắc họa một cách vơ cùng chân thực qua các

động từ mạnh như “xoa”, “sa”, “ùa” được sử dụng với mật độ cao. Đó là
những hình ảnh thơ rất chân thực và cũng rất Trường Sơn. Cảm giác đầy
ấn tượng, căng thẳng là vậy, song, người chiến sĩ vẫn không run sợ,
hoảng hốt, trái lại, tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần cách anh vẫn
luôn vững vàng. Và dường như, khi ấy, thiên nhiên cũng muốn bay theo
các anh, cùng các anh ra chiến trường đánh giặc, đi theo con đường chính
nghĩa giải phóng dân tộc. Kính vỡ có khi lại hay để tâm hồn các anh vi vu,
bay bổng bên vành tay lái, để các anh có được phút giây thư giãn, thoải
mái bên những trận chiến căng thẳng sắp diễn ra, giúp các anh giao hịa
với thế giới bên ngồi và chiêm ngưỡng biết bao vẻ đẹp khác lạ của thiên
nhiên. Hình ảnh thơ đẹp ấy được tác giả nhấn mạnh thêm bằng lối đảo
ngữ vô cùng đặc sắc. Cùng với tư thế nổi bật ấy là tầm quan sát cao rộng
với điệp ngữ “nhìn thấy”, điệp ngữ ấy đã biểu hiện sự tập trung cao độ
cùng tinh thần trách nhiệm cao của các anh đối với công việc. Nhịp thơ
đều đặn 2/2/4 cùng một giọng thơ khỏe khoắn, tràn đầy niềm vui, niềm
lạc quan xuyên suốt cả khổ thơ tựa như những chiếc xe vun vút, bươn
chải trên những con đường.
Khi ngồi trên những chiếc xe khơng kính, phải đối mặt với biết bao
khó khăn, thử thách nhưng những người chiến sĩ vẫn đón nhận những thử
thách, khó khăn ấy một cách thản nhiên:
“Khơng có kính, ừ thì có bụi
“Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Bụi phun tóc trắng như người già
Mưa tn mưa xối như ngồi
Chưa cần rửa, phì phèo châm
trời
điếu thuốc
Chưa cần thay, lái trăm cây số
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
nữa

Mưa ngừng gió lùa khơ mau
thơi”
Chỉ với hai khổ thơ thôi mà ta như thấy hết cả tâm hồn tinh tế, nhạy
cảm và tài năng nghệ thuật của nhà thơ cùng sự thấu hiểu sâu sắc của
ơng trước hình ảnh những người lính nơi chiến trường gay go, ác liệt. Nói
như vậy là bởi, trong cả hai khổ thơ, nhà thơ đã tinh tế sử dụng một giọng
điệu đầy chất ngang tàng cùng ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc như chính
lời ăn tiếng nói hàng ngày. Đặc biệt hơn cả là việc sử dụng hai hình ảnh so
sánh đặc sắc “bụi phun tóc trắng như người già”, “mưa tn mưa
xối như ngồi trời” cùng những động từ mạnh như “phun”, “tn”,
“xối”. Nó đã khơng chỉ diễn tả được những khó khăn, thử thách chồng
chất như liên tiếp dội lên đầu những người chiến sĩ mà cịn như thể hiện
thái độ của họ: “Khơng có kính, ừ thì có bụi – Chưa cần rửa phì
phèo châm điếu thuốc”, “Khơng có kính, ừ thì ướt áo – Chưa cần
thay, lái trăm cây số nữa”. Hai chữ “ừ thì” vang lên giống như một cái


tặc lưỡi, một thái độ bất cẩn, coi thường mọi thử thách, khó khăn, là chất
lạc quan đến thanh thản của những con người hồn nhiên, giản dị. Cùng
với hai chữ ấy, nhà thơ còn tinh tế sử dụng cấu trúc lặp “khơng có - ừ
thì”, kết cấu phủ định: “chưa cần” kết hợp với một giọng điệu ngang
tàng, tinh nghịch, đậm chất lính, ngơn ngữ thơ giản dị, mộc mạc. Chính
việc sử dụng những đặc sắc nghệ thuật ấy như càng tô đậm nét hơn, khắc
họa đậm nét hơn vẻ đẹp tâm hồn, ý chí chiến đấu và thái độ trước những
gian khổ, hiểm nguy của những người lính. Đọc những câu thơ trên, ta
tưởng như gió bụi Trường Sơn, mưa rừng Trường Sơn đối với họ chỉ là
chuyện cỏn con, họ coi đó chỉ như là một cơng việc bình thường, một
nhiệm vụ bình thường mà họ hàng ngày phải vượt qua. Chính vì vậy, khi
đối diện với những thách thức ấy, họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, luôn chủ
động, luôn sẵn sàng tư thế để bước vào cuộc chiến. Khơng chỉ có vậy, để

vượt qua biết bao chơng gai, hiểm nguy trong cơng việc của mình, họ ln
biết tìm cách biến những khó khăn thành những tiếng cười vơ tư, sảng
khối và ngạo nghễ: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Dường như
những gian khổ, hiểm nguy không hề làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ
mà trái lại, họ cịn xem đó như là một dịp để thử thách sức mạnh, ý chí
của mình, giống như người quân tử xưa kia vẫn xem hoạn nạn, khó khăn
là lúc để chứng tỏ chí làm trai vậy. Tất cả khơng gì ngăn nổi bánh xe lăn,
khơng gì ngăn nổi trái tim người chiến sĩ luôn hướng về phía trước. Nhà
thơ chẳng cần dùng thứ ngơn ngữ to tát, hào nhống đầy thi vị để tơ vẽ,
làm đẹp hình tượng người chiến sĩ mà chỉ bằng thứ ngơn ngữ đời thường
của chính các anh để nói về các anh, dựng lên vẻ đẹp tâm hồn, tinh thần
cách mạng và tình u Tổ quốc, khát vọng hịa bình của thế hệ trẻ Việt
Nam trong những suốt những năm tháng đánh Mĩ. Và có lẽ, chính tuổi trẻ
ngang tàng cùng mục đích chiến đấu cao cả đã giúp họ chấp nhận mọi
khó khăn, ln biết tìm cách vươn lên và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Và cũng bởi vậy, quả thật khơng sai nếu nói rằng: Những người lính lái xe
trên tuyến đường Trường Sơn chính là những con người tiêu biểu cho thế
hệ trẻ chống Mĩ, luôn phơi phới tinh thần khi bước vào cuộc chiến.
Khơng chỉ có vậy, các anh cịn hiện lên đẹp hơn trong tình đồng chí,
đồng đội gắn bó keo sơn, ruột thịt:
“Những chiếc xe từ
trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, ruột thịt của những người
lính lái xe đã được khơi nguồn từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp, nay lại càng được Phạm Tiến Duật tô đậm hơn bởi những lời
chào của các anh trên đường ra trận. Họ chào nhau bằng một cách vô
cùng độc đáo, lời chào chỉ có ở những chiếc xe khơng kính: “Bắt tay qua



cửa kính vỡ rồi”. Câu thơ giàu ý nghĩa trên của Phạm Tiến Duật khiến ta
nhớ tới hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” trong bài thơ “Đồng
chí” của Chính Hữu. Đó đều là những cái bắt tay đầy ấm áp, yêu thương.
Họ nắm tay nhau như cho đồng đội thấy mình vẫn an tồn, để giúp họ
ln sẵn sàng chiến đấu, hi sinh mà không phải lo lắng cho đồng đội. Hơn
thế nữa, nắm tay nhau còn là một cách để những người lính truyền cho
nhau hơi ấm, tình thương và sức mạnh, giúp họ ln bình tĩnh, tự tin, vượt
qua mọi gian khổ, hi sinh của cuộc chiến ác liệt. Đó cũng chính là sự gần
gũi, gắn kết của tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, ruột thịt.
Trong môi trường quân đội ác liệt, đơn vị thay cho mái ấm, tình đồng
chí, đồng đội keo sơn thay tình máu thịt. Điều đó đã được Phạm Tiến Duật
thể hiện rất sâu sắc và rõ nét qua khổ thơ sau:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chơng chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Cuộc trú qn dã chiến của tiểu đội xe khơng kính ngắn ngủi mà vẫn
thắm đượm tình đồng chí, tình đồng đội. Chỉ bằng ba chi tiết rất điển hình:
“bếp Hồng Cầm”, “chung bát đũa”, đời lính vốn giản dị, bình dị mà
lại rất sang trọng. Giữa chiến trường đầy bom đạn mà họ vẫn đàng hoàng:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”. Giữa trời là giữa thanh thiên
bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có một bát canh rau rừng, có chút lương
khô, thế mà vẫn rất đậm đà: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
Một chữ “chung” rất hay đã gợi tả gia tài người lính, tấm lịng, tình cảm
của người lính. Tình đồng chí đồng đội ở nơi chiến trường Trường Sơn ác
liệt khơng chỉ là tình cảm thơng thường mà dường như, nó cịn vượt qua
ranh giới của chính nó, trở thành tình cảm gia đình, tình cảm ruột thịt
thiêng liêng mà gần gũi. Suy nghĩ ấy của tác giả lại làm ta lại nhớ đến

truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn Lê Minh Kh, bà cũng
kể về tình đồng chí, đồng đội mà cao hơn cả là tình yêu thương như chị
em ruột một nhà của ba cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ ở
Trường Sơn.
Trong hai câu thơ cuối của khổ thơ, từ láy “chông chênh” được tác
giả đưa vào một cách tinh tế đã gợi ra hình ảnh một con đường gập
ghềnh, khúc khuỷu khó đi. Cịn “trời xanh” lại là một hình ảnh ẩn dụ vơ
cùng độc đáo, đó chính là biểu tượng của độc lập, tự do, hạnh phúc. Mọi
chuyến đi của các anh là để ngày ấy đến nhanh hơn, gần hơn. Điệp ngữ
“lại đi” thể hiện một tinh thần lạc quan cùng sức chiến đấu bền bỉ, kiên
cường của người chiến sĩ nhằm một mục đích, một lí tưởng sống cao đẹp:
Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Một loạt những biện pháp
nghệ thuật hay và đặc sắc đến vậy được sử dụng trong cả khổ thơ như đã
làm cho câu thơ vút lên bay bổng, phơi phới, thật lãng mạn và mộng mơ.


Sang đến khổ thơ cuối cùng, những chi tiết về hình ảnh chiếc xe
khơng kính như được khắc họa đậm nét hơn:
“Khơng có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe thùng xe có xước”
Trong khổ thơ trên, Phạm Tiến Duật đã sử dụng một loạt những biện
pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc và giàu ý nghĩa: Điệp ngữ “khơng có”
được nhắc đi nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thứ thách khó
khăn, khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn nhịp như bốn chặng gập
ghềnh, khúc khuỷu, đầy chơng gai của bom đạn. Chính cách sử dụng
những nghệ thuật ấy đã giúp Phạm Tiến Duật lột tả hết được những khó
khăn, gian lao nơi tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Khi điều khiển một
phương tiện nặng nề với tốc độ cao trên tuyến đường dốc đèo hiểm trở,
bom rơi đạn lạc hàng ngày như vậy mà phương tiện lại khơng đảm bảo an
tồn. Những thứ vơ cùng quan trọng như kính bảo hiểm, đèn chiếu sáng,

mũi xe bảo vệ, thùng xe chắc chắn… thì đều khơng có. Đó là điều bất bình
thường nhưng với chiến tranh thì lại là điều hết sức bình thường, nên nó
vẫn hoạt động như những chiếc xe hồn hảo, vẫn băng băng ra tiền
tuyến, thẳng tới chiến trường vì nhiệm vụ trọng đại của đất nước. Đó là
một hình ảnh nhân hóa độc đáo hiếm có xưa nay mà chỉ có tâm hồn tinh
tế, nhạy cảm cùng với sự tinh nghịch, ngang tàng trong tâm hồn của nhà
thơ thì mới có thể phát hiện ra và đưa vào trong thơ được. Cái bất thường
đã trở thành cái phi thường, một biểu tượng độc đáo của thơ chống Mĩ,
vừa nói lên được cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa thể hiện được
phẩm chất anh hùng, vĩ đại của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn. Hình tượng ấy được đẩy lên mức cao hơn góp phần khắc họa
chân dung, tư thế một dân tộc Việt Nam anh hùng.
Đối lập với những điều kiện vật chất khó khăn đến vậy, những vẻ
đẹp phẩm chất của người lính lái xe lại cũng như càng được khắc họa sâu
sắc hơn:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Kết thúc bài thơ, giọng thơ vẫn mộc mạc như văn xi, kể cả nhạc
điệu, hình ảnh, ngôn ngữ cũng rất nhẹ nhàng, rất đẹp, giàu chất thơ. Cảm
hứng và suy tưởng trong thơ vừa thực vừa bổng như để hoàn thiện thêm
vẻ đẹp chân dung những người lính lái xe Trường Sơn những năm đánh Mĩ.
Trong hai câu thơ trên, Phạm Tiến Duật còn sử dụng cả một hình ảnh hốn
dụ tuyệt đẹp, có thể được coi là nhãn tự của cả bài thơ: “trái tim”. Đó là
hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn u nước, là ý chí chiến đấu giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trái tim còn tượng trưng cho lịng
nhiệt tình cách mạng, cho lịng dũng cảm, ngoan cường, gan góc của
những người chiến sĩ được khơi nguồn từ lịng u tổ quốc, u đồng chí,
đồng bào miền Nam ruột thịt. Chiến tranh có thể tàn khốc, đầy khắc



nghiệt nhưng với xe, cịn cỗ máy thì cịn chạy, với con người, cịn trái tim
thì cịn tình u tổ quốc. Với hình ảnh trái tim cầm lái ấy, nhà thơ muốn
khẳng định lại một điều: Cái làm nên chiến thắng khơng phải chỉ là vũ khí
hiện đại, tối tân mà còn là tinh thần của con người, là trái tim nồng nàn
tình u thương và ý chí chiến đấu kiên cường, dũng cảm cùng niềm tin,
niềm lạc quan yêu đời của mỗi người chiến sĩ. Bốn dòng thơ đã dựng lại
hình ảnh đối lập đầy kịch tính giữa người – xe, giữa vật chất – tinh thần,
giữa cái có – khơng có. Tất cả đã làm nổi bật cái gai góc, khốc liệt của
cuộc chiến và chất anh hùng bất khuất, cái đẹp của những người lính lái
xe.
Như vậy bằng cách vận dụng nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ
thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hóa và những từ láy biểu cảm, Phạm Tiến
Duật đã khắc họa thành cơng hình ảnh người chiến sĩ cách mạng dũng
cảm, gan dạ, lạc quan, và mang vẻ đẹp hóm hỉnh yêu đời của tuổi trẻ.
Những vẻ đẹp của những trái tim yêu nước ấy sẽ mãi là vầng sáng trong
suốt chặng đường kháng chiến, trong suốt những trang hoa, tờ hoa về
người chiến sĩ cách mạng.
(1969)



×