Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Luận văn thạc sĩ chính trị học-mặt trận tổ quốc việt nam thành phố đà nẵng trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.6 KB, 106 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng về sự nghiệp cách mạng là của nhân dân và thực
tiễn hoạt động của MTTQ Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh và
khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc được coi là động lực chủ yếu để phát triển
đất nước, muốn tăng cường củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc thì phải mở rộng dân chủ, làm cho dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển của khối đại đoàn kết toàn dân.
Chúng ta có thể khẳng định những kết quả đã đạt được về thực hiện
dân chủ trong 25 năm đổi mới đất nước vừa qua trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội là khá toàn diện, song chúng ta cũng thật sự chưa bằng lịng với
những gì đã đạt được trong những thành tựu về thực hiện dân chủ so với yêu
cầu mong muốn của nhân dân. Trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở nước
ta, bên cạnh những thuận lợi cơ bản và tính ưu việt nổi trội. Tuy nhiên, nếu
không thực hiện tốt bản chất của một Đảng cách mạng, khoa học với mục
đích vì dân thì cũng dễ xảy ra tình trạng chủ quan, duy ý chí thậm chí sa vào
tệ quan liêu, tham nhũng. Do vậy, việc cần có một cơ chế cụ thể, rõ ràng,
minh bạch để nhân dân bày tỏ thẳng thắn ý kiến của mình, thực hiện giám sát
và PBXH là thực sự cần thiết đối với Đảng, Nhà nước và cả HTCT. Thông
qua MTTQ nhân dân thực hiện quyền dân chủ tham gia đóng góp ý kiến đối
với các chủ trương, chính sách, giúp khơng ngừng hồn thiện các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước ngày càng phù hợp với thực tiễn và sát hợp
với lòng dân.
Với MTTQ Việt Nam là một bộ phận cấu thành của HTCT nước ta. Sự
quy định này xuất phát từ yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, từ
bản chất của chế độ chính trị nước ta - một nước dân chủ, nhân dân là chủ và
làm chủ. Vai trò to lớn của Mặt trận trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và



2
dân tộc đã được nhân dân và lịch sử thừa nhận. Hiến pháp 1992 của nước ta đã
khẳng định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn
kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng
Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động
viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại
biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước [70, tr.4].
Đại hội X (2006) của Đảng xác định: “Phát huy vai trò và tạo điều kiện
thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò
giám sát và PBXH” [33, tr.305]. Đại hội XI (2011) của Đảng tiếp tục khẳng
định: "Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trị giám sát và
PBXH" [36, tr.87]. Đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã
nêu rõ:
Ban Dân vận Trung ương chủ trì phối hợp với Đảng đoàn Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng
quy chế giám sát và PBXH của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
CT - XH và nhân dân tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền, trình Bộ Chính trị ban hành [6].
Đây là một chủ trương lớn nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
tham gia góp ý xây dựng đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp phần hồn
thiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chính sách, pháp luật sát với thực



3
tiễn của đời sống xã hội, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
tầng lớp nhân dân. Thông qua giám sát và PBXH mà nâng cao vai trò của
MTTQ Việt Nam trong việc tập hợp quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân.
Đà Nẵng trước năm 1997 còn là thành phố loại 3 trực thuộc tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng, chưa phát triển. Đến nay, sau 15 năm được tách ra và trở
thành thành phố trực thuộc TW; Đà Nẵng đã phát triển đầy ấn tượng, khẳng
định được vai trò là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa, đơ thị loại I lớn
nhất miền Trung - Tây Nguyên. Những cơng trình giao thơng, hệ thống nhà
máy hiện đại, nguồn nhân lực cao, v.v.. là những yếu tố giúp Đà Nẵng phát
huy thế mạnh của mình. Cùng với tiến trình đơ thị hóa, sự tăng trưởng ổn định
về kinh tế trong những năm qua đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của
người dân Đà Nẵng không ngừng cải thiện. Năm 2008, 2009, 2010 thành phố
Đà Nẵng dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh là minh chứng cụ thể
cho một quá trình phấn đấu xây dựng và phát triển.
Trong những kết quả mà thành phố Đà Nẵng đạt được phải kể đến sự đồng
thuận xã hội, sự khơi dậy được sức mạnh của lòng dân, sự đồng thuận và hiệp lực
của nhân dân với các quyết sách của Đảng bộ và chính quyền thành phố trong
công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển. Đó cũng là kết quả của việc thực hiện
chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam thành phố đối với các chủ
trương, chính sách, v.v.. của Đảng và Nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, thực tế thời gian qua hoạt động của MTTQ thành phố Đà
Nẵng vẫn còn những hạn chế nhất định, nhất là việc phát huy dân chủ trong
hoạt động giám sát và PBXH. Có những cấp mặt trận cịn bị động trong cơng
tác, nặng về hình thức, chưa nắm bắt và phát huy tốt vai trò giám sát và
PBXH. Nội dung giám sát và PBXH của Mặt trận còn lúng túng, diễn đàn còn



4
hạn hẹp, chưa đưa ra được những chương trình hoạt động cụ thể nên việc
giám sát và PBXH chưa đạt kết quả cao.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết 33 của Bộ chính trị (Khóa IX) “Về
xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH”, đưa Đà
Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, trung tâm KT - XH
của miền Trung; giữ vững vị trí chiến lược về quốc phịng, an ninh của khu vực
miền Trung và cả nước; đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và cơ bản trở thành
thành phố công nghiệp trước năm 2020. Đà Nẵng phấn đấu đến năm 2020:
Có quy mơ dân số khơng vượt q 2 triệu người, trở thành một thành
phố có mơi trường đơ thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên
nhiên trong lành và đời sống văn hóa cao, làm giàu bằng kinh tế tri
thức; một thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp
dẫn và đáng sống [24, tr.29].
Hiện nay, Đà Nẵng là một trong những thành phố đang thực hiện thí
điểm khơng tổ chức HĐND cấp phường, quận, huyện. Nhưng muốn không tổ
chức HĐND cấp phường, quận, huyện mà vẫn đảm bảo, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân thì việc nâng cao năng lực thực hiện chức năng giám sát và
PBXH của MTTQ Việt Nam thành phố Đà Nẵng có tầm quan trọng to lớn và
rất cần thiết.
Xuất phát từ tình hình trên, để có cơ sở đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao vai trò thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam thành
phố Đà Nẵng trong công cuộc đổi mới hiện nay, tôi chọn đề tài “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng trong việc thực hiện chức năng giám sát
và phản biện xã hội hiện nay” làm Luận văn thạc sĩ Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về MTTQ nói chung,
nhưng vẫn cịn rất ít những cơng trình nghiên cứu về chức năng giám sát,

PBXH và việc thực hiện chức năng này của Mặt trận.


5
2.1. Một số cơng trình nghiên cứu về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
"Phát huy vai trò của MTTQ trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở" - đề tài của MTTQ đã được triển khai dưới dạng đề án để đáp ứng nhu cầu
chỉ đạo thực tiễn của MTTQ Trung ương và hướng dẫn công tác hàng ngày
của MTTQ cơ sở trong việc tham gia thực hiện quy chế trên cơ sở, sau khi có
kết quả tổng kết 3 năm việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. "Vai trò của
MTTQ Việt Nam trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta
hiện nay", Sách chuyên khảo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 của TS.
Nguyễn Thị Hiền Oanh. "Ba yếu tố bảo đảm phát huy vị trí, vai trị của
MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới", Tạp chí dân vận số
3/2006, của TS. Đỗ Quang Tuấn. "Đổi mới phương thức hoạt động của
MTTQ và các đoàn thể chính trị xã hội", Tạp chí Xây dựng Đảng số 11/2007,
của Hải Triều. “Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam trong việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở”, đề tài cấp Bộ 2001 - 2002 do Đỗ Duy Thường chủ
nhiệm. "Vai trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện quy
chế dân chủ ở xã tại Nghệ An", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Lan, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002, v.v..
2.2. Một số cơng trình nghiên cứu về chức năng giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
“Thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam hiện nay”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012 của TS. Nguyễn Thọ Ánh . “PBXH - câu hỏi
đặt ra từ cuộc sống”, Nxb Đà Nẵng, tháng 12/2006 của Trần Đăng Tuấn.
“Góp phần nhận thức về PBXH ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Luật học số
5/2006, của TS. Trần Thái Dương. “Thực hiện chức năng PBXH của MTTQ
Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh (2008), của Nguyễn Thị Mộng Diễm. “PBXH - một

trong những phương thức đặc trưng thực thi dân chủ ở nước ta hiện nay”, Tạp
chí dân vận số 3/2007, của TS. Lê Văn Đính. “Phản biện ngay cả khi mới chỉ


6
là ý tưởng”, Tạp chí Dân vận 4/2007, của Vũ Duy Thái. “Phát huy vai trò của
MTTQ trong hoạt động PBXH và giám sát xây dựng Đảng”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, tháng 12/2006, của TS. Hoàng Hải. “Về phản biện và giám sát xã
hội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2007, của TS. Hồng Hải, v.v..
Các cơng trình nghiên cứu trên thường đề cập đến những vấn đề chung
như thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam, vai trò của
MTTQ trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, v.v.. Các cơng trình nghiên cứu giám sát, PBXH nói
chung và giám sát, PBXH của MTTQ mới chỉ đề cập đến khái niệm, đối
tượng, nội dung và phương pháp PBXH. Cho đến nay vẫn chưa có cơng trình
nào nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt về giám sát và PBXH của MTTQ Việt
Nam thành phố Đà Nẵng. Vì vậy đề tài “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành
phố Đà Nẵng trong việc thực hiện chức năng giám sát và PBXH hiện nay” sẽ
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên những cơ sở lý luận cần thiết và có liên quan, luận văn đánh giá thực
trạng và nêu lên những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam thành
phố Đà Nẵng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đề ra, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt
Nam hiện nay.
- Đánh giá việc thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt

Nam thành phố Đà Nẵng hiện nay.
- Nêu lên một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam thành
phố Đà Nẵng hiện nay.


7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam
thành phố Đà Nẵng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vị trí, vai trị,
chức năng và nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Hoạt động của MTTQ Việt Nam thành phố Đà Nẵng trong việc thực
hiện chức năng giám sát và PBXH hiện nay.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp nghiên cứu cụ thể như
lơgíc, lịch sử, phân tích, tổng hợp, v.v..
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá việc thực hiện chức
năng giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Đánh giá thực trạng và nêu lên một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQ

Việt Nam thành phố Đà Nẵng hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác mặt trận
của thành phố Đà Nẵng và các tỉnh, thành khác; làm tài liệu tham khảo phục


8
vụ giảng dạy những vấn đề có liên quan ở các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM SÁT
VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1.1. Khái niệm giám sát và phản biện xã hội
1.1.1.1. Khái niệm giám sát
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì thuật ngữ “giám
sát” được ghi là: “Theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều
quy định không” hoặc: “Là chức quan thời xưa trông nom, coi sóc một loại
cơng việc nhất định” [65, tr.389]. Trong từ điển Tiếng Nga, “giám sát” được
hiểu là hoạt động của “Một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi người, việc
nào đấy”. Còn “giám sát” theo tiếng Anh là supervision, nghĩa là sự trơng

nom, sự giám sát, nó chỉ một hoạt động xem xét có tính bao qt của chủ thể
bên ngoài hệ thống đối với khách thể thuộc hệ thống khác, tức là cơ quan
giám sát và cơ quan chịu sự giám sát không nằm trong một hệ thống trực
thuộc nhau theo chiều dọc.
Hiện nay, thuật ngữ giám sát cũng được được sử dụng phổ biến trong
một số văn bản luật của nước ta hiện nay:
- Điều 8 Hiến pháp: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước
phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống
mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng” [70, tr.4].
- Điều 97 Hiến pháp:
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát
của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng


10
của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực
hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và
của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem
xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
và hướng dẫn, giúp đỡ cơng dân thực hiện các quyền đó [70, tr.31].
- Điều lệ Đảng Cộng sản Việt nam: “Đảng cộng sản Việt nam là Đảng
cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân” [37, tr.5].
Như vậy, giám sát có nhiều cách hiểu, cách diễn đạt khác nhau nhưng
chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về giám sát như sau: Giám
sát là một phạm trù dùng để chỉ các hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra và
nhận định về một việc làm nào đấy, xem việc làm đó đã được thực hiện đúng
hoặc sai những điều đã quy định.
Từ quan những niệm trên chúng ta thấy giám sát có các đặc trưng cơ

bản sau:
Một là, giám sát bao giờ cũng gắn với một chủ thể nhất định. Nghĩa là
ai có quyền thực hiện hoạt động giám sát và dựa trên cơ sở nào chủ thể lại có
quyền giám sát.
Hai là, giám sát ln gắn với một đối tượng cụ thể. Nghĩa là chủ thể
giám sát phải xác định rõ ràng mình giám sát ai, giám sát việc gì. Từ đối
tượng cụ thể đó mà chủ thể xác định nội dung và phương thức giám sát để đạt
được mục đích và yêu cầu đặt ra.
Ba là, giữa chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát bao giờ cũng
có một quan hệ nhất định. Quan hệ này quy định quyền và nghĩa vụ của chủ
thể giám sát với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại. Nhưng trước hết, đó
là quyền lực của chủ thể đối với đối tượng chịu sự giám sát.
Bốn là, giám sát bao giờ cũng phải dựa trên một căn cứ nhất định. Căn
cứ đó là những quy định do chủ thể giám sát đặt ra và được đối tượng chịu sự


11
giám sát thừa nhận. Dựa trên căn cứ đó, chủ thể giám sát mới đưa ra những
nhận định, nhận xét về việc làm của đối tượng chịu sự giám sát.
Năm là, giám sát là hoạt động có mục đích rõ ràng của chủ thể giám
sát. Mục đích của chủ thể giám sát là đưa ra những nhận định chính xác,
khách quan dựa trên những căn cứ đã được xác định.
Sáu là, giám sát là một quá trình theo dõi thường xuyên, liên tục. Đó là
hoạt động quản lý xã hội nên phải tuân theo những quy định của pháp luật.
Trên cơ sở theo dõi, thường xuyên liên tục, chủ thể giám sát mới có được
những thơng tin một cách có hệ thống. Từ đó mới đưa ra được những nhận
định, đánh giá chính xác, khách quan về đối tượng chịu sự giám sát.
Cần phân biệt giữa giám sát và kiểm tra:
+ Kiểm tra là kiểm soát hồ sơ, chứng từ và tra hỏi người đã thực hiện
công việc bị kiểm tra. Kiểm tra là việc làm sau khi sự kiện đã kết thúc, giám

sát và kiểm tra khác nhau về thời gian, tra hỏi và kiểm soát hồ sơ. Trái lại
giám sát là cùng lúc với sự việc xảy ra, khơng tra hỏi gì cả, nhật ký cơng trình
đang được thiết lập theo tiến trình thực hiện cơng việc.
+ Kiểm tra thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động có đồng
nhất với nhau, đó là việc tự kiểm tra chủ thể hoạt động. Nói cách khác, chủ
thể tự mình xem xét đánh giá tình trạng tốt xấu của cơng việc mình đang làm.
Cịn giám sát là hoạt động của chủ thể ngoài hệ thống đối với đối tượng thuộc
hệ thống khác, giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu giám sát không nằm
trong một hệ thống phụ thuộc nhau. Giám sát phải được tiến hành trên cơ sở
các quyền và nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát. Ngoài
ra, giám sát cũng phải được tiến hành trên những căn cứ nhất định, nếu như
khơng có những quy định này thì khơng có cơ sở để chủ thể có quyền thực
hiện việc giám sát đưa ra những nhận định về hoạt động của đối tượng chịu sự
giám sát trong hoạt động giám sát.


12
Đối với giám sát xã hội là hoạt động của xã hội thực hiện việc theo dõi,
kiểm tra tính đúng đắn, phù hợp với hoạt động của HTCT. Trên cơ sở đường
lối, chính sách, Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoạt động giám sát
thực hiện việc kiểm tra, phát hiện và kiến nghị những điểm không đúng,
không phù hợp trong hoạt động của các tổ chức Đảng, đảng viên, các cơ quan,
cán bộ cơng chức từ đó nhằm xây dựng bảo vệ Đảng và Nhà nước. Giám sát
xã hội còn nhằm thực hiện việc theo dõi, kiểm tra đối với những hoạt động
của Đảng và Nhà nước.
Trong hoạt động giám sát cả chủ thể giám sát, đối tượng, nội dung, tính
chất hoạt động giám sát đều đa dạng. Giám sát có nhiều loại nhưng cơ bản có
hai loại giám sát chủ yếu sau:
Một là, giám sát mang tính quyền lực Nhà nước đó là loại hình giám sát
được tiến hành bởi chủ thể các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với một

hay một số hệ thống các cơ quan Nhà nước khác nhau theo những nguyên tắc
nhất định về sự phân công quyền lực Nhà nước. Hoạt động giám sát này ở
nước ta đó là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ, Tịa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, là hoạt động giám sát của
HĐND các cấp đối với các cơ quan Nhà nước ở địa phương.
Hai là, giám sát khơng mang tính quyền lực Nhà nước đó là hoạt động
giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước. Ở nước ta đó là hoạt
động giám sát của MTTQ Việt Nam đối với bộ máy Nhà nước và đội ngũ cán
bộ, công chức Nhà nước.
Hoạt động giám sát của MTTQ mang tính đặc thù, khơng mang tính
quyền lực Nhà nước, đó là quyền giám sát của một tổ chức mang tính liên
minh chính trị, liên hiệp, phối hợp và thống nhất hoạt động của các tổ chức
chính trị, tổ chức CT - XH, tổ chức xã hội đối với hoạt động của các cơ quan
Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức Nhà nước thông qua việc
động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát, tham gia hoạt động giám sát


13
với các cơ quan Nhà nước và tổng hợp ý kiến với cơ quan có thẩm quyền xem
xét giải quyết. Hoạt động giám sát của MTTQ là hoạt động mang tính nhân
dân, hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, kiểm tra giám sát của Nhà nước, là hoạt
động giám sát của chủ thể không phải là Nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm phản biện xã hội
Khi tìm hiểu thuật ngữ phản biện và PBXH đã có rất nhiều tài liệu của
các tác giả, các nhà nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau nên họ đã
đưa ra khái niệm phản biện ở những góc độ khác nhau:
Theo âm Hán Việt, phản biện được hiểu là “sự bàn luận theo hướng
ngược lại”, là sự tranh luận, tranh cãi, là “việc dùng chứng cứ, lập luận để bác
bỏ chứng cứ, lập luận đã được đưa ra trước đó”. Theo từ điển Tiếng Việt do
Hồng Phê chủ biên thì thuật ngữ phản biện được nêu là: “Đánh giá chất

lượng một cơng trình khoa học khi cơng trình được đưa ra bảo vệ để lấy học
vị của hội đồng chấm thi” [65, tr.764]. Phản biện là một nội dung hoạt động
khoa học, là quá trình đánh giá, phân tích, lập luận, thẩm định chất lượng,
nhằm chứng minh, khẳng định, bổ sung hay bác bỏ một phần hay tồn bộ
cơng trình nghiên cứu của cá nhân hoặc một nhóm người. Theo cách định
nghĩa này, phản biện được hiểu theo nghĩa hẹp, xoay quanh một lĩnh vực nhất
định. Ở đây chỉ coi hoạt động phản biện là hoạt động đặc thù chỉ có trong q
trình bảo vệ luận văn hoặc đề tài khoa học, trong khi có rất nhiều hoạt động,
lĩnh vực khác cũng rất cần được phản biện.
Theo tác giả Nguyễn Trần Bạt, phản biện là một hành vi xác định
tính khoa học trong hành động của con người, xuất hiện khi con người
chuẩn bị hành động. Phản biện làm cho mỗi một hành vi được tiến hành
trên cơ sở có một sự xác nhận có chất lượng khoa học đối với nó. Nếu
khơng có phản biện có nghĩa là con người mặc nhiên hành động mà không
thèm đếm xỉa đến sự xác nhận của xã hội về tính phù hợp, tính đúng đắn
của hành động đó. PBXH là một khái niệm chính trị, là biểu hiện đặc trưng


14
chuyên nghiệp nhất của cái gọi là đời sống dân chủ. Phản biện trong một xã
hội dân chủ là một loại phản hành động chứ không phải là phản động.
Theo tác giả Trần Đăng Tuấn, “Phản biện có thể dẫn đến kiểm tra, rà sốt,
bổ khuyết và có thể cả phê phán, thậm chí bác bỏ phương án được đưa ra
để trưng cầu phản biện” [93, tr.161].
Theo quyết định 22/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, phản biện
là hoạt động cung cấp thơng tin, tư liệu, ý kiến phân tích, đánh giá tính khả thi
và kiến nghị về sự phù hợp của nội dung đề án đối với các mục tiêu và các
điều kiện ràng buộc ban đầu hoặc thực trạng đặt ra. Các tác giả cuốn “Tìm
hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng” thì cho rằng: “phản
biện là nhận xét, đánh giá, bình luận, thẩm định cơng trình khoa học, dự án, đề

án trong các lĩnh vực khác nhau” [14, tr.182].
Phản biện là một hoạt động diễn ra hàng ngày, là một nhu cầu của cuộc
sống, bởi nhờ có nó con người có thể loại bỏ những yếu tố sai sót để tiệm cận
tới sự hợp lý trong các quyết định, các hành vi của mình. Trong khoa học, phản
biện là một trong những cách thức chủ yếu để các nhà nghiên cứu tiệm cận tới
các chân lý khoa học. Trong đời sống xã hội, phản biện là một công cụ không
thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ. Nói khái quát, phản biện là một thể
hiện của các “phản hành động” xuất hiện một cách tự nhiên trong một xã hội
mà ở đó mỗi con người đều tự do bày tỏ các nguyện vọng của mình. Phản biện
góp phần điều chỉnh các khuynh hướng kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội làm
cho các khuynh hướng đó trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời
sống con người hơn, tránh sự chủ quan duy ý chí của người cầm quyền. Phản
biện không đồng nghĩa với phản bác hay bài bác.
Từ các quan niệm trên, có thể nêu khái niệm phản biện như sau: Phản
biện là sự nhận xét, đánh giá hay thẩm định một vấn đề nào đó, phát hiện và
loại bỏ những yếu tố sai lầm, hướng tới sự đúng đắn và hợp lý đáp ứng những
yêu cầu và mục tiêu nhất định.


15
Còn PBXH, theo các nhà khoa học, là những ý kiến nhận xét, đánh giá,
bình luận của xã hội, nhân dân và các nhà khoa học về các chương trình,
chính sách, đề án, v.v.. của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan. Trong
đó phản biện thường nhằm vào những điểm yếu, hạn chế, sai sót để đưa ra các
lập luận, chứng cứ, đánh giá, bổ sung, phản bác một phần hoặc tồn bộ
phương án, chương trình, chính sách nhất định. Quan niệm này nhấn mạnh
những khía cạnh bản chất của PBXH, loại phản biện mang tính xã hội nhằm
phân biệt với phản biện Nhà nước, nằm “ngoài” Nhà nước.
Tác giả Trần Thái Dương cho rằng, “PBXH theo nghĩa rộng như vậy được
thể hiện ở toàn bộ cách thức mà các lực lượng xã hội phản ứng ngược trở lại

(phản hồi) trước những tác động của lực lượng lãnh đạo, quản lý xã hội như dư
luận xã hội, phê phán xã hội, giám sát xã hội, tham gia xã hội” [19, tr.15]. Tác
giả Trần Đăng Tuấn cho rằng, PBXH là: “đưa ra các lập luận, phân tích nhằm
phát hiện, chứng minh, khẳng định, bổ sung hoặc bác bỏ một đề án (phương án,
dự án) xã hội đã được hình thành và cơng bố trước đó” [94, tr.38]. Tác giả
Nguyễn Trần Bạt cho rằng:
PBXH là sự thể hiện của các phản hành động xuất hiện một cách tự
nhiên trong xã hội là ở đó mỗi con người đều tự do bày tỏ các
nguyện vọng và chính kiến của mình. Phản biện góp phần điều
chỉnh các khuynh hướng kinh tế, văn hóa, chính trị, làm cho các
khuynh hướng đó trở nên khoa học hơn, đúng hơn và gần với đời
sống con người hơn [115].
Tác giả Võ Anh Tuấn cho rằng, PBXH là hoạt động rộng rãi mang tính
nhân dân và tổ chức, là việc một tổ chức đưa ra những chứng lý, lý lẽ, căn cứ
khoa học để làm rõ bản chất của một vấn đề, một sự kiện nào đó, là cơ sở để
đưa ra một chủ trương, chính sách, quyết định hợp lý, hợp pháp [112]. Tác giả
Hồ Bá Thâm cho rằng:


16
PBXH là sự phản biện nói chung của nhân dân và các tổ chức CT XH về nội dung, phương hướng, chủ trương, chính sách, pháp luật,
giải pháp phát triển KT - XH, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào
tạo, y tế, môi trường, trật tự an ninh… của Đảng, Nhà nước và các
tổ chức liên quan ban hành nhằm mục tiêu phát triển [87, tr.21].
Các tác giả quyển “Một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của
Đảng” cho rằng:
PBXH là phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản
lý nhà nước, góp ý kiến với cán bộ, cơng chức và các cơ quan nhà
nước. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà

nước đều phục vụ lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân khơng
chỉ có quyền mà cịn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi
hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. PBXH là
nhu cầu cần thiết và là địi hỏi bắt buộc của q trình lãnh đạo và
điều hành đất nước, khắc phục tệ quan liêu. Việc lãnh đạo các cấp
đối thoại trực tiếp với nhân dân, các đại biểu dân cử tiếp xúc nghe ý
kiến của cử tri một cách đích thực, khơng hình thức, chiếu lệ; việc
một số công dân khởi kiện một cơ quan hành chính khi cơ quan đó
ban hành một văn bản trái luật ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
công dân đó; việc chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc
hội và HĐND; việc lấy ý kiến nhân dân về các dự thảo văn kiện,
các dự án và chính sách KT - XH của Đảng và Nhà nước; việc
trưng cầu ý dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng…
đều là những cách phát huy tốt PBXH. Trong điều kiện Đảng lãnh
đạo toàn bộ HTCT, cần có cơ chế cụ thể, rõ ràng để nhân dân bày tỏ
thẳng thắn ý kiến và phản biện đối với dự thảo, dự kiến, dự án


17
những quyết định lớn của Đảng, sẵn sàng nghe những ý kiến ngược
chiều [14, tr.182].
PBXH là nhu cầu khách quan để phát triển của bất kỳ xã hội nào. Đặc
biệt trong một xã hội dân chủ văn minh, PBXH được coi là hoạt động khơng
thể thiếu và đó cũng là dấu hiệu, một trong những phương thức đặc trưng của
việc thực thi nền dân chủ. PBXH là một khái niệm vừa cũ, vừa mới. Nó cũ là
vì lồi người đã làm quen với khái niệm này từ rất sớm và biến nó trở thành
cơng cụ hữu hiệu để tạo ra nền dân chủ. Xã hội đã thực hiện phản biện dưới
nhiều hình thức như trưng cầu dân ý, đối thoại với dân, dân chủ trực tiếp, dân
chủ đại diện, v.v.. Cái mới của khái niệm này ở chỗ nó biểu hiện dưới hình
thức sinh hoạt chính trị, một dạng quan hệ trực tiếp giữa Đảng, Chính quyền

với người dân thơng qua tổ chức đại diện là MTTQ.
PBXH chỉ ra tính chất, mục đích của hoạt động phản biện, lập trường
của bên phản biện và lực lượng có trách nhiệm tổ chức việc phản biện. PBXH
là hoạt động mang tính xã hội sâu sắc (tính xã hội đồng nghĩa với tính nhân
dân), khơng mang tính nghề nghiệp; bên tổ chức phản biện và phản biện phải
đứng trên lập trường của nhân dân, đại diện cho quyền lợi hợp pháp và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, bảo đảm lợi ích của toàn xã hội và yêu
cầu của đất nước. PBXH phải thực sự giúp cho bên yêu cầu được phản biện
đưa ra quyết định đúng đắn.
Khi nghiên cứu PBXH do người nghiên cứu dựa trên những tiêu chí
khác nhau, với những mục đích khác nhau nên PBXH cũng được hiểu theo
những cách khác nhau. Tác giả Phương Ngọc Thạch cho rằng:
PBXH là sự phản ánh những dư luận xã hội, ý kiến, kiến nghị của
cộng đồng xã hội về một sự kiện có liên quan đến lợi ích chung của
cộng đồng trên cơ sở tổng hợp phân tích, luận chứng khoa học có
cơ sở thực tiễn, vạch ra những cái đúng cái sai nhằm đáp ứng yêu
cầu cuộc sống đặt ra [81, tr.28-31].


18
Tác giả Vũ Ngọc Lân cho rằng, PBXH là sự thẩm định, đánh giá, nhận
xét của một tổ chức CT - XH này đối với một đường lối, nghị quyết, kế
hoạch, chương trình hành động, đề án, dự án chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… của một tổ chức CT - XH khác đề ra, liên quan đến sự ổn định đất
nước, địa phương được đưa ra lấy ý kiến trước khi quyết định, đưa vào thực
hiện. Những vấn đề được phản biện phải mang tính xã hội rộng lớn và có ý
nghĩa rất quan trọng, khi được thực hiện hoặc không được thực hiện đều ảnh
hưởng lớn đến một địa phương hay cả xã hội, đất nước, đối tượng nào đó.
Từ các quan niệm, có thể nêu khái niệm PBXH như sau: PBXH là phản
biện - phản biện mang tính xã hội đối với q trình hoạch định đường lối, chính

sách của Đảng - nhất là Đảng cầm quyền và Nhà nước nhằm làm cho đường
lối, chính sách ấy phù hợp và đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội.
Chúng ta cần phân biệt PBXH với phản biện khoa học, phản kháng xã
hội, phê phán xã hội và phản hồi xã hội.
PBXH và phản biện khoa học, cả hai đều có những điểm giống nhau và
khác biệt nhau. PBXH cũng phải dựa trên cơ sở các lập luận và ý kiến hướng
đến chân lý khách quan như phản biện khoa học. Trong nhiều trường hợp (tùy
thuộc nội dung và chủ thể PBXH), PBXH cũng chính là phản biện khoa học .
Tuy nhiên, phản biện khoa học bao giờ cũng phải có sự hồn chỉnh tương đối
của lập luận để “đối chất” với lập luận “chính thống”. Cịn PBXH khơng phải
bao giờ cũng như vậy, có những trường hợp PBXH là sự tập hợp của nhiều ý
kiến, phản ứng, dư luận, lý lẽ và thường khơng có tính hồn chỉnh tương đối,
nhưng vẫn có thể tác động mạnh đến phương án xã hội “chính thống” đã được
đưa ra. Phản biện khoa học về bản chất là khách quan, khơng có tính giai cấp.
PBXH bên cạnh thuộc tính khoa học, cịn có thuộc tính xã hội, tức là phản
ánh các quan điểm, quyền lợi của các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
PBXH và phản kháng xã hội, trước hết, PBXH theo đúng nghĩa của nó
là một hoạt động có tính chất xây dựng. PBXH chỉ nhằm đến việc có lựa chọn


19
phương án xã hội chính xác nhất (hoặc khẳng định, hồn thiện phương án chính
thống, hoặc đề xuất phương án khác, nhưng vẫn hướng đến phục vụ mục tiêu xã
hội thống nhất). Còn phản kháng xã hội hướng tới sự đả kích, gạt bỏ phương án
xã hội “chính thống”, do có sự khác biệt về mục tiêu xã hội giữa hai phía. Phản
kháng xã hội khơng dừng lại ở việc đối chọi về lập luận, ý kiến, mà tiếp diễn ở
các hình thái khác như tổ chức các hành động phản kháng cụ thể.
PBXH và phê phán xã hội, thì phê phán xã hội là phân tích, lập luận
vạch ra những điểm sai lệch của các hiện tượng, các hành vi xã hội, qua đó
điều chỉnh xã hội theo các chuẩn mực đã được nghi nhận. Cũng thuộc về

phạm trù dư luận xã hội nhưng phê phán xã hội chủ yếu thiên về sự phản bác
để loại trừ những điều không phù hợp với yêu cầu của đời sống tinh thần xã
hội. Còn PBXH là dùng lập luận, lý lẽ để đối chất tìm ra chân lý chung phù
hợp với thực tiễn. Với tính chất như vậy, phê phán xã hội được hiểu là một
hoạt động xã hội bình thường, có khi khơng mang tính khoa học như PBXH.
PBXH và phản hồi xã hội, phản hồi xã hội bao hàm trong nó tồn bộ
các hình thức phản ứng ngược trở lại của các lực lượng xã hội đối với những
tác động lên đời sống xã hội của các chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội. Phản
hồi xã hội liên quan mật thiết với cả hoạt động phản biện và giám sát, phản
hồi xã hội cả đối với giai đoạn xây dựng và thực hiện quyết sách sách. Cả hai
phương thức kiểm soát này đều là các phương thức để thực hiện quyền dân
chủ của nhân dân.
Đối với HTCT ở Việt Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các
đồn thể nhân dân. Trong đó, MTTQ là tổ chức đại diện cho nhân dân phát
huy quyền làm chủ của mình, thực hiện chức năng PBXH, đóng góp ý kiến,
tiếng nói của mình để xây dựng Đảng, chính quyền, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. PBXH của MTTQ được nhận thức theo những dấu hiệu chính sau:
Một là, chủ thể PBXH là những tổ chức, cá nhân thực hiện sự PBXH,
là các tổ chức CT - XH, các tổ chức xã hội và cá nhân được tập hợp chung


20
vào MTTQ. Đối với loại chủ thể thứ nhất, do tính chất xã hội của tổ chức này
quy định. Vì vậy, mặc dù MTTQ vận động quần chúng nhân dân thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước là hoạt động chính của tổ chức
này, nhưng việc tổ chức, động viên, phát huy vai trò chủ động của các thành
viên đóng góp sức lực và trí tuệ vào việc hoạch định các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước phải được coi là chức
năng, nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng để phát huy dân chủ và xây dựng
nên dân chủ XHCN hiện nay.

Hai là, chủ thể PBXH còn là các tổ chức xã hội gồm các tầng lớp đa
dạng về lợi ích với phương thức tổ chức thơng qua sự tham gia tự nguyện vào
một tổ chức hội. Đây là chủ thể phổ biến trong phản hồi đối với hoạt động của
quyền lực chính trị mà PBXH là một trong những hoạt động cơ bản. Các cá
nhân tiêu biểu gồm các nhà khoa học, nhân sĩ trí thức, doanh nhân, các hiệp
hội khoa học kỹ thuật, v.v.. đây là những thành viên của Mặt trận tham gia các
hoạt động PBXH đối với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước và các dự án phục vụ quốc kế dân sinh.
Ba là, nội dung phản biện phải dựa trên cơ sở khoa học và đòi hỏi thực
tiễn cấp bách nhằm đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý mà lực lượng phản biện
nêu lên, đóng góp ý kiến theo nhận thức của mình về những chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực này có phù hợp và đáp ứng yêu cầu
khách quan của xã hội hay khơng.
Tóm lại, PBXH của MTTQ Việt Nam là sự phản biện xã hội của Mặt
trận đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần hồn
thiện đường lối, chính sách ấy phù hợp và đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, thông qua hoạt động
PBXH, sẽ góp phần nâng cao vai trị của MTTQ Việt Nam trong việc xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng
cao năng lực chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của


21
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả.
1.1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các chức năng của Mặt trận
Tổ quốc
1.1.2.1. Khái quát về vị trí, vai trị và tính chất của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và

Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18 tháng 11 năm
1930. Trải qua các thời kỳ hoạt động với những tên gọi khác nhau, Mặt trận
khơng ngừng lớn mạnh, có nhiều đóng góp to lớn trong tiến trình cách mạng
Việt Nam. MTTQ Việt Nam là một bộ phận cấu thành HTCT của nước ta hiện
nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất
phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vị trí, vai trị của Mặt trận
khơng phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính
quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của HTCT. Vị trí đó được
ghi nhận trong các chủ trương của Đảng, trong hiến pháp và trong các quy
phạm pháp luật, được cụ thể trong luật MTTQ Việt Nam. Khoản 2, điều 1
Luật MTTQ Việt Nam ghi rõ: “MTTQ Việt Nam là bộ phận của HTCT của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” [55,
tr.1]. Điều đó càng khẳng định MTTQ Việt Nam là một bộ phận khơng thể
thiếu được của HTCT nước ta.
Trong q trình xây dựng, bảo vệ đất nước, cũng như trong đời sống xã
hội, MTTQ có vai trị rất quan trọng trong việc củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần tạo nên sự đồng thuận trong xã hội, thắt
chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, động viên nhân dân
phát huy quyền làm chủ hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước,
các cuộc vận động cách mạng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Nghị


22
quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “MTTQ và các đồn thể nhân dân có vai trị
rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
nhân dân, đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của
nhân dân” [33, tr.43]. Tính chất liên minh CT - XH của Mặt trận đã phản ánh
sự đa dạng, phong phú của tổ chức này. Mỗi tổ chức thành viên của Mặt trận

có những đặc điểm riêng, tính chất riêng, đối tượng tập hợp riêng nhưng đều
có những điểm tương đồng nên tự nguyện gia nhập vào Mặt trận. Điểm tương
đồng đó là: Xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, dân
chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Trong MTTQ, các
thành viên được tôn trọng, được bàn bạc công khai, dân chủ. Mỗi quyết định
của Mặt trận đưa ra không thực hiện theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số
mà dựa trên sự tự nguyện, thoả thuận giữa các tổ chức do Uỷ ban Mặt trận các
cấp chủ trì. Vì thế, Điều 3 Luật MTTQ Việt Nam nêu rõ: “Tổ chức, hoạt động
của MTTQ Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương
dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động” [55, tr.1].
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận dựa trên sự thảo
luận, bàn bạc một cách dân chủ và bình đẳng của mọi tổ chức và cá nhân
thành viên Mặt trận để cùng đạt tới sự nhất trí chung và cùng nhau thoả thuận
một chương trình hành động thống nhất phù hợp. Sự thoả thuận đó như là một
quyết định tập thể, đó là quyết định do hiệp thương mà có, cần được tơn trọng
và thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Hiệp thương dân chủ là nguyên tắc áp
dụng cho tổ chức và hoạt động của Mặt trận. Nguyên tắc này phù hợp với đặc
điểm, bản chất của Mặt trận. Bởi vì, nét đặc trưng của Mặt trận là ở tính xã
hội rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thành phần xã
hội. Do là liên minh nên phải hiệp thương dân chủ. Chỉ có hiệp thương dân
chủ mới giữ được sự tồn tại của liên minh một cách lành mạnh, thực chất.
Trong q trình hoạt động, Mặt trận có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức
trong HTCT:


23
Với Đảng, “Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận” [26,
tr.20], nên Đảng không phải là người đứng trên Mặt trận mà Đảng chỉ là một
bộ phận của Mặt trận, vì vậy: “Đảng phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng

ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực
lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” [56, tr.139].
Đảng lãnh đạo là thực hiện vai trị tiên phong của mình trong việc đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách, bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết
phục, bằng tổ chức kiểm tra và bằng vai trò tác dụng gương mẫu của đảng
viên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là tất yếu khách quan, là vấn đề
có tính nguyên tắc, đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở
rộng. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và giới thiệu những đảng
viên có phẩm chất, uy tín, năng lực vào làm cơng tác Mặt trận.
Với Nhà nước, Điều 5 luật MTTQ Việt Nam quy định:
Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc với Nhà nước là quan hệ phối hợp
để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của hiến pháp và
pháp luật. Quan hệ này được thực hiện theo Quy chế phối hợp công
tác của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan Nhà nước
hữu quan ở các cấp ban hành. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận
hoạt động hiệu quả [55, tr.2].
Mặt trận có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức trong HTCT mà trực tiếp là
Nhà nước. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật, mọi kế hoạch hoạt động
của Nhà nước đều quan hệ đến các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn
giáo, đều ảnh hưởng và tác động đến khối đại đoàn kết toàn dân. Để tăng cường
và củng cố đoàn kết phải trên cơ sở chính sách, pháp luật. Nhà nước có vai trị
quan trọng trong việc mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nên Mặt
trận phối hợp với Nhà nước mới có khả năng và điều kiện thực hiện có hiệu quả
các nhiệm vụ của mình.


24
Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ phối hợp, bình đẳng, tơn
trọng lẫn nhau cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Nhà nước dựa vào Mặt trận để
phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân. Nhà nước quản

lý xã hội theo pháp luật, Mặt trận kết nối các thành viên bằng điều lệ. Hoạt động
của Nhà nước mang tính quyền lực từ trên xuống, cịn hoạt động của Mặt trận
mang tính chất vận động quần chúng từ cơ sở. Trong quá trình phối hợp, Nhà
nước tạo điều kiện để Mặt trận hoạt động có hiệu quả. Những chủ trương của
Đảng đưa ra để tạo điều kiện cho Mặt trận thực hiện tốt nhiệm vụ cần được
Nhà nước ban hành thành cơ chế, quy chế để thực hiện. Những kiến nghị của
Mặt trận có liên quan đến chính quyền thì chính quyền giải quyết kịp thời để
tạo uy tín cho Mặt trận. Nhà nước cần tạo điều kiện về kinh phí, về biên chế
cán bộ, về cơ sở vật chất để Mặt trận hoạt động.
Tóm lại, với vị trí, vai trị, tính chất như Luật quy định, Mặt trận đã làm
giảm nhẹ tính áp đặt, cưỡng chế của Nhà nước, tạo ra bầu khơng khí dân chủ,
tự do trong nhân dân. Với công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, xây
dựng khối đại đồn kết tồn dân, góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.1.2.2. Khái quát về các chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Thứ nhất, chức năng đại diện cho lợi ích của nhân dân, bảo vệ quyền
lợi hợp pháp, chính đáng cho các thành viên.
MTTQ Việt Nam là tổ chức của nhân dân nên có chức năng đại diện,
bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của các tầng lớp nhân dân trước các cơ
quan quyền lực là Đảng và Nhà nước. Đây là lý do tồn tại và là chức năng chủ
yếu của Mặt trận [2, tr.69].
Thứ hai, chức năng tập hợp, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc
Đoàn kết là một truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng
Việt Nam, là nhân tố quan trọng đối với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.


25
Đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nội đung chủ đạo của tư tưởng
Hồ Chí Minh và đã được Đảng ta khẳng định trong đường lối cách mạng: Đại

đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa Tổ quốc. Xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân
tộc là trách nhiệm của cả hệ HTCT và tồn xã hội, trong đó có vai trò đặc biệt
quan trọng của MTTQ Việt Nam. Mặt trận tập hợp, xây dựng, củng cố khối
đại đoàn kết trên cơ sở vì lợi ích chung của dân tộc và bằng cách vận động,
thuyết phục, hiệp thương dân chủ thống nhất hành động.
Thứ ba, chức năng tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân thực
hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Chức năng này của Mặt trận thực chất là chức năng dân vận của MTTQ
Việt Nam tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước thông
qua trào cách mạng mang tính tồn dân [2, tr.70].
Thứ tư, chức năng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân.
Đây là một chức năng quan trọng, chủ yếu và thường xuyên của MTTQ
Việt Nam. Vì MTTQ Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
của nước ta hiện nay. Sự quy định này là do yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị nước ta là nước dân chủ,
mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, trách nhiệm xây dựng Đảng, xây
dựng và củng cố chính quyền trước hết phải thuộc về nhân dân. Mà MTTQ
Việt Nam “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân...” [70, tr.4] và đại
diện cho quyền làm chủ của nhân dân. Điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị


×