NHỚ HOẠ SĨ MAI VĂN HIẾN
Sau này những khi về Hà Nội tôi thường thăm Hội và mỗi lần gặp ông ông
lại cười hóm hỉnh: “Kin lẩu á”. Có lần ông cùng các họa sĩ Trần Thức,
Huỳnh Văn Gấm lên Thái Nguyên công tác với Bảo tàng Việt Bắc, đến thăm
tôi ông cùng đoàn chọn tranh của tôi về triển lãm dân tộc tại Hà Nội gặp
nhau ông luôn đòi xem tranh và nhắc lại thời gian ông sống ở Tây Bắc, Việt
Bắc với bà con dân tộc - ông bảo: “Không gì sung sướng bằng được vẽ
những khuôn mặt, dáng vẻ hồn nhiên của các cô gái dân tộc. Tại các cuộc
triển lãm Hà Giang lần I, II ở Hà Nội (1972, 1974), tranh vẽ người dân tộc
của tôi cũng được Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia chọn mua 6 bức.
Năm 1974, tôi lại được Hội Mỹ thuật Việt Nam mời tham gia trại sáng tác
đầu tiên của Hội tại Triều Khúc (Hà Nội). ở đây tôi lần đầu được tiếp xúc
các họa sĩ lớn của Việt Nam như: HS Trần Văn Cẩn, HS Nguyễn Sáng, HS
Phạm Văn Đôn lúc các vị lên góp ý tranh các họa sĩ trên trại sáng tác.
Những đợt có mặt của ông - HS Mai Văn Hiến, tôi luôn nhớ nụ cười đôn hậu
và những câu pha trò hóm hỉnh của ông.
Họa sĩ Mai Văn Hiến sinh năm 1923 tại Đà Nẵng nhưng quê lại ở Mỹ Tho -
Tiền Giang. Từ nhỏ đã yêu mỹ thuật, nên năm 20 tuổi ông đã đỗ vào trường
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (khóa 1943 - 1945). Năm 1945, Cách
mạng tháng 8 bùng nổ, ông tham gia cách mạng bằng việc vẽ tranh tuyên
truyền cổ động; cuối năm 1945 ông cùng 3 họa sĩ khác là Nguyễn Đỗ Cung,
Nguyễn Huyến và Nguyễn Văn Khang được Chính phủ giao nhiệm vụ vẽ
những tờ giấy bạc đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1946 ông tham gia 3 tác phẩm Lồng Chim, Gốc dâu và Cửa sổ tại triển
lãm mỹ thuật tháng 8/1946 và được nhận giải thưởng của báo Cứu Quốc.
Thời gian đó ông là họa sĩ của báo Cứu Quốc. Tham gia nhiều chiến dịch
Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng Lào rồi chiến dịch Điện Biên Phủ nên ông có
rất nhiều ký họa về bộ đội, dân công làm tư liệu cho những sáng tác sau này
của ông.
Sau hòa bình 1956, ông giải ngũ với cấp bậc đại úy và về công tác tại Hội
Mỹ thuật Việt Nam, với cương vị ủy viên Thường trực Hội, ông góp phần tổ
chức nhiều cuộc triển lãm mỹ thuật của Hội trong và ngoài nước. Sau 1975
ông là Tổng biên tập tạp chí Mỹ thuật của Hội. Sau 1983 ông nghỉ hưu và
chính đây là thời gian ông sáng tác nhiều nhất các tác phẩm sơn dầu có khổ
lớn về đề tài quân đội, cách mạng mà các nhân vật thường là các anh lính Cụ
Hồ, các cô dân công ông ký họa được trên đường chiến dịch.
Tác phẩm hay được nhắc đến nhất của ông là Gặp nhau (bột màu - 1954),
đây là tác phẩm tiêu biểu của ông trong thời kỳ tham gia các chiến dịch
kháng chiến chống thực dân Pháp. Hai nhân vật chính trong đó dáng người
thiếu nữ dân công lại chính là cô gái dân tộc Thái nơi ông sống “3 cùng” với
dân trong thời kỳ đó, vì ông thường nhờ cô ngồi mẫu; tác phẩm đã đoạt giải
nhì khi tham gia triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1954.
Một số tác phẩm khác cũng khá xuất sắc như: Trước giờ ra thao trường -
(sơn dầu - 1958), Những lời dạy bảo (sơn dầu - 1958). Bướm dọc đường, Du
kích Đông Bắc (1989), Anh bộ đội Cụ Hồ với nhân dân Tây Bắc (1998)
cùng nhiều tranh sinh hoạt, chân dung và các tranh phong cảnh đất nước
Ông còn nhận nhiều giải thưởng Mỹ thuật của Hội như: Giải Nhất triển lãm
về đề tài Cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân (1989); Giải Ba Hội Mỹ
thuật Việt Nam (1995, 1999); Giải Ba Triển lãm Mỹ thuật Quân đội; Giải
nhì triển lãm Mỹ thuật về quân đội; rồi gần đây là giải thưởng Nhà nước về
Văn học nghệ thuật (2001) và nhiều Huân - Huy chương khác.
Nghe tin ông bị bạo bệnh và nằm liệt tại chỗ, chúng tôi thường đến thăm ông
(ở ngôi nhà 65 Nguyễn Thái Học) mỗi dịp ra Hà Nội. Thật xúc động luôn
thấy ông vẫn hóm hỉnh, tươi cười pha trò khi tôi gặp ông: “Kim lẩu hớ”
Tôi đã ký họa chân dung tặng ông.
Sáu tháng sau, ông đã vĩnh viễn ra đi để làm bạn với các tên tuổi lớn của nền
Mỹ thuật quốc gia như các cụ Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí,
Nguyễn Đỗ Cung Trong tay tôi còn có cả bức ký họa quý giá của họa sĩ
Văn Đa (khi họa sĩ Văn Đa đến thăm và vẽ ông) do nhà văn Đỗ Chu tặng và
bảo tôi: “Khi nào cậu có dịp viết bài trên Tạp chí Mỹ thuật thì gửi đăng cho
mọi người thưởng thức”
Ông ra đi rồi nhưng những tác phẩm vẽ bộ đội, dân công cùng cách sống lạc
quan, nụ cười hóm hỉnh luôn ghi nhớ mãi trong tôi.
Vi Quốc Hiệp