Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Đời sống văn hoá tinh thần của nông dân huyện ba bể tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.94 MB, 135 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại của kỷ nguyên văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, cơng nghệ
thơng tin phát triển mạnh mẽ, trình độ dân trí khơng ngừng được nâng cao,
văn hóa ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội của mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia, mỗi vùng miền. Nhận thức được vị trí, vai trị của văn hóa
đối với phát triển, ngay từ rất sớm Đảng ta chủ trương xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển văn hóa gắn kết với
phát triển kinh tế - xã hội. Đây chính là chủ trương đúng đắn góp phần làm
cho mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trở
thành hiện thực. Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã
chỉ rõ:
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy
mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội... Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân
tộc đống thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại... [24, tr.320 - 321].
Hiện nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, văn hố càng có vị trí đặc biệt quan trọng, vừa là mục
tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Tình hình đó, địi hỏi Đảng ta
tiếp tục có phương hướng, chiến lược cùng các phương pháp để lãnh đạo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VIII) đã đề ra. Cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch,


2


đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, chống âm mưu diễn biến hồ bình...
địi hỏi cần nâng cao tính chiến đấu và hiệu quả của việc giáo dục tư tưởng,
tình cảm, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân thông qua phương tiện
và nội dung hoạt động văn hoá.
Sau hơn 25 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá
tồn diện và to lớn. Nơng nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo
hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm
vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng
tăng cơng nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục
đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng
nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các
vùng nơng thơn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to
lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ
sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội được giữ vững. Vị
thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nơng nghiệp phát triển cịn kém bền
vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa
phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa
học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nơng nghiệp cịn chậm, phổ
biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều
mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa
thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các
hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy



3
hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cịn yếu kém, mơi trường ngày càng ơ
nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai cịn nhiều hạn chế. Đời sống vật
chất và tinh thần của người dân nơng thơn cịn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là
vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông
thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Bắc Kạn là một tỉnh thuần nơng có trên 85% dân số sống bằng nghề nông lâm nghiệp. Thông qua chính sách đầu tư các chương trình 134, 135, chương
trình phát triển kinh tế - xã hội về nơng nghiệp, nông thôn nên đời sống của nông
dân ngày càng được nâng cao. Đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nông dân
được cải thiện rõ rệt, ý thức chính trị, trình độ dân trí được nâng lên.
Ba Bể là huyện nằm ở phía Tây Nam

tỉnh Bắc Kạn,

cách thủ đơ

Hà Nội

hơn

200 km về phía Bắc, có sáu dân tộc chính là Tày, Dao, Nùng, Kinh, Mơng,
Hoa và một số dân tộc khác. Ba Bể còn là một trong 62 huyện nghèo nhất
nước, hơn 80% dân số huyện là nông dân, những năm qua được sự quan tâm,
đầu tư từ Chương trình 30a, Chương trình 135 giai đoạn II của Chính phủ...
nên hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sự phát triển kinh tế, công tác an sinh xã
hội, xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện Ba Bể đã đạt được những kết quả
đáng phấn khởi, nhưng mức độ chuyển biến còn chậm, đời sống của đồng bào
dân tộc thiểu số vẫn cịn nhiều khó khăn, khơng có điều kiện quan tâm nhiều
đến hoạt động văn hoá. Xu thế tồn cầu hố, sự phát triển ồ ạt, mạnh mẽ của
khoa học công nghệ và các phương tiện truyền thông đại chúng đang làm cho

người nông dân trở thành đối tượng tiếp nhận văn hoá một cách thụ động,
giảm đi năng lực tham gia hoạt động văn hoá.
Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần là một trong những chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta được đặt ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V.
Đây là một chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
xây dựng văn hoá mới, lối sống mới và con người mới phù hợp với đòi hỏi
của đất nước trong thời đại mới.


4
Tuy nhiên, đến nay công tác nâng cao đời sống văn hố tinh thần của
nơng dân huyện Ba Bể nói riêng và nơng dân tỉnh Bắc Kạn nói chung cịn
nhiều vấn đề bất cập, đòi hỏi phải được quan tâm hơn nữa từ trong nhận thức
đến các giải pháp hành động.
Huyện Ba Bể chủ yếu là nông dân (chiếm hơn 87% so với hộ dân số toàn
huyện), việc nghiên cứu và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho họ là vơ
cùng quan trọng. Xuất phát từ tình hình đó, tơi chọn vấn đề: “Đời sống văn
hố tinh thần của nông dân huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn” làm đề tài Luận
văn Thạc sỹ Văn hố học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay đã có một số đề tài luận văn thạc sỹ nghiên cứu về đời sống văn
hoá tinh thần như: “Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động ở
một số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” của Nguyễn Thuý Hằng
(năm 2009); “Đời sống văn hoá tinh thần của người cai nghiện tại các trung
tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì - Hà Nội” của Nguyễn Thị Vân Anh
(năm 2011); “Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của công nhân lao động tại
khu công nghiệp Hà Nội” của Phạm Thị Thu Thảo (năm 2011) và một số bài báo
bài viết về danh lam thắng cảnh, du lịch Hồ Ba Bể. Nhưng nghiên cứu về đời
sống văn hố tinh thần của nơng dân huyện Ba Bể thì đến nay chưa có cơng trình
nào đi sâu nghiên cứu một cách tổng thể. Đây là đề tài khoa học đầu tiên nghiên

cứu đời sống văn hoá tinh thần của nông dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về xây dựng đời sống văn hoá
tinh thần của nông dân, luận văn đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng đời sống
văn hố tinh thần của nơng dân huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn, từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm góp phần nâng cao hơn đời sống văn hố tinh thần của nơng
dân huyện Ba Bể.


5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về đời sống văn hoá và đời sống
văn hố tinh thần của nơng dân huyện Ba Bể.
- Đánh giá thực trạng và tìm ra những ưu điểm, hạn chế của đời sống văn
hoá tinh thần của nông dân huyện Ba Bể trong những năm vừa qua.
- Xác dịnh yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đời sống
văn hoá tinh thần cho nơng dân huyện Ba Bể nói riêng và nơng dân tỉnh Bắc
Kạn nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng đời sống văn hoá tinh
thần của nông dân huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn trong những năm vừa qua.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khảo sát thực tiễn đời sống văn hoá
tinh thần tại các vùng dân cư ở huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và đời sống văn hoá, kết hợp với các
phương pháp điều tra, phỏng vấn sâu, phân tích, tổng hợp, so sánh và đối chiếu.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá về mặt lý luận đời sống văn hố tinh thần của nơng dân.
- Khảo sát và đánh giá đúng thực trạng đời sống văn hoá tinh thần của

nông dân huyện Ba Bể, làm rõ những mặt tồn tại của vấn đề.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc xây dựng đời
sống văn hố tinh thần của nơng dân huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn trong thời
gian tới.
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học bước đầu phục vụ cho việc đổi mới
các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của nông dân trong huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục Luận văn được chia làm 3
chương như sau:


6
Chương 1: Lý luận về đời sống văn hoá tinh thần và tổng quan về nông
dân huyện Ba Bể
Chương 2: Thực trạng đời sống văn hố tinh thần của nơng dân huyện
Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả đời sống văn hoá tinh
thần của nông dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.


7
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ TỔNG QUAN
VỀ NÔNG DÂN HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN
1.1. Khái niệm đời sống văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần
1.1.1. Khái niệm đời sống văn hóa
Năm 1947, tại chiến khu Việt Bắc, với bút danh Tân Sinh, Bác Hồ đã viết
tác phẩm “Đời sống mới ”, những vấn đề Người nêu ra trong tác phẩm thực
chất là những vấn đề về đời sống văn hoá. “Đời sống mới” là sửa đổi cách ăn,
cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc; xây dựng tư tưởng yêu nước; đạo

đức, tác phong cách mạng; nếp sống văn hố cho mỗi người và cộng đồng.
Như vậy có thể coi “Đời sống mới” là cơng trình đầu tiên đặt cơ sở lý luận
cho việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ra đời sau cách mạng tháng Tám
năm 1945.
Cụm từ “Đời sống văn hoá” xuất hiện nhiều trên báo chí vào những năm 80
của thế kỷ XX và cũng được các nhà nghiên cứu tiếp cận theo nhiều hướng khác
nhau. Trong cơng trình nghiên cứu “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đời
sống văn hóa ở nước ta”[63, tr 162 – 163], Giáo sư Hồng Vinh cho rằng: đời
sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội. Đời sống xã hội là một phức thể
những hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu cầu con người.
Trong đó, các hoạt động văn hóa đáp ứng nhu cầu tinh thần, làm cho con người
tồn tại với tư cách là một sinh thể xã hội, tức là con người tồn tại như một nhân
cách văn hóa. Xã hội càng tiến hóa, nhu cầu văn hóa và sự đáp ứng nhu cầu đó
càng cao, thể hiện trình độ phát triển Người. Các hoạt động nhằm đáp ứng nhu
cầu tinh thần của con người chính là hoạt động văn hóa. Như vậy có thể hiểu: Đời
sống văn hóa chính là tổng thể sống động các hoạt động văn hóa trong q trình
sáng tạo (sản xuất), bảo quản, phổ biến, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa và sự
giao lưu văn hóa, nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa của một cộng đồng.


8
Xét ở góc độ nào đó, đời sống văn hố cũng chính là mơi trường của con
người. Mơi trường văn hoá là nơi diễn ra mọi hoạt động văn hoá, của cá nhân
và cộng đồng, hình thành phẩm giá và lối sống của con người và xã hội. Văn
hố chính là đời sống. Ban đầu nó là cái phân biệt giữa con người và động
vật. Về sau, nó lại là cái phân biệt giữa cá nhân con người và cộng đồng. Ý
nghĩa của văn hoá chuyển dịch dần từ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
sang mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Đời sống con người thường được chia thanh hai lĩnh vực là: đời sống vật
chất và đời sống tinh thần. Đời sống vật chất bao gồm toàn bộ hoạt động thoả

mãn nhu cầu vật chất, làm nên sự tồn tại sinh vật của con người. Đời sống
tinh thần hình thành trên cơ sở những hoạt động thoả mãn nhu cầu tinh thần
để nâng cái tồn tại sinh vật ấy lên tầm xã hội. Xuyên qua việc thoả mãn những
nhu cầu vật chất và tinh thần, con người còn nhằm thoả mãn một nhu cầu
khác hướng tới các giá trị nhân văn: cái chân trong nhận thức, cái thiện trong
hành động và cái mỹ trong cảm xúc. Đây chính là đời sống văn hố. Nó như
mặt cắt ngang của đời sống con người, xuyên thấm trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống vật chất và tinh thần, như sự thăng hoa của đời sống vật chất và
tinh thần.
Trong mối quan hệ giữa đời sống văn hố và mơi trường văn hố cũng
khơng hồn tồn đồng nhất. Sự khác nhau được thể hiện: môi trường văn hố
là mơi trường chứa đựng những giá trị văn hoá và diễn ra các quan hệ văn
hoá, các hoạt động văn hố của con người. Cịn đời sống văn hoá là “tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo” của con người, nhằm thoả mãn các nhu
cầu văn hoá, hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ, hướng con người và xã
hội phát triển theo tinh thần nhân văn - nhân bản.
Như vậy, đời sống văn hoá thực chất là mặt tự giác của đời sống con người.
Nội dung của mặt tự giác ấy là các giá trị văn hoá được vận động, bộc lộ trong
các hoạt động sống, các mối quan hệ nhằm tạo ra sự hài hoà giữa cá nhân và


9
cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Dễ nhận thấy là khi mặt tự giác ấy mất đi,
đời sống của con người sẽ chỉ đơn thuần là một chuỗi hoạt động bản năng.
Cần phân biệt khái niệm đời sống văn hoá với khái niệm đời sống văn
hoá cơ sở và xây dựng đời sống văn hoá cơ sở. Giữa các khái niệm này có
những điểm chung, song khơng hồn toàn đồng nhất. Theo tinh thần Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khố VIII) thì đơn vị cơ sở là nhà
máy, công trường, cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, hợp tác xã, làng,
xã, phường, ấp, bản vùng dân cư, gia đình, họ tộc…Về thực chất, đó là những

hình thái cơ bản của cộng đồng xã hội, trong đó các thành viên được liên kết
bởi một mối quan hệ nào đó như nhóm gia đình, nhóm làng, nhóm lứa tuổi,
nhóm đồng nghiệp... Đồng thời, đó cũng là tồn bộ những hình thái liên kết
xã hội để sinh tồn vật chất và tinh thần hàng ngày của cá nhân. Như vậy, đơn
vị cơ sở là những cộng đồng người có địa bàn sinh sống ổn định và có tổ chức
hành chính, kinh tế, xã hội.
Xây dựng đời sống văn hóa là nhằm tạo những giá trị văn hóa cao đẹp
nhất trong nhân dân lao động, nhằm giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức,
thẩm mỹ, khoa học; phát triển trí tuệ, tâm hồn. Xây dựng đời sống văn hóa
theo nghĩa rộng là một cơng việc lâu dài, cơng việc mà tồn xã hội, tồn cộng
đồng phải chăm lo thực hiện. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được hiểu
theo nghĩa hẹp hơn là công tác xây dựng, tổ chức và hoạt động văn hóa ở cơ
sở phù hợp với yêu cầu của địa phương, trong đó biểu hiện quan trọng nhất,
rõ rệt nhất là những hoạt động văn hóa. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là
xây dựng đời sống văn hóa ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân,
nghĩa là từ tầng cấu trúc cơ bản của xã hội.
Trong thực tiễn của đời sống văn hóa nước ta hiện nay, khái niệm đời
sống văn hóa thường gắn liền với khái niệm “xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở”. Tuy vậy, cần có sự thống nhất về khái niệm khi nghiên cứu đời sống văn
hóa ở một địa bàn cụ thể.


10
Trong nghiên cứu của mình Tiến sỹ Nguyễn Hữu Thức cho rằng: Đời
sống văn hóa có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động của con người tác
động vào đời sống vật chất và tinh thần, đời sống xã hội đề hướng con người
vươn lên theo quy luật của cái đẹp, của chuẩn mực giá trị chân, thiện, mỹ,
đào thải những biểu hiện tiêu cực tha hóa con người [53, tr 19].
Với cách hiểu trên thì đời sống văn hố là q trình diễn ra sự trao đổi
thơng qua các hoạt động văn hoá nhằm nâng cao chất lượng sống của con

người. Đó là q trình các yếu tố văn hoá mà con người tiếp thu được tác
động vào đời sống vật chất để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập
môi trường nhân văn, làm ra được nhiều sản phẩm vật chất cho xã hôi; tác
động vào đời sống tinh thần để con người thoả mãn nhu cầu chủ quan đáp ứng
yêu cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống; tác động vào đời sống xã hội
để xây dựng một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội; tác động vào chính
bản thân đời sống cá nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân và cho cá
nhân phương thức lựa chọn hướng đi tốt nhất cho chính cuộc đời.
Vậy, đời sống văn hoá bao gồm những hoạt động của con người trong
môi trường sống nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất, tinh thần của cá
nhân, cộng đồng hướng tới những giá trị, chuẩn mực. Khuôn mẫu của cái
đúng, cái tốt và cái đẹp đem lại hạnh phúc cho con người.
1.1.2. Khái niệm về đời sống văn hoá tinh thần
Đời sống văn hoá tinh thần là một phạm trù chỉ tồn bộ q trình sản
xuất và tái sản xuất ra các giá trị văn hoá, chỉ tổng thể các hoạt động, hiểu
biết, khám phá sáng tạo và nhào nặn hiện thực theo quy luật khách quan của
đời sống xã hội. Nó bao gồm sự thống nhất giữa nhu cầu tinh thần, sản xuất
tinh thần, tiêu dùng các sản phẩm tinh thần, với những hoạt động tư tưởng,
giáo dục đào tạo, khoa học, hoạt động đạo đức, hoạt động nghệ thuật, hoạt
động tín ngưỡng tơn giáo, hoạt động TDTT, hoạt động truyền thông... Những
hoạt động ấy, đều theo sự chi phối của một hệ tư tưởng chính thống, theo


11
những nguyên tắc chuẩn mực xã hội nhất định, trở thành thói quen ứng xử, lề
lối sinh hoạt, người ta gọi là lẽ sống, nếp sống, lối sống.
Một khi các giá trị tinh thần của một xã hội, một dân tộc thấm sâu vào
đời sống xã hội, tác động và làm chuyển biến sâu sắc đến tư tưởng tình cảm,
lối sống, phong tục tập quán của cá nhân và cộng đồng phù hợp với hệ giá trị
chuẩn mực của xã hội thì lúc đó đời sống văn hố tinh thần được hình thành.

* Đời sống văn hố tinh thần bao gồm:
- Nhu cầu tinh thần:
Nhu cầu tinh thần của con người bao gồm các nhu cầu nhận thức khám
phá và cải tạo thế giới, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp... nhu cầu này phụ
thuộc vào sản xuất vật chất, vào chế độ chính trị xã hội, vào năng lực nhận
biết, cảm thụ sản phẩm tinh thần cùng trình độ sản xuất các giá trị tinh thần.
Nhu cầu tinh thần liên quan chặt chẽ đến trình độ nhận thức và tâm trạng của
chủ thể, không hạn chế về số lượng và chất lượng, nó khơng đơn thuần chỉ là
sự hưởng thụ mà cịn có nhu cầu sáng tạo, con người không chỉ thoả mãn với
những giá trị tinh thần do người khác tạo ra, thông qua sự hưởng thụ các giá
trị tinh thần, kích thích con người sáng tạo ra các giá trị mới, nhu cầu tinh
thần không chỉ tác động trong phạm vi đời sống tinh thần mà cịn tác động
trong cả q trình sản xuất vật chất dưới dạng các tác nhân kích thích con
người hướng tới lao động sáng tạo ngày một tốt hơn.
- Sản xuất tinh thần:
Cùng với hoạt động sản xuất vật chất, con người tiến hành hoạt động sản
xuất tinh thần như: sáng tạo ra các tư tưởng, quan điểm, khái niệm, tri thức
khoa học, nghệ thuật... để đáp ứng nhu cầu của chính bản thân con người và
xã hội. Sản xuất tinh thần trong mỗi giai đoạn lịch sử đều do những điều kiện
vật chất của xã hội, do tính chất của chủ thể xã hội quyết định. Các Mác đã
từng nói: “Lịch sử tư tưởng chứng minh gì, nếu khơng phải chứng minh rằng
sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất, những tư tưởng của


12
giai cấp thống trị bao giờ cũng là tư tưởng thống trị thời đại” [38, tr.580-642].
Song, trong một xã hội khơng chỉ có một nền văn hố mang tư tưởng của giai
cấp thống trị mà cịn có sự sáng tạo của nhân dân, hình thành nền văn hố của
nhân dân “ít nhiều có tính chất dân chủ và xã hội chủ nghĩa” (Lênin). Kho
tàng văn hoá dân gian với những hình thức sáng tạo đa dạng và phong phú

của nhân dân lao động gắn liền với cuộc sống đời thường của họ, thể hiện
những tình cảm, tâm tư khát vọng của con người cũng là góp phần sáng tạo ra
các giá trị tinh thần. Chủ thể trong sản xuất các giá trị tinh thần là con người,
là quần chúng mà trong đó những nhà lý luận, nhà chính trị, nhà khoa học,
văn nghệ sĩ... giữ vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất các giá trị tinh thần.
Hoạt động sản xuất tinh thần mang tính đặc thù và ln ln bị chi phối
bởi các điều kiện chính trị, kinh tế, lịch sử, truyền thống văn hoá, giai cấp,
dân tộc. Trong sản xuất tinh thần, vai trò của khát vọng, tài năng và sự hưng
phấn tình cảm lý tưởng được phát huy cao độ vì thế mang nặng dấu ấn chủ
quan của những cá tính sáng tạo.
- Tiêu dùng tinh thần:
Là quá trình hấp thụ những giá trị tinh thần để thoả mãn nhu cầu tinh
thần của con người. Những giá trị tinh thần được tích lại dưới dạng tiềm năng
của chính người tiêu dùng, nên việc cảm thụ và hưởng thụ các giá trị tinh thần
đã mở ra khả năng sáng tạo và phát triển toàn diện của con người, đồng thời
tạo ra động lực để kích thích sản xuất tinh thần. Con người tiếp nhận các giá
trị tinh thần thơng qua kinh nghiệm sống của mình gắn với lý trí tình cảm, với
thế giới nội tâm của con người.
- Hoạt động tư tưởng:
Hoạt động tư tưởng là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của đời
sống văn hoá tinh thần và đời sống xã hội; là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho
đời sống tinh thần của xã hội phát triển đúng hướng. Vai trò chủ đạo của lĩnh
vực tư tưởng thể hiện ở chỗ, một mặt nó thâm nhập và ảnh hưởng vào tất cả


13
các lĩnh vực của đời sống tinh thần, mặt khác nó quy định nội dung, phương
hướng phát triển các lĩnh vực đó.
Nội dung của hoạt động tư tưởng gồm hoạt động sáng tạo ra các quan
điểm tư tưởng, lý luận, nhằm đáp ứng các nhu cầu của cá nhân và xã hội trong

việc hình thành thế giới quan, lý tưởng niềm tin, định hướng chính trị và đạo
đức. Bản chất xã hội và vai trị của hệ tư tưởng khơng chỉ thể hiện ở sự phản
ánh tồn tại xã hội trong tổng hoà các tư tưởng, quan điểm học thuyết ở việc
phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị và các giai cấp khác mà còn thoả mãn
các nhu cầu về nhận thức, đánh giá, truyền bá các kinh nghiệm xã hội dự báo
và định hướng phát triển của đời sống tinh thần của nhân dân, dân tộc.
- Hoạt động khoa học:
Hoạt động khoa học là hoạt động phức hợp của con người để sáng tạo ra
các tri thức khoa học, công nghệ - những giá trị tinh thần với chức năng cơ
bản là khám phá và sáng tạo, nhận thức và dự báo. Khoa học dựa vào tri thức
chân thực của lý trí con người và được kiểm nghiệm trong thực tiễn để nhận
thức hiện thực và chỉ đạo thực tiễn. Khoa học là cơ sở trí tuệ cho các hình thái
ý thức xã hội khác nhận thức và phản ánh hiện thực.
- Hoạt động giáo dục và đào tạo:
Là hoạt động truyền thụ và tiếp thu các giá trị tinh thần. Đây là con
đường cơ bản để con người tồn tại và phát triển, thông qua hoạt động giáo dục
và đào tạo con người hình thành phương pháp tư duy và thế giới quan khoa
học để xác lập niềm tin và lập trường tích cực đối với cuộc sống. Hoạt động
giáo dục là một hoạt động khoa học, nội dung giáo dục luôn kết hợp chặt chẽ
với phương pháp sư phạm nên nó là một hệ thống qui luật tổng hợp chịu sự
tác động của các qui luật phát triển kinh tế xã hội, qui luật nhận thức, qui luật
tâm lý và sự kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc.
- Hoạt động nghệ thuật:
Với tư cách là dạng thức cao nhất của hoạt động thẩm mỹ, nó phản ánh
hiện thực bằng các hình tượng nghệ thuật, là một trong những phương pháp


14
quan trọng để nhận thức và nắm bắt thế giới khách quan. Tính hấp dẫn và độc
đáo của nghệ thuật là gây được những ấn tượng sâu sắc và mãnh liệt, làm cho

nó vừa thể hiện tâm tư tình cảm của một người, vừa thể hiện tâm tư tình cảm
của nhiều người, mặc dù mỗi người có một tâm trạng và cách cảm thụ khác
nhau. Các tác phẩm nghệ thuật luôn là tấm gương (phản chiếu) của cuộc sống,
soi rọi về quá khứ và tương lai để các thế hệ khai thác, tìm tịi và chiêm
ngưỡng những gì nhân loại đã trải qua, do đó nó thường có những giá trị
trường tồn qua các thời đại. Nghệ thuật do đời sống xã hội quy định và là cái
phản ánh hiện thức bằng hình tượng nghệ thuật, nhưng nghệ thuật có tính độc
lập tương đối, có tác động trở lại với đời sống xã hội. Trong tất cả các dạng
hoạt động tinh thần muôn màu muôn vẻ, không một dạng nào lại có được sức
mạnh xã hội tác động đến con người lớn như nghệ thuật. Nó góp phần hình
thành tư tưởng, lý trí, tình cảm và những chuẩn mực đạo đức của con người.
- Hoạt động đạo đức:
Là hoạt động của con người được điều chỉnh bằng những qui tắc, chuẩn
mực xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người và các mối quan
hệ xã hội nhằm tạo ra các giá trị đạo đức của xã hội.
Hoạt động đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của đời sống xã hội do điều kiện
kinh tế chính trị xã hội qui định nên cùng với sự phát triển của nền sản xuất
và các quan hệ xã hội khác, các chuẩn mực của ý thức đạo đức được hình
thành, phát triển và được con người thực hiện như là sự chấp nhận một cách
tự nguyện. Hoạt động đạo đức luôn hướng tới các giá trị chân thiện mỹ, song
đặc trưng cơ bản nhất của nó là cái thiện (đối lập với cái ác), cùng với các
quan niệm ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc, lương tâm, danh dự, lẽ cơng bằng...
hình thành nên những giá trị nhân văn trong đời sống tinh thần của xã hội.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức vừa bị quy
định bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội
khác (tư tưởng, khoa học, triết học, tôn giáo, nghệ thuật...) tổng thể những


15
nhân tố ấy trong mỗi quốc gia, dân tộc lại được thể hiện khác nhau tạo nên

những sắc thái độc đáo trong đời sống đạo đức của từng dân tộc. Hoạt động
đạo đức là một quá trình vận động biến đổi từ thấp đến cao cùng với sự phát
triển của xã hội. Trong q trình đó vừa đảm bảo tính kế thừa những giá trị
truyền thống, giá trị nhân loại, nhưng đồng thời cũng bỏ những yếu tố bảo
thủ, có sức ỳ ghê gớm đối với tiến bộ xã hội nhất là những tâm lý, tập quán
lạc hậu đã ăn sâu vào tiềm thức của con người.
- Lối sống:
Lối sống là phương thức sống của con người trong các mối quan hệ xã
hội, được hình thành trong quá trình lao động sản xuất và các hoạt động chính
trị xã hội, gắn với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Lối sống được thể hiện ở lẽ sống (mặt ý thức của lối sống) và nếp sống
(mặt thói quen, tập quán của lối sống). Mức sống là một trong những chỉ báo
của lối sống, nó phản ánh trình độ và tính chất sinh hoạt vật chất. Nếu lẽ sống
và nếp sống được coi là giá trị và biểu hiện về mặt tinh thần của lối sống, thì
mức sống là giá trị vật chất và là biểu hiện về mặt vật chất của lối sống. Tuy
nhiên mức sống không phải là điều kiện duy nhất quyết định lối sống mà nó
cịn tuỳ thuộc vào lẽ sống và các giá trị tinh thần của đời sống xã hội. Đặc
trưng cơ bản của lối sống là hướng tới các giá trị chân thiện mỹ trong hoạt
động sống của con người, cho nên nó cũng góp phần vào việc sáng tạo ra các
giá trị mới làm phong phú thêm đời sống tinh thần của xã hội.
- Tín ngưỡng tơn giáo:
Là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân loại, phản ánh những
mối quan hệ của con người trong xã hội và giữa con người với tự nhiên, được
trừu tượng hoá, hư ảo hố, thần thánh hố, duy tâm siêu hình. Ý thức tơn giáo
có nguồn gốc từ đời sống xã hội, là sự phản ánh sai lạc tồn tại xã hội, nó có
đặc trưng cơ bản là niềm tin vào sự tồn tại của các đấng siêu nhiên thần thánh,
là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người, của những lực lượng


16

bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế mang hình thức lực lượng siêu trần thế.
Hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, những nhu cầu này do những điều kiện tự nhiên và xã hội
quy định, nó thay đổi cùng với sự tiến triển của xã hội.
Tín ngưỡng, tơn giáo khơng thuần nhất mà thể hiện tính đa dạng, có
những biểu hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào nền văn hoá đặc trưng của từng dân
tộc. Tín ngưỡng, tơn giáo xét đến cùng cũng do điều kiện sản xuất vật chất và
những quan hệ kinh tế qui định, đồng thời nó lại có ảnh hưởng đến các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hố, nghệ thuật.
* Đời sống văn hố tinh thần có vai trị to lớn trong sự phát triển của
con người và xã hội:
Ph.Ăngghen rất có lý khi cho rằng: Mặc dù nhân tố kinh tế đóng vai trò
là cơ sở của lịch sử, song các yếu tố khác của kiến thức thượng tầng như:
Các học thuyết chính trị, pháp lý, triết học, các quan điểm tơn giáo...
và sự phát triển tiếp theo của chúng thành hệ thống giáo lý cũng ảnh
hưởng đến quá trình cuộc đấu tranh lịch sử và trong nhiều trường
hợp chiếm ưu thế trong việc quyết định hình thức của cuộc đấu
tranh ấy [38, tr.641-642].
Như vậy, các nhà kinh điển mác - xít khi nhấn mạnh vai trị của sản xuất
vật chất, khơng hề đánh giá thấp hoặc phủ nhận vai trò độc lập tương đối của
sản xuất tinh thần. Về cơ sở lý luận, có thể xem những biểu hiện tính độc lập
tương đối của ý thức chính là vai trị vị trí cụ thể của đời sống tinh thần, đời
sống văn hố tinh thần. Bởi vì, trên thực tế, ý thức xã hội là một bộ phận chủ
yếu và quan trọng nhất của đời sống tinh thần, đời sống văn hoá. Trong thời
đại ngày nay, cùng với các nhu cầu về vật chất, nhu cầu tinh thần của xã hội
không ngừng được nảy sinh và phát triển. Do đó, vai trị và vị trí của đời sống
văn hóa tinh thần càng trở nên quan trọng và biểu hiện rõ nét hơn trong đời



17
sống xã hội. Nhịp độ phát triển nền sản xuất vật chất của một xã hội nhanh
hay chậm, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất, tái sản xuất ra đời
sống xã hội cao hay thấp, điều đó tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển đời
sống văn hoá tinh thần của xã hội.
Suy cho cùng, mục tiêu của sự phát triển là nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người trong sự kết hợp hài hoà giữa đời sống vật chất và đời
sống văn hoá tinh thần. Hướng về một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
con người phát triển tồn diện, đó là khát vọng của nhân loại nhưng đồng thời
là mục tiêu lý tưởng của CNXH mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ
lực thực hiện. Vì vậy, các phẩm chất đạo đức, lý tưởng... và sự phát triển năng
lực tinh thần, là những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của con người và
xã hội. Ta thấy, mức độ phát triển của con người, chất lượng đời sống con
người xác định mức độ tiến bộ đạt được của đời sống tinh thần, cũng như vậy,
mức độ phát triển của đời sống văn hoá tinh thần là chỉ số mức độ phát triển
đời sống vật chất của xã hội.
Với vai trò là động lực cho sự phát triển, các lĩnh vực của đời sống văn
hoá tinh thần từ chức năng đặc thù của mình có khả năng đóng góp vào sự
phát triển chung của xã hội. Trước hết, nó tạo môi trường khơi dậy tiềm năng
sáng tạo của nguồn lực con người, để khai thác tốt nhất tài nguyên của đất
nước, chủ động tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài
phục vụ cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc.
Hiện nay, nguồn lực của sự phát triển không chỉ là tài nguyên, các nguồn
lực này tuy có tầm quan trọng nhưng đã trở thành thứ yếu, nguồn lực lớn
nhất, quý báu nhất, nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển chính
là nguồn lực con người, tiềm lực văn hố của dân tộc. Những tiềm lực đó nằm
trong những giá trị tinh thần của dân tộc, có nghĩa là trong sự hiểu biết, trong
tâm hồn, đạo lý, lòng yêu nước, lối sống, thị hiếu, thẩm mỹ và hành vi mỗi cá
nhân và cả cộng đồng. Do đó, một chính sách phát triển đúng đắn phải là



18
chính sách làm cho các lĩnh vực của văn hố tinh thần thấm sâu vào các
lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội, thể hiện tư duy của nhà chiến
lược, trong suy nghĩ của nhà hoạch định chính sách, trong quản lý sản xuất,
kinh doanh, trong sinh hoạt gia đình và ngồi xã hội, trong giao lưu và hợp
tác quốc tế. Danh nhân văn hố Hồ Chí Minh từng đặt vấn đề phát triển văn
hoá phải thấm sâu vào trong kinh tế và trong chính trị, văn hố phải soi đường
cho quốc dân đi. Đó chính là động lực văn hoá, động lực tinh thần của sự phát
triển xã hội... Bác Hồ cũng đã sớm nhìn thấy, một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu. Thực tế cho thấy rằng, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hố trong các
lĩnh vực hoạt động của con người càng cao bao nhiêu thì sự phát triển mọi
mặt của đất nước, của địa phương càng trở nên tốt đẹp bấy nhiêu. Để đạt được
mục tiêu của sự phát triển, tăng trưởng kinh tế dựa trên tiến bộ kỹ thuật và
công nghệ hiện đại là những phương tiện và điều kiện không thể thiếu, nhưng
sự phát triển của đời sống văn hoá tinh thần hướng con người tới các giá trị
chân thiện mỹ mới là giá trị đích thực của sự phát triển. Xét theo nghĩa đó thì
phát triển và tăng trưởng kinh tế không đồng nhất nhau. Tăng trưởng, là sự
thay đổi về lượng các kích thích vật chất của sản xuất và kinh doanh. Còn
phát triển là sự thay đổi về chất của nền kinh tế - xã hội, văn hóa tạo cơ sở
cho một trạng thái xã hội tiến bộ, cơng bằng, dân chủ và văn minh.
Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là một động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là mục tiêu CNXH. Ở nước ta các lĩnh
vực của đời sống văn hố tinh thần đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
“điều tiết tinh thần” quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, giữ vai trò định hướng cho việc khai thác những nhân tố tích
cực và hạn chế những nhân tố tiêu cực của kinh tế thị trường để hướng con
người và xã hội đạt tới các giá trị chân, thiện, mỹ.
Thực tế cho thấy, mọi yếu tố ngoại sinh như vốn, kỹ thuật, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý... chỉ có thể trở thành động lực cho sự phát triển bên



19
trong, một khi chúng được vận hành phù hợp với những yếu tố nội sinh của
đất nước, của vùng miền mà trọng tâm là con người khi đã được hấp thụ bởi
những giá trị tinh thần dân tộc.
Đối với đời sống chính trị xã hội, đời sống văn hố tinh thần vận động và
phát triển phụ thuộc vào đặc điểm của một chế độ chính trị xã hội, vào hệ tư
tưởng của giai cấp cầm quyền. Lợi ích của giai cấp thống trị và bản chất của
Nhà nước chi phối xu hướng phát triển đời sống văn hoá tinh thần của xã hội.
Một chế độ chính trị ưu việt có thể tạo điều kiện cho đời sống văn hoá tinh
thần phát triển tiến bộ và lành mạnh, ngay cả khi các điều kiện kinh tế cịn
khó khăn. Song, sự tác động của đời sống văn hoá tinh thần đối với đời sống
chính trị cũng hết sức mạnh mẽ và nhạy bén. Sức cảm hoá và cổ vũ về mặt tư
tưởng của những quan điểm chính trị đúng đắn đối với hàng triệu con người,
sự hoạch định chiến lược phát triển và phát huy sức mạnh tổng hợp của các
giá trị văn hoá tinh thần sẽ tạo ra những phong trào cách mạng, những cuộc
vận động chính trị rộng lớn tác động đến đời sống chính trị - xã hội.
Khi đề cập đến vai trị của đời sống văn hố tinh thần đối với đời sống
chính trị xã hội, trước hết phải thấy rõ sự tác động của hệ tư tưởng chỉ đạo đối
với đời sống chính trị xã hội. Ở nước ta, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh là hệ tư tưởng mang bản chất giai cấp cơng nhân ln giữ vai
trị chủ đạo và định hướng cho sự phát triển. Là học thuyết cách mạng và
khoa học được kết tinh bởi những tinh hoa văn hoá của nhân loại và dân tộc,
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hướng mục tiêu vào việc giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, khắc phục triệt để tình trạng bị tha hố,
tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện, để tiến tới một xã hội mà ở
đó, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
tất cả mọi người”. Khơng có ý nghĩa nào khác, mục tiêu trên cũng chính là
mục đích cuối cùng của tiến trình phát triển văn hố. Chính sự thống nhất ấy

đã quy định CNXH là một chủ nghĩa nhân văn về văn hoá.


20
Việt Nam là một quốc gia nhiều dân tộc, từ lâu đời, các dân tộc đã đồn
kết gắn bó với nhau trong đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ để dựng nước và
giữ nước. Quá trình này đã tạo nên những giá trị tinh thần cốt lõi của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là, lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đồn kết ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng
nghĩa tình đạo lý... Những giá trị văn hố tinh thần này làm cơ sở vững chắc
cho tính thống nhất trong đa dạng của nền văn hoá Việt Nam. Bên cạnh đó,
mỗi dân tộc lại có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng, thể hiện trong
phong tục tập quán lối sống... và tính cách riêng của mỗi dân tộc.
Với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ
và q trình giao lưu văn hố quốc tế ngày nay, các dân tộc trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam có điều kiện xích lại gần nhau hơn và q trình giao thoa,
đan xen, hỗn dung văn hố, diễn ra khá mạnh mẽ, sâu sắc. Để phát triển đất
nước và phát huy được các giá trị tinh thần và sắc thái văn hoá truyền thống
của từng dân tộc, thì mỗi dân tộc phải hồ chung vào sự phát triển của nền
văn hoá Việt Nam và của nhân loại, trên cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hố truyền thống, tránh bị tụt hậu và khơng để bị nhất thể hoá những sắc
thái văn hoá của mình. Chính vì vậy, các lĩnh vực của đời sống văn hố tinh
thần chiếm một vị trí quan trọng, vừa góp phần đảm bảo tính thống nhất của
nền văn hố Việt Nam, vừa phát huy được những sắc thái văn hoá đa dạng và
độc đáo của các dân tộc. Đây là hai mặt của một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến
lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc. Qua đó, xác định vai trị của cơng tác xây dựng đời
sống văn hoá tinh thần cho mọi dân tộc, mọi tầng lớp xã hội nói chung, nơng
dân huyện Ba Bể nói riêng là hết sức quan trọng, cấp bách, thường xuyên, tất
yếu. Đây là động lực của sự phát triển, cơ sở đảm bảo ổn định của vùng, miền

và quốc gia. Làm tốt cơng tác này góp phần xây dựng nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh;


21
hình thành nhu cầu tiêu dùng, sản xuất những giá trị văn hóa tinh thần mới;
thúc đẩy nâng cao mặt bằng dân trí, phát triển khoa học kỹ thuật, hình thành
lối sống mới, con người mới XHCN.
1.2. Nội dung của việc xây dựng đời sống văn hoá tinh thần
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn ở Bắc
Kạn trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản, bộ mặt nông
thôn và đời sống nơng dân có nhiều chuyển biến tích cực. Điều đó minh
chứng cho tính đúng đắn trong đường lối, chủ trương của Đảng. Song, sự phát
triển đó vẫn chưa đồng bộ và toàn diện trên các lĩnh vực cũng như ở các địa
phương trên địa bàn tỉnh, nhất là đối với các vùng sâu, vùng xa. Nhằm tạo
bước chuyển căn bản về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nơng
thơn, mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân,
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết số 06 - NQ/TU về thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh giai
đoạn 2011 - 2020. Để Nghị quyết đi vào thực tiễn cuộc sống và đạt mục tiêu
đề ra, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, đặc biệt là tiếp
tục phát huy vai trị chủ thể của nơng dân Bắc Kạn nói chung và nơng dân
huyện Ba Bể nói riêng trong q trình này.
Trước hết, phải qn triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vấn đề nông
dân, về xây dựng nông thôn mới, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên
suốt của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội, trong đó nơng dân vừa là chủ
thể thực hiện, vừa là đối tượng được thụ hưởng.
Nghị quyết 06 - NQ/TU của Tỉnh ủy về xây dựng nông thôn mới được
ban hành trên cơ sở cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết
Đại hội lần thứ X Đảng bộ tỉnh và thực trạng nông thôn của tỉnh Bắc Kạn,

đồng thời tiếp tục cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội
nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nơng nghiệp,
nơng dân và nơng thơn. Đây là Nghị quyết có vị trí đặc biệt quan trọng, thể


22
hiện quyết tâm chính trị của tồn Đảng bộ và nhân dân Bắc Kạn đối với q
trình xây dựng nơng thơn mới trên địa bàn tỉnh, trong đó cấp ủy đảng và chính
quyền cơ sở đóng vai trị lãnh đạo, điều hành, Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, nông dân vừa là chủ thể thực hiện,
vừa là đối tượng được thụ hưởng.
Với đặc thù là một tỉnh thuần nông, nông thôn Bắc Kạn là nơi tập trung
sinh sống của hơn 80% nông dân tồn tỉnh, là đối tượng chịu nhiều thiệt thịi
về thu nhập, mức sống, về hưởng thụ các điều kiện sinh hoạt xã hội so với
mặt bằng chung của toàn xã hội. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới khơng có mục đích
tự thân. Thực hiện thành cơng q trình này sẽ đem lại những hiệu quả kinh tế
- xã hội, lợi ích thiết thực cho cả cộng đồng, nhưng trên hết là đem lại lợi ích
trực tiếp cho người nông dân. Do vậy, các chỉ tiêu đạt được chỉ có ý nghĩa
đích thực khi nó đáp ứng được từng bước những yêu cầu thỏa đáng của nông
dân. Cả hệ thống chính trị và tồn xã hội phải xuất phát từ nông dân, lấy nông
dân làm mục tiêu của q trình phát triển tồn diện trên các lĩnh vực từ kinh
tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng… Đời sống của nơng
dân như thế nào, sẽ là cơ sở khách quan phản ánh tính đúng đắn của đường
lối, chủ trương cũng như sự quyết tâm chính trị của tồn Đảng bộ đối với
nơng nghiệp, nơng dân và nông thôn.
Với truyền thống cách mạng của quê hương, nơng dân Bắc Kạn đã tích
cực tham gia vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn tỉnh nhà nhưng q trình xây dựng nơng thơn mới hiện nay vẫn cịn
nhiều khó khăn, thách thức phía trước. Vì vậy, việc phát huy vai trị, khơi dậy

tính chủ động, sáng tạo của nông dân trong giai đoạn hiện nay vẫn là nhiệm
vụ hàng đầu cần được tiếp tục thực hiện. Q trình xây dựng nơng thơn mới ở
Bắc Kạn thành cơng đến đâu cịn tùy thuộc vào tính tự giác của nơng dân.
Nhưng điều này trước hết lại phụ thuộc vào tính đúng đắn về đường lối, chủ


23
trương của Đảng, vai trò điều hành của các cấp ủy, chính quyền địa phương,
phải ln hướng về nơng thơn, thực sự xem nông dân vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự phát triển toàn diện xã hội nông thôn. Mọi biểu hiện lệch lạc
trong nhận thức, thái độ coi thường nông dân, quan liêu, xa rời nông dân sẽ là
nguy hại lớn cho sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Thứ hai, Xây dựng nông thôn mới, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp, nơng thơn phải gắn chặt giữa tăng trưởng kinh tế với chăm
lo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, không ngừng phát
huy quyền làm chủ của nông dân
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn gắn với xây dựng
nông thôn mới ở Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay phải bảo đảm được tính
hiệu quả và sự hài hòa trên cả hai phương diện:
Một là, xây dựng nông thôn mới phải tạo ra nhiều cơ hội để nông dân
đẩy mạnh lao động sản xuất, giúp nông dân tự vươn lên thoát nghèo, nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và làm giàu chính đáng. Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn gắn với xây dựng nông thôn mới
suy cho cùng là nhằm tạo ra được nhiều công ăn việc làm tại chỗ cho nông
dân với tinh thần “ly nông bất ly hương” bằng cách đẩy mạnh phát triển công
nghiệp và ngành nghề, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn; đồng thời có
chính sách hỗ trợ về vốn, đẩy mạnh cơng tác khuyến nông, khuyến ngư,
chuyển giao khoa học và công nghệ và đặc biệt là khâu tiêu thụ nơng sản hàng
hóa của nông dân. Đây là một nhiệm vụ nặng nề, khó khăn nhưng vơ cùng vẻ
vang của Đảng bộ Bắc Kạn. Bởi mỗi bước phát triển của nông thôn, đời sống

vật chất của nông dân được nâng cao càng chứng tỏ đường lối, chủ trương của
Đảng thực sự đi vào cuộc sống. Một khi ý Đảng hợp lòng dân sẽ là điều kiện
quan trọng để thực hiện chính sách an dân.
Hai là, cùng với việc đem lại cho nông dân có được một cuộc sống vật
chất đầy đủ, no ấm và sung túc, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,


24
nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới đem đến cho nông dân sự phát triển
bền vững cả về đời sống văn hóa tinh thần, an sinh xã hội ngày một cao
hơn. Trong đó cần chú trọng đến các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, thể
dục thể thao, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đặc biệt là đảm
bảo môi trường sinh thái được bền vững, giữ gìn những nét đặc thù vốn có
của người nơng dân và địa bàn nơng thơn. Điều quan trọng nhất là phải
tăng cường mở rộng và phát huy dân chủ. Một khi mục tiêu dân chủ được
đảm bảo sẽ là điều kiện quan trọng phát huy lịng nhiệt tình cách mạng của
nơng dân, góp phần tạo nên các phong trào hành động cách mạng ở từng
địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội.
Để thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở cần phải gắn liền với cuộc vận
động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, kiện tồn hệ thống chính trị ở cơ sở,
khơng ngừng nâng cao trình độ nhận thức và năng lực thực hành dân chủ cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tích cực đẩy mạnh cơng tác cải cách hành
chính, giảm thiểu đến mức thấp nhất những phiền hà cho nông dân đối với các
cơ quan công quyền. Thực hiện tốt vấn đề dân chủ ở cơ sở sẽ có ý nghĩa rất
lớn, trực tiếp quyết định trong việc đưa các giá trị dân chủ trở thành hiện thực
trong cuộc sống. Song, cần phải giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, tránh trường
hợp lợi dụng dân chủ để có những địi hỏi thái q, dân chủ vơ chính phủ, làm
phương hại đến lợi ích của tồn xã hội.
Thứ ba, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng trách nhiệm
của tồn xã hội nhằm phát huy vai trị của nơng dân trong xây dựng nông

thôn mới ở Bắc Kạn.
Phát huy vai trị của nơng dân trong xây dựng nơng thơn mới, góp phần
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn
huyện là công việc khơng đơn giản. Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị này
cần có sự phối hợp chặt chẽ, cộng đồng trách nhiệm cao của tồn xã hội,
trong đó cần tập trung vào các vấn đề sau:


25
Một là, đẩy mạnh công tác chuyển giao, ứng dụng rộng rãi các tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ vào trong q trình sản xuất nơng nghiệp
nhằm tăng năng suất lao động, giúp nông dân kéo giảm chi phí sản xuất, đáp
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu về vốn cho sản xuất, chủ động tìm kiếm và mở
rộng thị trường mới để đảm bảo cho việc tiêu thụ và tăng sức cạnh tranh của
nơng sản hàng hóa, phát triển các ngành nghề và dịch vụ nông thôn,… đây là
yêu cầu cấp bách, trọng tâm trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, đổi mới phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, phát triển một nền nơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa;
Vận động nơng dân tích cực tham gia các hình thức kinh tế hợp tác và kinh tế
trang trại. Từng bước hình thành các hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo luật
hợp tác xãvới qui mơ, hình thức, bước đi phù hợp theo nguyên tắc tự nguyện,
dân chủ cùng có lợi theo hướng CNH - HĐH.
Ba là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nhất là những
vấn đề có liên quan đến nơng nghiệp, nơng thôn và nông dân nhằm tạo sự đồng
thuận và hưởng ứng mạnh mẽ trong nông dân đối với Đảng và Nhà nước.
Với chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, cùng
với truyền thống cần cù, siêng năng, ham học hỏi và truyền thống hào hùng
của quê hương, nông dân Bắc Kạn nhất định sẽ tham gia tích cực, quyết định
sự thắng lợi của q trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh. Lịch sử

phong trào cách mạng trên quê hương Bắc Kạn đã minh chứng hùng hồn,
trong mọi hồn cảnh biết dựa vào nơng dân, biết phát huy và phát huy có hiệu
quả sức mạnh của nơng dân là chìa khóa của mọi thành công.
1.3. Khái quát về đặc điểm kinh tế - xã hội của nông
dân huyện Ba Bể
1.3.1. Về đặc điểm tự nhiên


×