Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

Phát triển khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 142 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các nguồn lực bao gồm vốn, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và công
nghệ là những yếu tố đặc biệt quan trọng trong đầu tư thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế - xã hội. Đối với một quốc gia, các nguồn lực này được sử
dụng từ hai nguồn trong nước và quốc tế. Đối với nước ta, nguồn lực trong
nước có vai trị quyết định tính bền vững của sự phát triển. Tuy nhiên, các
nguồn lực về vốn và công nghệ nước ngồi có vai trị rất quan trọng trong thời
kỳ đầu, cần được nghiên cứu để có chính sách thu hút cho phát triển.
Do có điểm xuất phát thấp và là một nền kinh tế đang phát triển, Việt
Nam đang phải đối mặt với những thách thức gay gắt, trong đó một mâu
thuẫn lớn đang đặt ra là nhu cầu về vốn và cơng nghệ cho đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) rất lớn, nhưng hiện tại thu nhập của
người dân còn thấp, tiết kiệm và đầu tư thấp xa so với mong muốn, trình độ
cơng nghệ và dân trí cịn chưa cao. Điều này nếu khơng có giải pháp hữu hiệu
trong việc thu hút, phát triển nguồn lực bên trong và bên ngồi thì khó có thể
thực hiện được mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Để giải quyết vấn đề này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều quyết sách quan trọng. Bên cạnh chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần nhằm phát huy các nguồn lực trong nước, chúng ta còn chủ
trương mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, thực hiện đa dạng
hóa, đa phương hóa kinh tế đối ngoại trên tinh thần Việt Nam là bạn và là đối
tác tin cậy của các quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhờ đó, chúng ta đã đạt được
một số thành tựu quan trọng trong thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài
FDI (Foreign Direct Investment). Tính đến ngày 15/12/2011, Việt Nam có
13.667 dự án cịn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 198 tỷ USD. Khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi (KVKTCVĐTNN) đã góp phần quan trọng



2
vào tạo việc làm, tăng sản lượng của nền kinh tế. Năm 2011, vốn FDI giải
ngân đạt tới 11 tỷ USD, đóng góp gần 26% tổng vốn đầu tư tồn xã hội. Xuất
khẩu khu vực FDI (kể cả dầu thô) ước đạt 54,5 tỷ USD, chiếm 59% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp trên 19% giá trị vào GDP của Việt
Nam, đồng thời góp phần quan trọng vào việc làm, tăng tỷ trọng đầu tư, đổi
mới công nghệ, tăng năng lực xuất khẩu sản phẩm, tăng thu nhập của người
dân và tăng thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, hoạt động của Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ở Việt Nam
những năm qua cịn bộc lộ khơng ít hạn chế, bất cập. Đó là tình trạng nước
chủ nhà cịn thụ động trong ngành, lĩnh vực ĐTNN; tình trạng khơng ít doanh
nghiệp thuộc khu vực này, tuy hình thức kinh doanh bị lỗ nhưng không chỉ
vẫn tiếp tục hoạt động mà còn mở rộng sản xuất. Chẳng hạn, theo báo cáo
thống kê tháng 10/2009 của Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh thì con số
doanh nghiệp báo lỗ liên tục trong 3 năm trở lên nhưng vẫn tiếp tục hoạt động
trên địa bàn thành phố là 3.282, với tổng số lỗ 3 năm (2006 - 2008) là trên
22.638 tỉ đồng. Trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) chiếm 61,3%. Năm 2009, gần 60% doanh nghiệp FDI báo cáo thua lỗ,
năm 2007 con số này là 70%... Một số mục tiêu khác như đổi mới công nghệ,
tăng năng lực xuất khẩu v.v... vẫn chưa đạt được như ý muốn. Gần đây khu
vực FDI có xu hướng chuyển đầu tư sang kinh doanh thương mại, kinh doanh
bất động sản thay vì đầu tư vào sản xuất như trước kia. Đây là những vấn đề
mới, cần tìm ra giải pháp điều chỉnh.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, thời gian qua, thành phố
Hải Phòng đã có nhiều chủ trương và biện pháp nhằm phát triển Khu vực kinh
tế có vốn ĐTNN. Đã có một số cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo lập mơi trường
kinh doanh thuận lợi… để phát triển khu vực kinh tế này và đã thu được
những kết quả quan trọng. Đến nay, Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trên địa
bàn thành phố Hải Phịng đã có trên 320 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư
hơn 5,34 tỷ USD. Các nhà đầu tư đến từ 28 quốc gia và vùng, lãnh thổ. Tuy



3
nhiên, Khu vực FDI của Thành phố vẫn không nằm ngồi tình trạng chung
của cả nước nêu trên, quy mơ vốn đầu tư thu hút chưa đều đối với mỗi quốc
gia, khu vực, cơ cấu vốn đầu tư để phát huy thế mạnh của một thành phố cảng
trực thuộc Trung ương vẫn chưa được như mong muốn. Nông nghiệp, thuỷ
sản vẫn chưa phải là lĩnh vực hấp dẫn đối với khu vực kinh tế này...
Để góp phần vào giải quyết tình trạng thiếu vốn và cơng nghệ trong đầu
tư phát triển, tạo điều kiện để Hải Phịng hồn thành mục tiêu mà Đại hội
Đảng bộ thành phố lần thứ XIV đề ra: “Phát huy đồng bộ lợi thế thành phố
Cảng và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, để đến năm 2015, Hải Phịng cơ bản trở thành thành phố cơng nghiệp và
dịch vụ cảng theo hướng văn minh, hiện đại”, trở thành một trung tâm công
nghiệp, thương nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác của vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc, một đô thị lớn của cả nước, là thành phố cảng biển, đầu mối
giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế, khai
thác tốt tiềm năng, thế mạnh vốn có, dẫn dắt các khu vực kinh tế phát triển có
hiệu quả. Là cán bộ trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của thành phố Hải Phịng,
đã có nhiều năm cơng tác liên quan đến vấn đề này, tôi chọn đề tài: “Phát
triển khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi tại thành phố Hải Phòng”
làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế phát triển tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Khu vực kinh tế là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân. Tùy
theo hướng nghiên cứu mà việc xác định khu vực kinh tế được xác định theo
một tiêu thức nhất định. Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN bao gồm các doanh
nghiệp sở hữu 100% vốn nước ngồi và các cơng ty liên doanh có nguồn vốn
từ bên ngồi được phép hoạt động tại Việt Nam.
Đến nay, ở trong và ngồi nước đã có những cơng trình nghiên cứu về
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN hoạt động tại Việt Nam. Có thể chia các cơng

trình đó thành các nhóm như sau:


4
Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu về ĐTNN trên
phạm vi tồn quốc:
- “Hồn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam”, Mai Ngọc Cường, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2000.
- Các dự án đầu tư ở Việt Nam đến năm 2010, Nguyễn Mạnh Hùng,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2001.
- “Bối cảnh, kinh tế mới, các dòng đầu tư nước ngoài với phát triển thương
mại và thị trường Châu Á và Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Pháp -Việt,
Trường Đại học Thương mại Hà Nội và Trường Đại học Thương mại Pari, 2003.
- “Đầu tư trực tiếp nước ngoài, mạng lưới sản xuất quốc tế và CNH,
HĐH”, Mai Đức Lộc, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 11/2003.
- “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam-Thực trạng, những vấn đề
đặt ra và triển vọng” Đồn Ngọc Phúc, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới
8/2004.
- “Những giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010 ”, Tống Quốc
Đạt, Luận án tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý và kế hoạch hóa nền kinh tế quốc
dân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- “Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi: Vị trí, vai trị của nó
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nguyễn
Bích Đạt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đề tài mã số KX 01.05. Hà Nội 12/2004.
- “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam lý luận và thực tiễn,
GS.TS Lê Hữu Nghĩa - TS. Đinh Văn Ân, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2004.
- “Định hướng phát triển các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngồi tại
Việt Nam”, Ngô Công Thành, Luận án tiến sỹ, chuyên ngành kinh tế chính trị,
Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.

- “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay: thực trạng và triển vọng” PGS, TS
Trần Quang Lâm và PGS, TS An Như Hải, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.


5
- “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”
Trần Xuân Tùng, Nxb Chính trị quốc gia, 2005.
- “Cải thiện môi trường đầu tư, bắt đầu từ đâu?”, Nguyễn Văn Oánh,
Bài báo đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 1/2006;
- “20 năm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Đánh giá tình hình FDI vào Việt Nam qua 20 năm 1987-2007.
- “Vài suy nghĩ về chính sách thu hút đầu tư trong giai đoạn hiện nay”,
Lê Khoa, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 5/2007.
- “Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của địa phương trong việc
thu hút đầu tư”, Nguyễn Hoài Long, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số tháng 9/2008.
- “Nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam”, TS Nguyễn Huệ Anh, Viện nghiên cứu quản lý
Trung ương , Hà Nội 2008
- “Một số giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước
ngoài ở vùng duyên hải Nam Trung bộ”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện
chính trị khu vực II, 2007.
Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về ĐTNN ở các địa phương:
- “Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng”,
Nguyễn Đẩu, Luận án tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý kinh tế, Học viện Chính
trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005
- “Đầu tư trực tiếp nước ngồi ở Bình Dương - Thực trạng và giải
pháp” Bùi Thị Dung, Luận văn thạc sỹ Kinh doanh và quản lý, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005
- “Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay”,

Nguyễn Văn Thành, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2006.
- “Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
ở Đà Nẵng”, Phan Văn Tâm, Luận văn Thạc sỹ Kinh doanh và quản lý, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.


6
- “Giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Hải Phịng”,
Phạm Thị Quỳnh Liên, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành quản lý kinh
tế, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phịng có Đề tài “Nghiên cứu đề xuất
những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại; mở rộng
không gian kinh tế thành phố đến năm 2010”. Trong đó, hoạt động FDI được
đề cập đến như là một bộ phận quan trọng của phát triển kinh tế đối ngoại
Trong số đó, có cơng trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đầu tư
nước ngoài của cả nước nói chung, có cơng trình nghiên cứu Khu vực kinh tế
có vốn ĐTNN ở Việt Nam, có cơng trình lại nghiên cứu thực trạng đầu tư
nước ngoài trên một địa bàn tỉnh, thành phố, một vùng trong nước hoặc
nghiên cứu kinh nghiệm thu hút ĐTNN… Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có
cơng trình khoa học nào nghiên cứu về Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ở thành
phố Hải Phịng dưới góc độ kinh tế phát triển. Đề tài mà học viên lựa chọn
nghiên cứu là mới, không trùng với các cơng trình và bài viết đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khái quát lý luận về Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN, nội dung và vai
trị của nó đối với q trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Dựa vào đó, phân
tích và đánh giá thực trạng Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ở thành phố Hải
Phòng từ năm 1987 đến nay để làm rõ mức độ phát triển của nó, đồng thời tìm
giải pháp tiếp tục phát triển có hiệu quả khu vực kinh tế này trên địa bàn

nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của thành phố đến năm 2020,
tức là đến khi thành phố cùng cả nước phấn đấu trở thành nền kinh tế công
nghiệp theo hướng hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển Khu
vực kinh tế có vốn ĐTNN, bao gồm khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò,
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển KVKTCVĐTNN tại Việt Nam.


7
- Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển KVKTCVĐTNN; rút ra bài học kinh
nghiệm đối với Hải Phịng nói riêng, cả nước nói chung trong phát triển
KVKTCVĐTNN.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng hoạt động của KVKTCVĐTNN
tại thành phố Hải Phòng từ khi nước ta ban hành Luật ĐTNN (năm 1987) đến
nay; chỉ rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu,
hạn chế trong phát triển khu vực kinh tế này trước yêu cầu thúc đẩy CNH,
HĐH ở Hải Phòng trong những năm tới.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển đúng
hướng và hiệu quả KVKTCVĐTNN ở thành phố Hải Phòng đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các tổ chức, doanh nghiệp thuộc KVKTCVĐTNN bao gồm cơ sở 100%
vốn nước ngoài và các cơng ty liên doanh có sự dụng vốn nước ngồi trên khía
cạnh là một bộ phận nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế tại Việt
Nam và tập trung nghiên cứu vấn đề này tại địa bàn thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
ĐTNN là phạm trù rộng, nó bao gồm nhiều hình thức đầu tư. Trong
phạm vi đề tài này, chủ yếu nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Thêm nữa, ĐTNN bao gồm cả đầu tư của người nước ngoài vào một

nước và đầu tư của nước đó ra nước ngồi. Trong điều kiện Việt Nam hiện
nay, bộ phận đầu tư của người Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh, chưa đủ
để nghiên cứu, khái quát, vạch ra quy luật vận động của nó. Vì thế, đề tài chủ
yếu nghiên cứu về FDI vào Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn về tri thức bao gồm việc thu hút,
quản lý hoạt động của KVKTCVĐTNN; Luận văn không đi vào nghiên cứu
bộ phận vốn trong nước ở KVKTCVĐTNN, mà chỉ coi đó như là nhân tố có
liên quan để làm nổi bật vị trí, vai trị và tác động của nguồn vốn nước ngoài
đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hải Phòng.


8
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu vấn đề phát triển KVKTCV
ĐTNN trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu vấn đề phát triển KVKTCVĐTNN
trong giai đoạn 1987 - 2011, tức là từ khi có Luật ĐTNN vàoViệt Nam đến
nay; dự báo xu hướng phát triển KVKTCVĐTNN trên địa bàn Thành phố
Hải Phòng đến năm 2020.
Các số liệu thống kê, phân tích, so sánh dựa vào số liệu thống kê của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Tổng Cục Thống kê, Cục Thống kê Hải Phòng, Sở
Kế hoạch và Đầu tư thành phố, các sở, ban, ngành liên quan và doanh
nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn Hải Phòng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, các lý thuyết về
kinh tế học phát triển đối với khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Đồng thời, luận văn bám sát vào chủ trương, quyết sách của
Thành ủy, HĐND, UBND thành phố Hải Phòng trong việc chỉ đạo phát triển
KVKTCVĐTNN.

Nội dung của luận văn có kế thừa chọn lọc các kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kinh tế, đặc
biệt là phương pháp của chuyên ngành kinh tế phát triển bao gồm cả nghiên
cứu định tính và định lượng như khảo sát nguồn lực, phân tích hiện trạng và
triển vọng, so sánh, thống kê, mơ hình phát triển và giải pháp phát triển, trong
đó chú trọng nhiều hơn việc nghiên cứu định lượng theo mục tiêu và nhiệm
vụ của đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về KVKTCV ĐTNN.


9
- Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển KVKTCVĐTNN của một địa phương
có các điều kiện tương đồng với Hải Phịng; từ đó rút ra bài học bổ ích trong
phát triển khu vực kinh tế này ở thành phố Hải Phòng đến năm 2020.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KVKTCVĐTNN trên địa bàn
Hải Phòng từ năm 1987 đến nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển
có hiệu quả và đúng hướng KVKTCVĐTNN trên địa bàn thành phố Hải
Phòng đến năm 2020.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan quản lý nhà nước và những ai quan tâm đến việc phát triển các
khu vực kinh tế nói chung, KVKTCVĐTNN ở thành phố Hải Phịng nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.



10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH
TẾ CĨ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA KHU VỰC KINH TẾ CĨ
VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI

1.1.1. Khái niệm
Đầu tư nước ngồi là hiện tượng kinh tế mang tính quy luật. Lúc đầu,
hiện tượng này được V.I. Lênin gọi là xuất khẩu tư bản (XKTB). Trong cuốn
sách “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”, V.I. Lênin
đã chỉ rõ bản chất và hình thức XKTB.
Theo V.I. Lênin, có hai hình thức XKTB là XKTB hoạt động và XKTB
cho vay. XKTB hoạt động là hình thức mang tư bản sang các nước lạc hậu để
xây dựng những xí nghiệp mới, hoặc mua lại các cơ sở đang hoạt động ở các
nước nhập khẩu tư bản, biến nó thành chi nhánh của các cơng ty mẹ tại chính
quốc. XKTB cho vay là việc cho các nước lạc hậu vay tư bản. Hai hình thức
trên có thể do nhà nước hoặc do tư nhân thực hiện. Vì thế, có XKTB hoạt
động của nhà nước, XKTB hoạt động của tư nhân; XKTB cho vay của nhà
nước và XKTB cho vay của tư nhân. Lênin cũng chỉ ra mục đích của XKTB
là nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao.
Cùng với sự phát triển có tính chất "bùng nổ" của khoa học-cơng nghệ,
sự biến đổi chính trị thế giới làm cho XKTB có xu hướng thay đổi cả về quy
mơ, phạm vi và với các chiều hướng khác nhau. Trong điều kiện giao lưu kinh
tế ngày càng phát triển, việc dịch chuyển các dòng vốn đầu tư giữa các nước
ngày càng mạnh mẽ và xu hướng phát triển ngày càng đa dạng.
Trước hết, khái niệm XKTB được đổi thành khái niệm ĐTNN. Ngày
nay, về cơ bản, hình thức XKTB hoạt động được gọi là ĐTNN trực tiếp, cịn
hình thức XKTB cho vay được gọi là ĐTNN gián tiếp. Đối với mỗi quốc gia,
khơng kể đó là nước phát triển hay đang phát triển, ĐTNN trở thành yếu tố



11
quan trọng, có đóng góp lớn vào sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế
quốc gia. Chính vì vậy, có nhiều tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu và đưa
ra các khái niệm về ĐTNN.
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ xác định: ĐTNN là mọi hình thức đầu
tư trên lãnh thổ của một bên do các công dân hoặc công ty của bên kia sở hữu
hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, thực hiện dưới các hình thức như một
cơng ty hay một doanh nghiệp; cổ phần, cổ phiếu và hình thức góp vốn khác,
trái phiếu, giấy ghi nợ, các quyền theo hợp đồng, tài sản hữu hình và tài sản
vơ hình, quyền sở hữu trí tuệ... Theo khái niệm này, ĐTNN bao gồm cả đầu tư
trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII).
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF “FDI là đầu tư phản ánh mục tiêu nhằm
đạt lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước tiếp nhận
đầu tư), không phải tại nước mà doanh nghiệp hoạt động (nước đi đầu tư) với
mục đích quản lý có hiệu quả doanh nghiệp” [49, tr.235]. Khái niệm này nhấn
mạnh ba yếu tố: tính lâu dài của hoạt động đầu tư, chủ thể đầu tư phải có yếu
tố nước ngồi, động cơ đầu tư là dành quyền kiểm soát trực tiếp hoạt động
quản lý doanh nghiệp. Đây là sự phân biệt giữa FDI và đầu tư gián tiếp trên
thị trường vốn trong nền kinh tế hiện đại ngày nay.
Tương tự như vậy, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) định nghĩa về
FDI như sau: FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có
một tài sản ở nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản
đó. Phương diện quản lý là phân biệt FDI với các cơng cụ tài chính khác.
Luật ĐTNN tại Việt Nam xác định ĐTNN là việc đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo
quy định của Luật Đầu tư. Các tài sản này có thể là thiết bị, máy móc, nhà
xưởng, cơng trình xây dựng hoặc giá trị quyền sở hữu cơng nghiệp, bí quyết
kỹ thuật, quy trình cơng nghệ, dịch vụ kỹ thuật [33].

Như vậy, FDI là một loại hình đầu tư quốc tế trong đó tổ chức cư trú
tại một nền kinh tế thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp tại một nền


12
kinh tế khác. Lợi ích lâu dài ở đây hàm ý sự tồn tại trong thời gian dài của
mối quan hệ giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp này cùng mức độ ảnh
hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp đó.
Từ đây, có thể thấy FDI là hoạt động mở rộng địa bàn đầu tư của các
nhà ĐTNN vượt khỏi biên giới quốc gia nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Phân biệt
giữa hoạt động đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp là ở chỗ trong hoạt
động FDI, nhà đầu tư bỏ vốn và đồng thời quản lý các hoạt động sản xuất
kinh doanh từ khi thành lập đến khi kết thúc hoạt động.
Có ba yếu tố cấu thành FDI:
- Vốn chủ sở hữu, trong đó có cả vốn pháp định của các chi nhánh,
cơng ty con và các loại vốn góp khác.
- Thu nhập được tái đầu tư dưới hình thức vốn chủ sở hữu hoặc giao
dịch nợ liên công ty.
- Vốn liên quan đến giao dịch nợ liên cơng ty
Có hai loại hình FDI cơ bản là
- Đầu tư mới và mở rộng: Các nhà đầu tư thực hiện thông qua việc xây
dựng một liên doanh mới hoặc một doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi hoặc
mở rộng quy mơ doanh nghiệp đã đầu tư từ trước.
- Mua lại và sáp nhập (M&A): là kênh đầu tư mà nhà đầu tư tiến hành
đầu tư thông qua việc mua lại và sát nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước
ngồi hoặc mua cổ phần của các cơng ty cổ phần và cổ phần hố. Hình thức
này chủ yếu là chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước chủ
nhà sang sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài.
Tại nhiều nước M&A là hình thức rất quan trọng của FDI. Song ở Việt
Nam, hiện nay chủ yếu là thành lập liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn

nước ngồi; Hình thức M&A chưa phổ biến do quy định hạn chế về tỷ lệ cổ
phần của người nước ngồi trong các cơng ty trong nước.
Tổng hợp tất cả những ý kiến trên đây, chúng ta có thể hiểu một cách
khái quát về đầu tư nước ngoài (ĐTTTNN) như sau:


13
Đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ
đầu tư của một nền kinh tế đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một
nền kinh tế khác để thành lập và trực tiếp điều hành, kiểm soát hoạt động kinh
doanh các doanh nghiệp họ bỏ vốn đầu tư (các doanh nghiệp FDI hay các chi
nhánh cơng ty) nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi với các hình thức phổ biến là: Hợp đồng
hợp tác kinh doanh (Contractual - Business - Cooperation); Công ty liên
doanh (Joint Venture Enterprise) ; và Công ty 100% vốn nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài: là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay
thu lãi. Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc
gia và quốc tế các nhà ĐTNN cho các nước khác vay vốn theo nhiều hạn định
khác nhau để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế.
Các hình thức chủ yếu của đầu tư gián tiếp là: Viện trợ khơng hồn lại và
cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi từ các tổ chức quốc tế hoặc từ Chính phủ
các nước phát triển (ODA); Vay thương mại của quốc gia này cho quốc gia
khác; và đầu tư cổ phiếu hoặc trái phiếu.
1.1.2. Đặc điểm khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Mục tiêu của các nhà đầu tư là lợi nhuận, tuy nhiên cần phải hiểu rằng
lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của ĐTNN nói riêng và hoạt động kinh
doanh nói chung. Chính vì, do đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư nên mục tiêu lợi
nhuận của nhà đầu tư ln tồn tại song hành và có xu hướng hòa hợp với các
mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương nước tiếp nhận đầu tư.
Đánh giá bản chất của Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN, đến nay cịn

nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, ĐTNN là bóc lột người lao động,
bóc lột quốc tế của nhà đầu tư với các nước nhận đầu tư. Trong quá trình hội
nhập quốc tế hiện nay, nhiều người cho rằng, ĐTNN là quan hệ hợp tác kinh
tế mà hai bên: nhà đầu tư và nước nhận đầu tư cùng có lợi.
Nhận thức đúng về KVKTCVĐTNN là một q trình, nó phản ánh sự
đổi mới tư duy lý luận kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Trước Đại hội VI


14
(1986), các văn kiện Đại hội Đảng chỉ ghi nhận nền kinh tế có một chế độ sở
hữu là cơng hữu với hai hình thức là sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể. Việc
thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần của Đại hội VI là một sự chuyển biến
cách mạng và khoa học trong tư duy lý luận của Đảng. Tiếp tục tư tưởng của
Đại hội VI, các Đại hội Đảng tiếp theo đến nay, đều khẳng định sự tồn tại của
nền kinh tế nhiều thành phần. Hơn nữa, Đại hội Đảng IX không chỉ tiếp tục
phát triển tư tưởng của các Đại hội trước, mà còn tách kinh tế có vốn ĐTNN
thành một thành phần kinh tế độc lập, tương ứng với các thành phần kinh tế
khác. Như thế, từ chỗ phủ nhận sự tồn tại, đến chỗ thừa nhận, và hơn nữa, còn
tách riêng KVKTCVĐTNN ra khỏi thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành
một thành phần kinh tế độc lập, thể hiện sự chuyển biến cách mạng trong việc
nhận thức và sự đánh giá ngày càng đúng hơn bản chất, vai trò của thành phần
kinh tế này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy nhiên, đến nay, nhiều vấn đề đối với thành phần KTCVĐTNN cịn tiếp
tục phải hồn thiện.
Trên thế giới, tuỳ theo đặc điểm mỗi nước, tuỳ theo trình độ phát triển,
cơ cấu, vị trí, vai trị của các hình thức sở hữu ở mỗi thời kỳ, có thể tiếp tục
phân chia các khu vực kinh tế nhỏ hơn. Trong điều kiện phát triển hiện nay
của nước ta, có thể chia thành khu vực kinh tế nhà nước (hay kinh tế quốc
doanh), khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế có vốn ĐTNN.
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là khu vực kinh tế bao gồm các doanh

nghiệp được xây dựng dựa trên sở hữu vốn của các nhà ĐTNN tại nước ta và
các doanh nghiệp được xây dựng trên sở hữu của các nhà đầu tư nước ta ở
nước ngồi. Đó là các doanh nghiệp hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi.
Về hình thức tổ chức kinh doanh KVKTCVĐTNN hiện nay rất đa
dạng, có nhiều tiêu chí khác nhau để xác định:
- Theo cách thức đầu tư, có: Đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện qua
2 kênh chủ yếu: đầu tư mới và mở rộng; mua lại và sáp nhập; i) Đầu tư mới


15
và mở rộng: là kênh đầu tư mà các nhà đầu tư thực hiện thông qua việc đầu tư
các doanh nghiệp mới hoặc mở rộng quy mô doanh nghiệp đã đầu tư trước đó.
Hình thức này có ưu điểm là bổ sung thêm vốn vào nước nhận đầu tư mở rộng
hoặc đầu tư theo chiều sâu nên tạo thêm việc làm, thúc đẩy cạnh tranh và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hưóng tiến bộ; ii) Mua lại và sáp nhập: là
kênh đầu tư mà nhà đầu tư thực hiên qua việc mua lại, sáp nhập các doanh
nghiệp hiện có hay mua cổ phần của các công ty tại nước nhận đầu tư. Hình
thức này chủ yếu là chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước
chủ nhà sang sở hữu của các nhà ĐTNN. Thông qua việc mua lại và sáp nhập,
quy mô các doanh nghiệp được mở rộng, thay đổi phương thức tổ chức hoạt
động và quản lý, nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Đây là hình thức FDI khá phổ biến tại các nước phát triển và các nước
cơng nghiệp hóa mới. Ở nước ta, hình thức này chưa nhiều vì cịn những hạn
chế bởi các quy định về tỷ lệ cổ phần của người nước ngoài trong các công ty
nhà nước và sự hoạt động chưa hiệu quả của thị trường chứng khoán.
- Theo phạm vi kiểm sốt doanh nghiệp hình thành sau đầu tư của nhà
ĐTNN, có: i) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi: Đây là hoạt động đầu tư
phổ biến của FDI. Các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng các doanh nghiệp để khai
thác lợi thế của các nước nhận đầu tư nhằm thu lợi ích cao nhất. Doanh

nghiệp 100% vốn ĐTNN (100% Foreign Capital Enteprise) là doanh nghiệp
mà toàn bộ tài sản của doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà ĐTNN, do nhà
ĐTNN thành lập tại Việt Nam và tự quản lý, cũng như tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh. Hình thức này có ưu điểm là nước tiếp nhận đầu tư nhận
được vốn và kèm theo đó là cơng nghệ, kỹ thuật mới, khômg chịu rủi ro trong
kinh doanh, thu được tiền thuê đất, thuế, giải quyết được việc làm. Tuy nhiên,
hình thức này có nhược điểm là khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và
cơng nghệ, khó kiểm sốt được đối tác nước ngồi và khơng thu được lợi
nhuận: ii) Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture Enterprise): là hình thức
liên doanh giữa ĐTNN và đầu tư trong nước. Đây là hình thức sử dụng rộng


16
rãi trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh (Joint
Venture Enterprise): là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác thành lập
trên cơ sở hợp động liên doanh giữa bên (hoặc các bên) nước chủ nhà và bên
(hoặc các bên) nước ngoài để kinh doanh tại nước sở tại. Hình thức này có ưu
điểm là: góp phần bổ sung vốn cho nền kinh tế; giải quyết việc làm, chia sẻ
rủi ro kinh doanh và tạo cơ hội nâng cao tay nghề của người lao động; học tập
được kinh nghiệm quản lý; có điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Hạn chế của hình thức này là có thể xuất hiện những mâu thuẫn giữa các
bên tham gia đầu tư do khác nhau về chính trị, phong tục tập qn, văn hóa, trình
độ quản lý... Đặc biệt, khi nhà đầu tư trong nước có tỷ lệ đóng góp vốn thấp thì
sẽ gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của phía Việt Nam và cộng đồng.
- Theo phương thức đầu tư, có: i) Hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC
(Contractual - Business - Cooperation): là hình thức đầu tư được ký giữa các
nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm
mà không thành lập pháp nhân [33]. ii) Hợp đồng BCC được ký giữa 2 bên
hay nhiều bên để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh, trong đó
quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên. Hình

thức này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, khắc phục yếu
kém về công nghệ, tạo thị trường mới, đảm bảo được quyền điều hành dự án
của nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, có nhược điểm là
nước sở tại khơng tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý, công nghệ thường lạc
hậu. Hợp đồng BCC thường được thực hiện trong các lĩnh vực mà nhà nước
sở tại nắm ưu thế về tài nguyên nhưng khả năng về vốn và cơng nghệ hạn chế
như tìm kiếm, thăm dị, khai thác dầu khí và một số tài nguyên khác. iii)Hợp
đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BOT (Building Operate Transfer)
là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà
ĐTNN để xây dựng, kinh doanh cơng trình kết cấu hạ tầng trong một thời
gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao khơng bồi hồn cơng
trình đó cho Nhà nước Việt Nam [33]. Hợp đồng xây dựng - chuyển giao-


17
kinh doanh BTO (Building Transfer Operate) là hình thức đầu tư được ký
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà ĐTNN để xây dựng cơng trình
kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao cơng trình đó
cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền
kinh doanh công trình đó trong một khoảng thời gian nhất định để thu hồi vốn
đầu tư và lợi nhuận [33]. iv) Hợp đồng xây dựng - chuyển giao BT (Building
Transfer) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và nhà ĐTNN để xây dựng cơng trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong,
nhà đầu tư chuyển giao cơng trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ
Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn
đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp
đồng BT [33]. Các hình thức BOT, BTO, BT có đặc điểm cơ bản là nhà đầu tư
ký hợp đồng BOT, hợp đồng BT, BTO với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để thực hiện các dự án trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất
định; hết thời hạn, bắt buộc phải chuyển giao khơng bồi hồn cho nhà nước.

Hình thức đầu tư này có ưu điểm là thu hút được vốn vào các cơng trình để
thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, nhược điểm là nước chủ nhà khó tiếp
nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ơ
nhiễm mơi trường.
Ngồi ra, nhà đầu tư có thể đầu tư thêm để phát triển kinh doanh thơng
qua các hình thức như: mở rộng quy mơ, tăng công suất sản xuất, năng lực
kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm
môi trường. ĐTNN để mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp.
Nhà ĐTNN mua cổ phần, mua lại các doanh nghiệp thơng qua thị
trường chứng khốn. Với số lượng cổ phiếu nhất định, nhà ĐTNN chưa được
quyền tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý doanh nghiệp nên hoạt động
đó thuộc vào đầu tư gián tiếp. Chỉ khi nhà ĐTNN sở hữu, một tỷ lệ cổ phiếu
vượt qua một mức giới hạn nào đó cho phép họ có quyền tham gia quản lý
doanh nghiệp thì hoạt động này được xem là đầu tư trực tiếp. Việc quy định tỷ


18
lệ này ở các nước, tại mỗi thời điểm không giống nhau (ở Việt Nam hiện nay
tỷ lệ này quy định là 30%).
Hình thức này có ưu điểm là có thể thu hút vốn nhanh, linh hoạt, tạo
sức ép cho các doanh nghiệp trong nước làm ăn hiệu quả, giúp phục hồi các
doanh nghiệp đang trên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, hình thức này có nhược
điểm là dịng vốn này không ổn định, dễ tạo thành các tác động dây chuyền
gây nên đổ vỡ trên thị trường tài chính.
Một đặc điểm nổi bật là, đa số các doanh nghiệp FDI có cơng nghệ và
kỹ thuật cao hơn hoặc bằng các doanh nghiệp trong nước nên đã tạo sức ép
cạnh tranh trên thị trường, từ đó buộc các DN trong nước phải đầu tư đổi mới
công nghệ; lưu chuyển lao động từ DN FDI đến các DN trong nước; chuyển
giao công nghệ cho DN trong nước; liên kết giữa DN FDI và DN trong nước
để sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, việc tác động có các mức độ rất khác nhau

và tùy thuộc từng loại hình DN.
Một trong những tác động lớn nhất của dòng vốn FDI đến tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam là tác động đến việc di chuyển lao động và chuyển giao
công nghệ giữa DN FDI và DN trong nước. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho
thấy tác động này đã ít diễn ra. Nguyên nhân của nó là:
- Di chuyển lao động có tay nghề và kỹ thuật cao hiện nay chủ yếu diễn
ra trong nội bộ các DN FDI hơn là giữa DN FDI với các DN trong nước. Cụ
thể chỉ có 4,6% DN trong nước thuộc nhóm ngành chế biến thực phẩm cho biết
là có tiếp nhận lao động từ DN FDI. Lý do có thể là tiền lương của khu vực DN
FDI cao hơn nên DN trong nước chưa có sức hút đối với lao động tay nghề cao
từ các DN FDI.
Về kênh chuyển giao và phổ biến công nghệ giữa DN FDI và DN trong
nước cũng khơng hoặc ít diễn ra. Ngồi các ngun nhân khách quan như
khn khổ luật pháp về sở hữu trí tuệ chưa đầy đủ, hiệu lực thấp, cịn ngun
nhân chủ quan từ phía các DN trong nước.


19
Các DN trong nước phần lớn qui mơ cịn nhỏ, thiếu năng lực về tài
chính để thanh tốn các hợp đồng chuyển giao cơng nghệ, trình độ lao động
thấp, dẫn đến khả năng hấp thụ công nghệ thấp. Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ
lao động có kỹ năng của các DN trong nước thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ lao
động có kỹ năng của DN FDI.
Sức ép cạnh tranh có tác động hai mặt, thứ nhất làm đối thủ cạnh tranh
yếu hơn có nguy cơ bị thu hẹp thị phần, giảm sản xuất, thậm chí phải rút lui
khỏi thị trường. Đây là mặt tiêu cực của cạnh tranh. Tuy nhiên, cạnh tranh lại
kích thích các đối thủ tự đầu tư đổi mới để vươn lên đứng vững trên thị
trường, từ đó năng suất sản xuất được cải thiện.
Đó chính là tác động tích cực của FDI. Kết quả nghiên cứu cho thấy
các DN qui mô lớn, chậm đổi mới trang thiết bị sẽ bị tác động cạnh tranh

nhiều, cịn DN vừa và nhỏ dường như có lợi thế về tính linh hoạt nên tránh
được sức ép cạnh tranh hơn.
Vì vậy, để tận dụng tốt những lợi thế của FDI vào Việt Nam thì chính
sách khuyến khích FDI của Chính phủ và các địa phương cần hướng tới đạt
được cả tác động tích cực trực tiếp lẫn gián tiếp.
Những biện pháp có thể áp dụng như: hồn thiện thể chế phát triển thị
trường các yếu tố (đặc biệt là thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị
trường bất động sản, thị trường vốn...), đẩy mạnh cải cách DN nhà nước, thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhanh chóng hình thành hệ
thống DN phụ trợ để cùng với các DN FDI tạo nên những nhóm ngành có khả
năng cạnh tranh quốc tế.
1.1.3. Vai trị của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN có các vai trò chủ yếu đối với nước tiếp
nhận đầu tư trên các phương diện sau đây:
Thứ nhất, nó là bộ phận tạo nguồn vốn quan trọng cho đầu tư tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Đối với quốc gia đang phát triển thường có tỷ lệ tích lũy của nền kinh
tế chưa cao. Trong khi đó để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế thì biện


20
pháp quan trọng là phải tăng cường vốn đầu tư. Do vốn trong nước còn hạn
chế nên cần thu hút và huy động vốn thông qua ĐTNN. Hơn nữa, FDI cũng
tạo động lực thúc đẩy phát triển các ngành nghề, lĩnh vực, tạo ra thêm
nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư. Nhờ đó, nó kích thích các nguồn tiết kiệm
chuyển thành vốn đầu tư. Tuy nhiên, do bản chất động của nền kinh tế mà
ảnh hưởng của ĐTNN đối với mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ phát triển là rất
khác nhau.
Thông qua ĐTNN, vấn đề vốn của các quốc gia đã được giải quyết
đáng kể để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển y tế, giáo dục... Một số lĩnh vực

cơng nghiệp và khai thác địi hỏi phải có một khoản đầu tư tương đối lớn mà
do thiếu vốn đầu tư, các Chính phủ đã phải kêu gọi nguồn vốn đầu tư từ nước
ngồi. Trong các hình thái của ĐTNN, luồng vốn FDI là tương đối ổn định so
với các luồng vốn khác. Hơn nữa, điểm mạnh của FDI là không tạo ra nợ, lợi
nhuận được chuyển về nước chủ đầu tư chỉ khi một dự án đã có thu nhập hay
phần lợi nhuận này nhiều khi được tái đầu tư vào nước tiếp nhận. Tuy nhiên,
FDI được xem là nguồn tài trợ nước ngoài đắt hơn các nguồn khác. Mức lợi
nhuận của các cơng ty nước ngồi thường vượt mức lãi suất so với các khoản
vay nợ khác. Trong nhiều trường hợp, các công ty trong nước khơng thể triển
khai được dự án vì thiếu nguồn lực tài chính. Do đó, luồng vốn FDI ngày
càng có vai trò quan trọng đối với các nước tiếp nhận đầu tư.
Vai trò của ĐTNN đối với các nước đang phát triển (ĐPT) được xác
định rõ nét hơn trên hai khía cạnh của một vấn đề có quan hệ gắn bó với nhau
là tạo nguồn vốn đầu tư ban đầu cho các nước đang phát triển và từ đó có tác
động lan toả, như là đầu tầu thúc đẩy cả nền kinh tế phát triển. Đối với các
quốc gia đang phát triển, cụ thể như Việt Nam thì thường tỷ lệ tích lũy của
nền kinh tế chưa cao. Do đó, muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế thì
biện pháp quan trọng nhất và cần thực hiện ngay là phải tăng cường vốn đầu
tư phát triển toàn xã hội. Nguồn vốn quan trọng này được thực hiện thông qua
việc phát triển mạnh khu vực kinh tế có vốn ĐTNN.


21
Biểu đồ 1.1: FDI thực hiện so với tổng vốn đầu tư xã hội và % đóng góp của
FDI vào tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2001-2011

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Điều này được minh chứng qua số liệu thu hút FDI của nước ta. Tính
đến cuối năm 2011, cả nước thu hút được 13.667 dự án ĐTNN với tổng số
vốn đăng ký 198 tỉ USD. Đóng góp của FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội luôn

tăng qua từng giai đoạn. Năm 1990 chiếm tỷ trọng 13,1%, năm 1995 tăng lên
mức 32,3%. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2007, vốn FDI thực hiện chiếm
khoảng 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; năm 2011 vốn FDI thực hiện đạt trên
11 tỉ USD và đóng góp 25,9 % tổng vốn đầu tư tồn xã hội. Đồng thời FDI cũng
đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và
thực sự đưa khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trở thành bộ phận quan trọng của nền
kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% của khu vực kinh tế FDI trong GDP
giai đoạn 1991-1995, đã tăng lên 10,3% GDP giai đoạn 1996-2000 và 14,6%
giai đoạn 2001-2005. Trong các năm từ 2006 đến 2011khu vực kinh tế có vốn
ĐTNN đóng góp trung bình trên 18,41 % GDP cả nước [5;12].
Thứ hai, tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng thu
nhập cho người lao động.
ĐTNN cịn góp phần nâng cao tay nghề và giải quyết việc làm cho
người lao động. Không chỉ ở những nước đang phát triển, ngay cả ở những


22
nước phát triển thì vấn đề tạo việc làm cho người lao động luôn là vấn đề bức
xúc, là nguyện vọng của người lao động và là một trong những mục tiêu hàng
đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ở một số
quốc gia nhận đầu tư, một trong những điều kiện tiên quyết của việc tiếp nhận
ĐTNN là phải tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Các dự án ĐTNN sử
dụng nhiều lao động tại chỗ như các lĩnh vực trong công nghiệp chế biến, lắp
ráp ô tô, xe máy, điện tử... và các trung tâm thương mại, khách sạn, văn
phịng, các khu du lịch, vui chơi giải trí v.v... Một bộ phận lớn lao động trước
khi được nhận vào làm việc tại các KVKTCVĐTNN đã được đào tạo lại,
nâng cao tay nghề, tiếp cận với trình độ kỹ thuật và quản lý tiên tiến. Ở các
nước đang phát triển, thường KVKTCVĐTNN, có trình độ kỹ thuật - quản lý,
cơng nghệ cao hơn so với các khu vực khác nên không chỉ tạo thêm việc làm,
đem lại thu nhập cao cho người lao động mà thơng qua q trình làm việc,

người lao động cịn tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, học hỏi nâng cao
tay nghề. Như vậy, KVKTCVĐTNN không chỉ giải quyết được vấn đề việc
làm đối với một bộ phận đáng kể lao động của nước nhận đầu tư mà cịn góp
phần hình thành nên một đội ngũ lao động có đủ năng lực quản lý và kỹ thuật
để điều hành, thực hiện sản xuất kinh doanh trong một mơi trường mang tính
cạnh tranh cao.
KVKTCVĐTNN cịn tạo ra các việc làm gián tiếp thông qua phát triển
các cơ sở vệ tinh phục vụ cho các doanh nghiệp này. Theo kết quả điều tra của
Ngân hàng Thế giới (WB), tại Việt nam cứ 01 lao động trực tiếp sẽ tạo việc
làm cho khoảng 2 đến 3 lao động gián tiếp khác.. Ở nước ta, tính từ năm 1988
đến cuối năm 2011, trung bình hàng năm KVKTCVĐTNN đã tạo việc làm và
thu nhập ổn định cho 11,3 vạn lao động. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào
hoạt động của các doanh nghiệp KVKTCVĐTNN, nước ta đã từng bước hình
thành đội ngũ cán bộ quản lý, cơng nhân kỹ thuật có trình độ cao, có thể tiếp
cận, làm việc với khoa học kỹ thuật, công nghệ cao, nắm bắt các phương thức
kinh doanh , kinh nghiệm quản lý tiên tiến [12].


23
Thứ ba, là kênh thu hút và phát triển công nghệ mới
Trong xu hướng phát triển hiện nay, khoa học, công nghệ phát triển mạnh
mẽ và trở thành lực lượng vật chất trực tiếp quyết định sự phát triển của xã hội
loài người. Sức mạnh của mỗi quốc gia, giá trị của mỗi dân tộc đang được đo
chủ yếu bằng sức mạnh về kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại thì
việc phát triển KVKTCVĐTNN là chìa khóa để giúp các quốc gia nhận đầu tư
tiếp cận được với nền khoa học và công nghệ hiện đại. Các quốc gia sẽ học hỏi
được rất nhiều điều bổ ích, từ việc được làm quen với những trang thiết bị hiện
đại phục vụ cho sản xuất, đến những kinh nghiệm quản lý, quản trị hiệu quả...
góp phần giải quyết những bế tắc, yếu kém về kỹ thuật, tụt hậu về khoa học và
công nghệ, nhất là những nước đang phát triển. Ngoài ra, KVKTCVĐTNN cũng

làm cho nước nhận đầu tư học hỏi được những bí quyết kinh doanh của những
tập đồn kinh tế lớn, những cơng ty đa quốc gia, nâng cao trình độ quản lý, đổi
mới kỹ thuật và năng lực trong môi trường cạnh tranh quốc tế.
Tại các nước ĐPT, công nghệ trong nước thường là công nghệ cổ
truyền, lạc hậu, năng suất thấp. Do trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giáo
dục và khoa học ở trong nước kém, các nước ĐPT rất ít có khả năng phát triển
công nghệ mới, hiện đại và tiên tiến. Phần lớn các cơng nghệ mới, hiện đại có
được ở các nước ĐPT là công nghệ được đưa từ ngồi vào thơng qua các kênh
hoạt động kinh tế và khoa học kỹ thuật đối ngoại như ĐTNN, nhập khẩu công
nghệ, viện trợ và trao đổi khoa học, công nghệ.
Tại nước ta, nhìn chung trình độ cơng nghệ của KVKTCVĐTNN
thường cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến trong nuớc. Các doanh nghiêp
FDI thường áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ, hệ
thống quản lý hiện đại từ các cơng ty mẹ ở nước ngồi. Đặc biệt trong một số
ngành kinh tế quan trọng như viễn thơng, thăm dị và khai thác dầu khí, khai
thác khống sản, hóa chất, cơ khí chế tạo...phần lớn có sự đóng góp lớn của
KVKTCVĐTNN trong việc áp dụng các cơng nghệ tân tiến của nước ngồi.
Nhiều tập đồn lớn của thế giới trong lĩnh vực sử dụng công nghệ cao đã có


24
mặt ở Việt Nam như Ford, Intel (Mỹ), Canon, Panasonic, Ritech, Brothers,
Bridgestone (Nhật Bản)...
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã
thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ,
phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản
phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số
chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần
thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh
nghiệp cũng như điều khiển các quy trình cơng nghệ hiện đại.

Theo số liệu thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phịng, tính đến
cuối năm 2011, có khoảng trên 70% dự án có nội dung chuyển giao cơng
nghệ và 90% số hợp đồng chuyển giao công nghệ vào Việt Nam là thơng qua
KVKTCVĐTNN [38].
Thứ tư, góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
Ở các nước phát triển, sản phẩm xuất khẩu của các DN FDI thường có
khả năng cạnh tranh cao hơn so với các sản phẩm cùng loại của các DN trong
nước. Hơn nữa, các doanh nghiệp FDI cịn có lợi thế về quan hệ bạn hàng,
khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Do vậy, KVKTCVĐTNN đóng góp
đáng kể vào việc thúc đẩy và gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Những tỉ lệ mà ĐTNN đóng góp vào việc phát triển xuất khẩu cũng khá
lớn đối với nhiều nước đang phát triển, như theo số liệu của năm 2008, đối với
Xingapo chẳng hạn tỷ lệ đó là 72,1%, Braxin 37,2%, Mêhicơ 32,1%, Đài Loan
25,6%, Hàn Quốc 24,6%, Achentina 24,9%, Thái Lan 22,7%, Hồng Kông
16,5%, Côlumbia 14,4% [42].
Tại nước ta, điều này được thể hiện qua giá trị xuất khẩu của KVKT
CVĐTNN trong thời gian qua đã gia tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 19911995, tổng giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ USD, nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ
USD trong giai đoạn 1996-2000 (tăng gấp hơn 8 lần); giai đoạn (2001-2005)
giá trị xuất khẩu đạt hơn 34,6 tỷ USD tăng gấp hơn 3 lần so với thời kỳ


25
(1996-2000); Năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 54,46 tỉ USD, chiếm
59 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng 39,3% so với năm 2010, cao
hơn mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước (26,1%).
Chính sự tăng trưởng cao của xuất khẩu KVKTCVĐTNN đã góp phần đưa
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2011 của cả nước lên 33,3% [42].
Thứ năm, góp phần tăng năng suất lao động
Những tác động tích cực cơ bản nêu trên của KVKTCVĐTNN thực
chất đã góp phần tăng năng suất lao động của quốc gia nhận đầu tư ở mức rất

cao, qua đó mà hàng hố sản phẩm tạo ra cũng dồi dào phong phú, dần thoả
mãn đến mức tối ưu nhu cầu của người tiêu dùng. Hơn nữa, hàng hoá sản xuất
ra sẽ được quảng bá ra khắp thế giới nhờ chiến lược kinh doanh cũng như khả
năng dễ tiếp cận với người tiêu dùng khắp nơi nhờ uy tín của các cơng ty đầu
tư đa quốc gia đã có bề dày lịch sử phát triển trong nhiều năm. Do đó, tổng
sản phẩm hàng hố và dịch vụ của quốc gia tăng lên và tăng liên tục từ. Sự
quảng bá sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, trao đổi ngoại thương trên diện rộng
có một tác động rất tích cực trong việc tạo hình ảnh về đất nước, về con người
của quốc gia nhận đầu tư tới bạn bè trên khắp năm châu, đó là con đường dẫn
đến quốc tế hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Các doanh nghiệp FDI với sự tiến triển của mình đã tạo sức ép cạnh
tranh lên các doanh nghiệp trong nuớc theo hướng đổi mới công nghệ,
phương thức quản lý tiên tiến, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ và đồng
thời gây sức ép buộc chính quyền địa phương, nhà nước phải không ngừng
cải cách để phát triển quản lý điều hành kinh tế vĩ mô cho phù hợp với xu thế
phát triển chung.
Thứ sáu, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
theo hướng hợp lý và hiệu quả.
KVKTCVĐTNN đã góp phần khơng nhỏ trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Việt Nam. Do đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ, ĐTNN đã góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị công nghiệp và


×