Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.03 KB, 5 trang )
Bài thuốc thanh nhiệt, lương huyết từ
cây dành dành
Có hai loại dành dành được dùng làm thuốc trong Đông y là dành dành, còn gọi là
chi tử (Gardenia jasminoides Ellis), mọc hoang và được trồng phổ biến ở các tỉnh
đồng bằng và trung du nước ta và dành dành núi còn gọi là sơn chi tử (Gardenia
stenophylla Merr.), cùng họ cà phê có ở vùng núi, nhất là các tỉnh miền Trung. Hầu
như tất cả các bộ phận của cây dành dành như rễ, cành lá, hoa, quả, hạt đều được
dùng làm thuốc. Cành và lá chặt nhỏ, phơi khô, khi dùng sao vàng. Quả khi gần
chín, thu hái phơi khô; hoặc đem đồ chín rồi phơi khô, quả dành dành tên thuốc là
chi tử. Sau đó bóc tách riêng phần vỏ quả và hạt. Riêng hạt dành dành, có thể qua
một số phương pháp chế biến như sao vàng, sao đen tùy theo yêu cầu của việc
chữa bệnh. Nếu để thanh nhiệt ở gan, trị các chứng viêm gan hoàng đản, hoặc trị
sốt thì dùng hạt sống hoặc chỉ sao qua, còn nếu dùng cầm máu thì phải tiến hành
sao đen, hay sao cháy. Hoa dành dành có thể dùng tươi hoặc phơi khô. Rễ dành
dành, rửa sạch, phơi khô, cắt đoạn, khi dùng cần sao vàng.
Theo YHCT, dành dành có vị đắng, tính hàn, quy vào 5 kinh: can, đởm, tâm, phế,
tam tiều. Có công năng thanh nhiệt trừ phiền, lương huyết, chỉ huyết. Trị các
chứng sốt cao, tâm phiền, viêm gan hoàng đản, tiểu đỏ, tiểu ra máu, nôn ra máu,
chảy máu cam, mắt đỏ, sưng đau.
Dành dành được dùng làm thuốc trong các trường hợp
Trị đau mắt, nhức mắt, mắt sưng đỏ: lá dành dành bánh tẻ rửa sạch, vò nát, lấy
dịch đông, đặt vào miếng giấy bản hay miếng vải gạc sạch, đắp lên mi mắt. Khi