Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu CHẤT LIỆU ĐỒNG TRONG MỸ THUẬT ĐIÊU KHẮC TƯỢNG ĐÀI doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.37 KB, 7 trang )





CHẤT LIỆU ĐỒNG TRONG MỸ THUẬT ĐIÊU
KHẮC TƯỢNG ĐÀI



Có thể nói đồng là kim loại được sử dụng nhiều nhất trong điêu khắc tượng đài và
các tác phẩm phù điêu hoành tráng. Nó cho ta khả năng tái tạo bất kì bố cục điêu
khắc phức tạp nào. Có 3 dạng sử dụng để thể hiện ngôn ngữ điêu khắc trang trí ứng
dụng: đồng thỏi để đúc, đồng lá để gò và đồng tích điện để mạ trong điêu khắc.
Đồng là một trong các chất liệu kim loại trang nhã để làm tượng tốt nhất, bởi tính
tạo hình của nó cho ta khả năng thực hiện từ những bố cục mảnh và tinh vi, đến
các chi tiết bất kì của hình khối lớn. Đó là kim loại cho phép giải quyết được một
cách hoàn hảo bài toán tạo hình trong điêu khắc. Trong cùng một lúc nó là chất
liệu tạo hình tổng hợp có phạm vi sử dụng rất rộng. Bề mặt của đồng có tính chất
trang trí với độ phong phú của các gam màu sắc kết hợp với vai trò của ánh sáng,
đồng cũng là kim loại duy nhất có thể truyền màu sắc nhân tạo cho các tượng cổ
điển.
Màu sắc của đồng có một vai trò rất lớn trong điêu khắc, nó phụ thuộc vào tỉ lệ của
thiếc và kẽm trong hợp kim. Nếu hợp kim có 15% thiếc thì đồng có màu vàng,
nhưng nếu có 16 - 25% thiếc thì đồng sẽ có màu vàng trắng, nếu có hơn 25% thiếc
thì đồng sẽ có màu xám, và nếu có 33% thiếc thì sẽ có đồng trắng trông gần giống
như bạc.
Tương ứng với thành phần hợp kim khác nhau của thiếc ta sẽ có các độ nóng chảy
khác nhau của đồng. Đồng nóng chảy ở nhiệt độ 1083oC, với thành phần 8% thiếc
sẽ nóng chảy ở 980oC và với 25% thiếc sẽ nóng chảy ở 800oC. Độ cứng của đồng
cũng phụ thuộc vào thành phần hợp kim thiếc: độ cứng lớn nhất là 27% thiếc,
nhưng khi đó đồng sẽ giòn. Với thành phần 4 - 6% thiếc, đồng có tính tạo hình tốt


nhất và được các nghệ nhân, các chuyên gia sử dụng trong công nghệ đúc tượng
đài, tượng trang trí ứng dụng.
ở Việt Nam, không phải là quá mới, mà từ xưa chất liệu đồng đã được sử dụng và
làm rạng danh một số làng nghề. Ví như Ngũ Xã, nổi tiếng với chuông đồng và
tượng đồng. Từ đời vua Lê Huy Tông (1677), người dân Ngũ Xã với hai bàn tay
“chín rạn hơi đồng” đã đúc nên pho tượng Trấn Võ uy nghi, cao gần 4m, nặng
chừng 4 tấn, sừng sững trấn giữ phương Bắc Hà Thành. Nghe người đời truyền lại,
tượng đúc xong mới cất đền Quán Thánh trùm lên. Những tưởng tác phẩm ấy đã là
kiệt tác của nghệ nhân làng nghề Ngũ Xã? Nhưng khi bước chân vào ngôi chùa của
làng này - chùa Thần Quang, đứng trước pho tượng Phật Adiđà, bạn mới thật sự
kinh ngạc và nghĩ ngay rằng có lẽ đây mới là tuyệt đỉnh của nghệ nhân Ngũ Xã.
Đức Phật từ bi, tọa thiền trên toà sen rộng chừng 15m, tượng cao 3,95m và nặng
tới 10 tấn. Một điều kỳ diệu là tượng được đúc liền một khối, không thấy một mối
hàn, không mảy may một tỳ vết. Một pho tượng Phật bằng đồng lớn nhất Việt
Nam? Đúng vậy! Và đáng quý thay, pho tượng ấy, kiệt tác ấy được đôi bàn tay tài
hoa, điêu luyện của các nghệ nhân Ngũ Xã tạo nên ngay giữa thế kỷ XX này. Một
sự tiến bộ vượt bậc cả về trình độ và kỹ thuật đúc đồng khuôn đất mà Tổ nghề
đồng các làng nghề đã từng phát triển và lưu truyền cho tới ngày nay. Nghệ thuật
quả là một không gian mở, luôn luôn thay đổi và làm mới, hướng tới sự hoàn thiện.
Vấn đề là sự kế thừa truyền thống và phát triển nó cùng với những thành tựu tiến
bộ của nhân loại.
Ngày nay với sự ra đời của các công nghệ đúc khuôn thép hiện đại, phương pháp
đổ rót tiên tiến cho phép các nhà điêu khắc cùng với các chuyên gia đúc thể hiện
các tác phẩm tầm cỡ lớn như tượng đài, đài tưởng niệm, tượng vườn bằng chất
liệu đồng một cách dễ dàng hơn phương pháp đúc thủ công rất nhiều và gần như
hoàn thiện tác phẩm ngay sau khi khuôn đúc được gỡ ra. Để đạt được sự hoàn thiện
ấy đòi hỏi người đúc phải rất am hiểu và có khả năng tính toán rất kỹ mọi chi tiết
để vạch ra được các đường thoát khí, bởi khi rót đồng nóng chảy vào khuôn nếu
khí không thoát sẽ gây rỗ bề mặt sản phẩm và khi ấy điêu khắc gia sẽ phải mất rất
nhiều công sức để gia công hoàn thiện tác phẩm của mình.

Bấy nhiêu thôi chưa đủ, công tác xử lý bề mặt và phủ lên tác phẩm một lớp áo bảo
vệ khỏi nắng mưa, khỏi sự tàn phá dữ dội của khí hậu vùng nhiệt đới cũng vô cùng
quan trọng, bởi làm ra được tác phẩm đã khó mà giữ được nó trường tồn cùng thời
gian còn khó hơn nhiều.
Rất may, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, có rất nhiều cách “nhuộm màu
thời gian” cho tác phẩm bằng đồng. Thông thường người ta tạo màu bằng cách phủ
ôxít. Có thể tạo màu bằng các phương pháp hoá học và hoá điện phân.
Phương pháp hoá điện phân cho khả năng nhận được chất phủ ôxit rất gần với
thành phần và dạng của ôxit thiên nhiên, nhưng việc phủ ôxit trên tượng lớn bằng
phương pháp này tương đối khó khăn do sự cồng kềnh và trọng lượng rất lớn của
tác phẩm điêu khắc, khó có thể đặt cho chúng các thùng chứa dung dịch có kích
thước lớn. Ngoài ra, phương pháp điện phân của ôxit có thể phủ đồng đều trên các
bề mặt điêu khắc phức tạp. Vì vậy các tác phẩm điêu khắc tương tự có thể phủ ôxit
bằng các chổi sơn, bút lông, bàn chải và đối với các bề mặt lớn - bằng máy phun
sơn.
Để minh hoạ có thể đưa ra một số dung dịch điện phân ôxit (g/l):
Sunfit đồng 50; Clorit amoni 28; Clorit natri 14; Axit Axêtic 12; Clorit kẽm 6;
Glixerin 50.
Cực âm là tác phẩm điêu khắc cần phủ ôxit (cực dương là đồng). Cường độ dòng
điện của cực âm là 0,3 - 0,5 A/dm2. Quá trình điện phân diễn ra trong vòng 10
phút, trên đồng thanh tạo nên chất kết tủa trắng của muối đồng trung tính, khi khô
trở thành mầu xanh lá cây, sau đó tác phẩm điêu khắc được ngâm vào trong nước
và cuối cùng đem hong khô. Sau vài ngày lớp phủ này sẽ xuống màu, sẫm lại trong
không khí. Khi đó có thể phủ dầu bóng lên tác phẩm điêu khắc và kết thúc quá
trình làm màu. Một cách tạo màu khác cũng hết sức thú vị và thường được sử dụng
với những công trình điêu khắc lớn, cũng là để khắc phục những nhược điểm của
phương pháp hoá điện phân đó chính là tạo màu bằng phương pháp hoá học. Người
ta dùng hoá chất cho phản ứng hoá học diễn ra ngay trên tượng. Khi đã đạt được
sắc độ thì các bước còn lại để kết thúc quá trình làm màu được tiến hành như đã
trình bày ở trên.

Giờ đây trên con đường hội nhập, nhìn ra thế giới mới thấy nền điêu khắc trang trí
ứng dụng của Việt Nam chúng ta có nhiều “mặt trận” còn đang bỏ ngỏ. Các thành
phố của chúng ta sao ít tượng đài quá, ít công trình nghệ thuật công cộng quá? Có
thể còn tồn tại nhiều lý do khác nhau, nhưng chúng ta tin chắc rằng với sự thay đổi
vị thế của đất nước, được thừa hưởng những tiến bộ của nhân loại, chất liệu đồng
sẽ cùng điêu khắc trang trí ứng dụng Việt Nam phát huy sức mạnh của mình, song
hành thẳng tiến, đi đến những giá trị đích thực.

×