1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo qui định của Hiến pháp năm 1992, mơ hình tổ chức nhà nước ở
Việt Nam hiện nay gồm ba hệ thống cơ quan: Quốc hội, Chính phủ, Tồ án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân. Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo qui định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Uỷ ban
nhân dân (UBND) năm 2003, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên. Trong phạm vi thẩm quyền và chức năng của
mình, HĐND quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy
tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phịng, an ninh, khơng ngừng cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với nhà nước.
HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND,
UBND, Toà án nhân dân (TAND), Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng
cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
Trong những năm qua, HĐND tỉnh Hải Dương đã khẳng định vị trí, vai
trị là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Kết quả tích cực, nổi bật thể
hiện thơng qua hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban HĐND, các Tổ
đại biểu và cá nhân từng đại biểu ở mỗi vị trí, cương vị cơng tác. Các kỳ họp
HĐND với các nghị quyết được ban hành trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng thể hiện vai trò quyết định các vấn đề quan trọng tại
địa phương. Nhiều nghị quyết của HĐND tỉnh Hải Dương ban hành đã
nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi người dân
2
tham gia xây dựng chính quyền, là cơ sở quan trọng cho việc thực thi pháp
luật của các cơ quan nhà nước. Trong các kỳ họp, nhiều nội dung chất vấn
đã đi thẳng vào những vấn đề quan trọng, bức xúc mà cử tri và nhân dân
quan tâm. Nhiều đại biểu đã theo dõi và chất vấn đến cùng những vấn đề
mà thủ trưởng cơ quan nhà nước tiếp thu và thực hiện lời hứa sau kỳ họp.
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh đã thu được những kết quả nhất định.
Nhiều cuộc giám sát chuyên đề đã được tổ chức, qua giám sát HĐND tỉnh
đã phát hiện những sai phạm trong quản lý hành chính, trong thực hiện
chính sách pháp luật nhà nước. Nhiều kết luận, kiến nghị của đoàn giám sát
đã được chuyển thành nội dung của các nghị quyết HĐND tỉnh. Những kết
quả đó đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Hải Dương trong những năm qua.
Tuy nhiên, qua thực tế hoạt động của HĐND tỉnh Hải Dương vẫn còn
bộc lộ nhiều bất cập, chưa phát huy hết vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương. Biểu hiện cụ thể nhất là hoạt động của HĐND tỉnh nhìn chung
vẫn cịn mang tính hình thức, hiệu quả hoạt động chưa cao. Việc quyết định
các chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cịn thụ
động, biểu hiện dễ nhận thấy nhất là tình trạng vẫn còn một số nghị quyết của
HĐND tỉnh sau khi ban hành khơng hồn tồn phù hợp với thực tiễn đời sống;
có phần, có nội dung nhanh chóng bị lạc hậu so với yêu cầu thực tiễn, cá biệt
có nghị quyết ban hành thiếu cơ sở pháp lý làm ảnh hưởng không nhỏ đến sản
xuất và đời sống của nhân dân, v.v..
Hoạt động giám sát nhiều khi cịn hình thức, lúng túng, bị động; chất
lượng, kết quả giám sát không cao và chủ yếu dừng lại ở việc kiến nghị, chưa
giải quyết thoả đáng những bức xúc của nhân dân, nhiều vụ việc chưa đề xuất
được những giải pháp giải quyết. Hình thức giám sát nghe báo cáo là chính, ít
có điều kiện đi sâu thâm nhập thực tế, phân tích vấn đề để tìm ngun nhân,
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân. Đối với những yếu kém, tồn tại kiến nghị
cịn chung chung, thiếu cụ thể, thiếu tính khả thi. Hiệu lực sau giám sát chưa
3
cao, chế tài chưa đủ mạnh và có những lĩnh vực mặc dù được giám sát, chất
vấn nhiều lần nhưng việc khắc phục lại rất chậm (quản lý đất đai, vấn đề môi
trường trong các khu, cụm công nghiệp, v.v.). Nhiều kiến nghị qua giám sát
chưa được tập trung xem xét, giải quyết. Nội dung giám sát quá nhiều, dàn
trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm và nhiều khi vượt quá khả năng của HĐND
tỉnh. Phương pháp giám sát của HĐND tỉnh cịn nhiều bất cập. Chính vì vậy,
chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh nói chung ở Hải Dương nói riêng đến
nay chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Từ thực tế hoạt động của HĐND tỉnh Hải Dương, cũng như từ vị trí,
vai trị, chức năng, nhiệm vụ quan trọng của HĐND cấp tỉnh nói chung đối
với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của mỗi địa
phương cho thấy, chất lượng hoạt động của HĐND liên quan trực tiếp đến
việc quyền lực của nhân dân có được đảm bảo hay khơng, mọi quyền lực có
thuộc về nhân dân hay khơng? Vì vậy, việc nghiên cứu chất lượng hoạt động của
HĐND nói chung và HĐND tỉnh Hải Dương nói riêng là hết sức cần thiết nhằm
xác định những cơ sở lý luận và thực tiễn một cách khoa học cho việc nâng cao
chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh hiện nay.
Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đáp ứng
yêu cầu đưa Hải Dương phát triển nhanh, bền vững, tạo nền tảng để đến năm
2020 Hải Dương cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp như nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra [12], địi hỏi phải tiếp tục đổi mới hệ thống
chính trị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Xuất
phát từ những yêu cầu về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài
“Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương
hiện nay” làm luận văn thạc sĩ Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Câu hỏi tại sao hoạt động của HĐND cịn mang tính hình thức và hiệu
lực, hiệu quả không cao như sự mong đợi của nhân dân? Nguyên nhân do đâu
4
và giải pháp nào để có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Đã có những cơng trình dưới dạng đề tài
nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn và các bài đăng trên sách báo, tạp chí,
diễn đàn khoa học đề cập đến chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của HĐND.
Có thể nêu một số cơng trình nghiên cứu về HĐND theo nhóm như sau:
Các đề tài khoa học
- Đề tài KX.10-03, “Tiếp tục đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị ở
nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước và
chủ động hội nhập quốc tế”, năm 2003.
Các cuốn sách
- Đào Trí úc, Võ Khánh Vinh, Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2003.
- GS.TS. Hồng Chí Bảo (chủ biên) Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng
thơn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Trần Ngọc Đường, Cẩm nang thông tin về kỹ năng nghiệp vụ hoạt
động của đại biểu Hội đồng nhân dân và thành viên Ủy ban nhân dân các
cấp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004.
- Đặng Đình Tân (Chủ biên), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2006.
- Lê Minh Thông (chủ biên), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của
hệ thống chính trị trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
- Vũ Thị Loan, Một số vấn đề về bầu cử đại biểu HĐND ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
Các luận văn
- Bùi Mai Huyền, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND
thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ Luật học, thực hiện tại Học viện chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
5
- Hồ Thị Hưng, Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ Luật học, thực hiện tại Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006.
- Phạm Quang Hưng, Năng lực thực hiện chức năng giám sát của
HĐND tỉnh Hải Dương đối với quản lý hành chính nhà nước về đất đai, luận
văn thạc sĩ Luật học, thực hiện tại Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2007.
- Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh
trong thực hiện chức năng quyết định, luận văn thạc sĩ Luật học, thực hiện tại
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007.
- Vũ Hồng Bắc, Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh Thái
Nguyên hiện nay, luận văn thạc sĩ Chính trị học, thực hiện tại Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Lê Hồng Phúc, Hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh Bắc Ninh, luận
văn thạc sĩ Luật học, thực hiện tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh năm 2010.
Các bài viết trên tạp chí khoa học, bản tin khoa học
- Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND và UBND các cấp, đăng trên tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng 6/2002.
- Trương Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động của các ban của HĐND,
đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng 2/2003.
- Nguyễn Thị Hồi, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở nước ta
hiện nay, đăng trên tạp chí Luật học, số 1, 2004.
- Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2004-2009, đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005.
- Nguyễn Ký, Đổi mới phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân đáp
ứng sự mong đợi của nhân dân, đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước , số 6, 2005.
Các cơng trình trên nêu lên những vấn đề về tổ chức và hoạt động
của HĐND nói chung và HĐND các tỉnh cụ thể nói riêng. Trong đó có các
6
đề tài nghiên cứu dưới góc độ như: kiện tồn hệ thống tổ chức, bầu cử đại
biểu HĐND, hoạt động giám sát của HĐND, hoạt động ra quyết định của
HĐND, v.v.. Những đề tài nghiên cứu trên đã bàn trực tiếp đến vấn đề tổ chức
và hoạt động của cơ quan dân cử là HĐND, song cho đến nay chưa có cơng
trình nào đánh giá một cách tồn diện và đầy đủ chất lượng hoạt động của
HĐND tỉnh Hải Dương. Vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động của
HĐND cấp tỉnh ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng trên cơ
sở đó đề xuất các quan điểm, giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan, luận văn
đánh giá thực trạng hoạt động và xác định những quan điểm, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh Hải Dương hiện nay và những
năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được các mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
+ Khái quát các cơ sở lý luận (cơ sở chính trị - pháp lý) và thực tiễn về
HĐND cấp tỉnh và chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh ở Việt Nam,
trong đó có HĐND tỉnh Hải Dương hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng hoạt động của HĐND tỉnh Hải Dương hiện nay.
+ Xác định những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động của HĐND tỉnh Hải Dương hiện nay và những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của HĐND tỉnh Hải Dương
từ năm 2004 đến nay, gồm HĐND tỉnh Hải Dương khoá XIV (2004 - 2011)
và khoá XV (2011 - 2016).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của
7
Đảng và Nhà nước ta về tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung và
HĐND cấp tỉnh nói riêng hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: lịch sử, lơgíc, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra
xã hội học, phỏng vấn, v.v..
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Xác định những tiêu chí cần thiết và có thể làm cơ sở cho việc đánh
giá và nâng cao chất lượng hoạt động HĐND tỉnh Hải Dương nói riêng và ở
nước ta nói chung;
- Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà lãnh đạo, quản lý
trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử, nhất là HĐND cấp tỉnh ở địa
phương hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
HĐND và hoạt động của HĐND cấp tỉnh ở Hải Dương nói riêng và ở nước ta
hiện nay nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
VÀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.1.1. Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân
1.1.1.1. Hội đồng nhân dân
Theo qui định của Hiến pháp và pháp luật, trong hệ thống cơ cấu tổ
chức nhà nước ta, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan
đại diện của nhân dân địa phương. Cụ thể, Điều 119 - Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung 2001) và Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003:
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền đủ lớn cho HĐND, đảm bảo
HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
và quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng
của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phịng, an ninh, khơng ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị
quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương [47, tr.7].
Những quy định trên đây chỉ rõ vị trí, vai trị, chức năng của HĐND.
Theo đó, ở nước ta HĐND là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, là
9
cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân địa phương, là cơ quan duy nhất được
hình thành trên cơ sở kết quả bầu cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo
ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, bỏ phiếu kín. Các cơ quan nhà nước khác được
thành lập trên cơ sở cơ quan đại diện quyền lực nhà nước ở địa phương theo quy
định của pháp luật như: Thường trực HĐND, các Ban HĐND, UBND, các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND, v.v.. (Điều 51, Luật tổ chức HĐND và UBND).
Chính quyền địa phương có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và quản lý mọi mặt của đời sống nhân dân
địa phương về kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh - quốc phịng, là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân, trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Vì vậy, HĐND vừa đại diện cho nhân
dân địa phương, vừa đại diện cho quyền lực nhà nước cấp trên.
Trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế
hiện nay, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, về cơ bản là
nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và
HĐND cấp tỉnh nói riêng. Chúng ta đã và đang thực hiện sự phân cấp mạnh
mẽ cho địa phương, giao quyền chủ động cho các địa phương. Trong điều
kiện ấy, vai trò đại diện của HĐND cần được phát huy; HĐND phải thực sự
trở thành cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, có quyền quyết định
những vấn đề cụ thể của địa phương theo quy định của pháp luật.
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, tất cả các thành
viên đều do nhân dân bầu ra theo luật định; chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương, trước Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan nhà nước cấp trên.
Đây là mơ hình chính quyền địa phương đại diện theo chế độ dân cử, phù hợp
với bản chất nhà nước, hình thức nhà nước đơn nhất, các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam.
Tính chất quyền lực nhà nước của HĐND thể hiện qua việc HĐND có
quyền quyết định chủ trương, biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội của
10
địa phương; kiểm tra, giám sát việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật đối với
các cơ quan nhà nước khác ở địa phương, cán bộ công chức và công dân. Bên
cạnh đó, khác với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, HĐND là cơ quan
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. HĐND do
nhân dân trực tiếp bầu ra thông qua các cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu.
Hoạt động của đại biểu và HĐND phản ánh nguyện vọng của nhân dân thông
qua các cuộc tiếp xúc cử tri.
Với vai trị, vị trí như trên, HĐND có hai chức năng cơ bản đó là: Chức
năng quyết định và chức năng giám sát. Hai chức năng này được qui định tại
Điều 120 - Hiến pháp 1992 và tại Điều 1, Luật Tổ chức HĐND và UBND,
ngày 26/11/2003 với những nội dung cụ thể sau đây:
- Chức năng quyết định
Chức năng này được thực hiện thơng qua việc HĐND cấp tỉnh có thẩm
quyền ban hành các nghị quyết nhằm bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp, pháp luật ở địa phương, hoàn thành nhiệm vụ do cơ quan nhà
nước cấp trên giao, hoàn thành nghĩa vụ đối với cả nước và quyết định về các
biện pháp xây dựng địa phương vững mạnh trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội như: kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phịng, xây dựng chính quyền, ổn định
và nâng cao đời sống của nhân dân.
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này,
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định cụ thể nội dung những
vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm:
Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11).
Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hố, thơng tin, thể
dục, thể thao (Điều 12).
Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi
trường (Điều 13).
Quyết định về quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn xã hội (Điều 14).
Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tơn giáo (Điều 15).
11
Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16).
Quyết định về việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 17).
Có thể nói rằng, chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng, bao
gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, quốc
phòng, an ninh, v.v.. HĐND quyết định những vấn đề trên bằng việc ra nghị
quyết trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp, pháp luật nhưng đồng thời cũng phải phát
huy được tính chủ động, sáng tạo, vai trị làm chủ của nhân dân địa phương.
- Chức năng giám sát
Từ điển Hán-Việt, do Đào Duy Anh chủ biên, giải thích: “Giám sát là
xem xét và đàn hạch’’[1, tr.133]. Theo quan niệm này thì giám sát là xem xét,
kiểm tra, đồng thời đối tượng bị giám sát phải chịu sự chất vấn của chủ thể
giám sát. Còn Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý biên soạn cho rằng:
“Giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ” [64, tr.233].
Trong khoa học hành chính thì “Giám sát dùng để chỉ hoạt động của
các cơ quan quyền lực nhà nước, tịa án, các tổ chức xã hội và cơng dân nhằm
bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong quản lý xã hội” [63, tr.2].
Theo quan điểm này thì giám sát rất rộng, bao gồm hệ thống giám sát trong
nội bộ, bộ máy nhà nước và hệ thống giám sát nằm ngoài bộ máy nhà nước.
Theo GS.TSKH Đào Trí Úc thì giám sát là “phải đứng ngồi mà nhìn
nhận” khơng ở trong nội bộ của phân hệ trong cơ quan nhà nước. Sự giám sát
đó phải “có khả năng giám sát toàn bộ hệ thống quyền lực”, giám sát nằm
ngoài hệ thống của quyền lực nhà nước, nghĩa là giám sát xã hội đối với
quyền lực nhà nước. Việc giám sát đó: “phải có tính độc lập và phải bảo đảm
yêu cầu khách quan” [57, tr.7].
Mục đích của giám sát đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước: thứ
nhất là để bảo đảm quyền lực nhà nước thực hiện đúng mục đích, nhiệm vụ
chung, là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; thứ hai là để đảm bảo quyền
lực nhà nước được vận hành có hiệu quả và khoa học.
Theo tác giả, giám sát là theo dõi, xem xét và kiểm tra của chủ thể có
thẩm quyền thể hiện tính chủ động, liên tục, thường xuyên và tác động bằng
12
các biện pháp tích cực nhằm hướng hoạt của khách thể (đối tượng) thực hiện
đúng những điều đã quy định.
Từ thực tiễn đời sống chính trị - pháp lý cho thấy, hiện nay có hai hệ
thống giám sát khác nhau:
Thứ nhất, giám sát bên trong hệ thống bộ máy nhà nước (tự giám sát),
thể hiện tính quyền lực nhà nước. Giám sát bên trong của cơ quan quyền lực
nhà nước bao gồm giám sát của Quốc hội và HĐND đối với các cơ quan nhà
nước, giám sát của cơ quan hành chính trong hệ thống bộ máy hành chính nhà
nước, giám sát của cơ quan tư pháp trong hệ thống bộ máy của cơ quan tư
pháp, giám sát của những người quản lý trong các cơ quan nhà nước thực hiện
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, giám sát xã hội, là giám sát của các tổ chức, cá nhân khác
nhau như: giám sát của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; giám sát của công dân đối với các
cơ quan quyền lực nhà nước.
Trong cơng trình nghiên cứu này tác giả chỉ đề cập đến giám sát bên
trong hệ thống các cơ quan nhà nước, cụ thể là giám sát của HĐND cấp tỉnh.
Giám sát là chức năng quan trọng của HĐND nói chung và HĐND cấp
tỉnh nói riêng; công tác giám sát quyết định hiệu quả và hiệu lực hoạt động
của bộ máy nhà nước, trong đó có thiết chế HĐND. Đối trọng và giám sát lẫn
nhau là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền tư sản từ thế kỷ XVII-XVIII. Nhà nước pháp quyền tư sản hoạt động theo
nguyên tắc tam quyền phân lập, có sự phân chia rạch ròi giữa 03 quyền: lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Bên cạnh đó, ở các nước tư sản cịn có sự giám sát
hoạt động của các đảng phái đối lập và xã hội dân sự, cơ quan truyền thông nên
mọi hoạt động của Nhà nước và công chức đều bị kiểm soát hết sức chặt chẽ.
Khác với các nước tư sản, chế độ chính trị của chúng ta là nhất nguyên,
bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan
13
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, sự
giám sát của các cơ quan dân cử, trong đó có HĐND cấp tỉnh là hết sức cần
thiết, nó là cơ sở đảm bảo cho việc quyền lực được sử dụng đúng mục đích,
tránh sự tha hóa và lạm dụng quyền lực.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề giám sát, ngay từ những năm
đầu thành lập nước vấn đề này đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
quan tâm. Trong Sắc lệnh số 63/SL ngày 23/11/1945 về tổ chức chính quyền
địa phương, mặc dù không trực tiếp sử dụng khái niệm "giám sát" trong hoạt
động của HĐND, nhưng những quy định về thẩm quyền của HĐND cho thấy
chức năng giám sát của HĐND đã được đề cao. Về sau, vấn đề này đã được cụ
thể hóa trong Luật Tổ chức HĐND và UBND (năm 1983). Theo qui định của
luật này thì giám sát là một trong những chức năng quan trọng của HĐND.
Đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994, chức năng giám sát của
HĐND một lần nữa được quy định đầy đủ, cụ thể hơn. Đặc biệt, với sự ra đời
của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã đánh dấu một bước phát
triển mới về chức năng giám sát của HĐND cả về mặt lý luận và thực tiễn
hoạt động, nâng cao được vị thế và vai trò của HĐND hiện nay.
Chức năng giám sát của HĐND bao giờ cũng gắn liền với chức năng
quyết định những vấn đề quan trọng về kinh tế, xã hội của HĐND. Thực hiện
tốt chức năng này không những cho phép HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động
của các cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, các nghị
quyết của HĐND đã ban hành mà còn cho phép HĐND phát hiện được sự
không phù hợp, thiếu thực tế của các nghị quyết đó để sửa đổi, bổ sung.
Kết quả giám sát là căn cứ để HĐND thực hiện quyền bãi miễn, miễn
nhiệm các chức vụ chủ chốt (Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực
HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên của UBND, Trưởng Ban và
các thành viên của các Ban của HĐND, v.v.) hoặc sẽ là căn cứ để HĐND bãi
bỏ những quyết định sai trái của UBND ban hành, những nghị quyết sai trái
của HĐND cấp dưới trực tiếp.
14
HĐND giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết và các
nhiệm vụ nhà nước cấp trên giao cho địa phương thông qua việc xem xét các
báo cáo và ra nghị quyết về các báo cáo của Thường trực HĐND, UBND,
TAND, VKSND cùng cấp, thông qua hoạt động của đại biểu trong kỳ họp và
giữa các kỳ họp, đặc biệt là qua chất vấn của đại biểu trong các kỳ họp của
HĐND. Giám sát của HĐND tỉnh được thực hiện bởi Thường trực, các Ban
và của từng đại biểu HĐND.
1.1.1.2. Đại biểu Hội đồng nhân dân
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: Đại biểu HĐND
là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương
mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà
nước (Điều36).
Nhiệm kỳ của đại biểu Hội đồng nhân dân mỗi khoá bắt đầu từ kỳ họp
thứ nhất của Hội đồng nhân dân khố đó đến kỳ họp thứ nhất của Hội đồng
nhân dân khoá sau.
Đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu bổ sung bắt đầu làm nhiệm vụ
đại biểu từ kỳ họp sau cuộc bầu cử bổ sung đến kỳ họp thứ nhất của Hội đồng
nhân dân khoá sau (Điều37).
Như vậy, đại biểu HĐND là người đại diện cho cộng đồng dân cư trên
phạm vi địa giới hành chính. Người đại biểu HĐND với tư cách đại diện, họ
có thể đại diện cho tổ chức phụ nữ, thanh niên, nông dân, tôn giáo, v.v.. Đại
biểu HĐND là người thực hiện quyền lực nhân dân theo phương thức thay
mặt cử tri địa phương. Về thực chất quyền lực của đại biểu HĐND có được là
do nhân dân ủy quyền, nhân dân trao cho, vì vậy đại biểu HĐND có những
nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp
của HĐND, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND.
15
Đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri đơn vị bầu ra mình,
chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý
kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri
về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của
cử tri.
Sau mỗi kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND có trách nhiệm báo cáo với cử
tri về kết quả kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND, vận
động và cùng với nhân dân thực hiện các nghị quyết đó (Điều39).
Đại biểu HĐND nhận được yêu cầu kiến nghị của cử tri phải có trách
nhiệm trả lời cử tri. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của nhân dân, đại biểu
HĐND có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền
giải quyết, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết, đồng thời thông báo cho người
khiếu nại, tố cáo biết (Điều 40).
Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các
thành viên khác của UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện
KSND và Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp. Người bị
chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu HĐND chất vấn.
Trong thời gian HĐND họp, đại biểu HĐND gửi chất vấn đến Thường
trực HĐND cùng cấp. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND tại kỳ họp đó.
Trong trường hợp cần điều tra, xác minh thì HĐND có thể quyết định cho trả lời
tại kỳ họp sau của HĐND hoặc cho trả lời bằng văn bản gửi đến đại biểu đã chất
vấn và Thường trực HĐND. Trong thời gian giữa 2 kỳ họp HĐND, chất vấn của
đại biểu HĐND được gửi đến Thường trực HĐND cùng cấp để chuyển đến
người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn (Điều 41).
Đại biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm dứt những việc làm
trái pháp luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc
của cán bộ, công chức, nhân viên cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
16
Khi đại biểu HĐND yêu cầu gặp người phụ trách của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân thì người đó
có trách nhiệm tiếp.
Đại biểu HĐND có quyền kiến nghị HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do HĐND bầu (Điều 42).
Uỷ ban nhân dân các cấp, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ, công
chức ở địa phương, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm cung cấp tư liệu, thơng tin, bảo đảm nơi tiếp xúc cử tri và tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt
trận tạo điều kiện để đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri, thu thập ý kiến,
nguyện vọng và kiến nghị của nhân dân với Hội đồng nhân dân (Điều 43).
Đại biểu Hội đồng nhân dân nào khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân thì tuỳ mức độ phạm sai phạm mà bị Hội đồng nhân dân hoặc
cử tri bãi nhiệm.
Tóm lại: Đại biểu Hội đồng nhân dân phải có trình độ và kỹ năng nhất
định để có thể tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương như:
Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, v.v.. Có
bản lĩnh để tỏ rõ chính kiến của mình trong thảo luận và chất vấn tại các kỳ
họp HĐND. Đại biểu Hội đồng nhân dân phải đề cao trách nhiệm trước cử tri,
liên hệ mật thiết với cử tri, thật sự là cầu nối giữa cơ quan nhà nước và nhân
dân; nắm bắt kịp thời, phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với
cơ quan nhà nước đồng thời theo dõi, giám sát việc giải quyết, trả lời kiến
nghị của cử tri.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Là cấp trực tiếp với Trung ương, cấp tỉnh được xem như là hình ảnh thu
nhỏ của đất nước, có vai trị rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội
chung, là cầu nối giữa Trung ương và các địa phương. Theo Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003, Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005 quy
17
định cơ cấu tổ chức của HĐND cấp tỉnh gồm: Thường trực HĐND, các Ban
HĐND và các tổ đại biểu HĐND, theo đó:
1.1.2.1. Thường trực Hội đồng nhân dân
Thường trực HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra. Thường trực HĐND
cấp tỉnh gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Uỷ viên thường trực. Thành viên của
Thường trực HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp.
Kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực HĐND cấp tỉnh
phải được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Thường trực HĐND có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của HĐND; phối hợp với UBND
trong việc chuẩn bị kỳ họp của HĐND;
- Đôn đốc, kiểm tra UBND cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở
địa phương thực hiện các nghị quyết của HĐND;
- Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương;
- Điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban HĐND; xem xét kết quả
giám sát của các Ban HĐND khi cần thiết và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần
nhất; giữ mối liên hệ với đại biểu HĐND; tổng hợp chất vấn của đại biểu để
báo cáo HĐND;
- Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để
báo cáo tại kỳ họp HĐND;
- Phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực
HĐND cấp huyện;
- Trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp
hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND;
- Phối hợp với UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc đưa ra cử tri
bãi nhiệm đại biểu HĐND theo đề nghị của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
18
- Báo cáo về hoạt động của HĐND cấp mình lên Uỷ ban thường vụ
Quốc hội và Chính phủ;
- Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban thường trực Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; mỗi năm hai lần thông báo cho Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của HĐND.
1.1.2.2. Các Ban Hội đồng nhân dân
HĐND cấp tỉnh thành lập ba Ban: Ban kinh tế và ngân sách, Ban văn
hoá - xã hội, Ban pháp chế; nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban
dân tộc.
Số lượng thành viên của mỗi Ban do HĐND cùng cấp quyết định.
Thành viên của các Ban HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND
cùng cấp. Trưởng Ban HĐND không thể đồng thời là Thủ trưởng cơ quan
chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp.
Các Ban HĐND có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của HĐND;
- Thẩm tra các báo cáo, đề án do HĐND hoặc Thường trực HĐND
phân công;
- Giúp HĐND giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND, hoạt động của TAND, VKSND cùng cấp;
- Giúp HĐND giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
Trong khi thi hành nhiệm vụ, các Ban HĐND có quyền yêu cầu
UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, TAND, VKSND cùng cấp, cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương cung cấp những
thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Các cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của các Ban HĐND;
- Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với Thường trực HĐND khi cần thiết.
19
Kinh phí hoạt động của HĐND do HĐND quyết định và ghi vào ngân
sách địa phương theo quy định của pháp luật.
1.1.2.3. Các Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân
Các đại biểu HĐND được bầu ở một hoặc nhiều đơn vị bầu cử hợp thành
Tổ đại biểu HĐND. Số lượng, danh sách thành viên, Tổ trưởng và Phó Tổ
trưởng của Tổ đại biểu HĐND do Thường trực HĐND cùng cấp quyết định.
Tổ trưởng điều hành công việc của Tổ đại biểu HĐND, Phó Tổ trưởng
giúp Tổ trưởng thực hiện những việc được phân công.
Khi đại biểu HĐND chuyển công tác hoặc nơi cư trú đến địa phương
khác trong cùng đơn vị hành chính cấp đại biểu được bầu, đại biểu đó có thể
chuyển sinh hoạt đến Tổ đại biểu HĐND nơi mình cơng tác hoặc cư trú. Đại
biểu HĐND gửi đơn chuyển sinh hoạt Tổ tới Thường trực HĐND. Thường
trực HĐND quyết định việc chuyển sinh hoạt Tổ của đại biểu và thông báo tới
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, Tổ đại biểu HĐND nơi đại biểu
chuyển đi và nơi đại biểu chuyển đến sinh hoạt.
Tổ đại biểu HĐND họp ít nhất mỗi quý một lần để bàn kế hoạch công
tác, phân công đại biểu tiếp dân, tổ chức nghiên cứu pháp luật, chính sách của
Nhà nước. Thành viên Tổ đại biểu HĐND có trách nhiệm tham dự đầy đủ các
cuộc họp của Tổ đại biểu, trong trường hợp khơng thể tham dự được thì phải
báo cáo với Tổ trưởng.
Trước kỳ họp HĐND, Tổ đại biểu họp để nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị
đóng góp ý kiến cho kỳ họp; tổ chức cho đại biểu tiếp xúc cử tri, thu thập ý kiến
và nguyện vọng của cử tri. Sau kỳ họp HĐND, Tổ đại biểu tổ chức để các đại
biểu tiếp xúc, báo cáo với cử tri về kết quả kỳ họp.
Trong hệ thống các cấp HĐND ở địa phương, HĐND cấp tỉnh có cơ
cấu tổ chức bộ máy hoàn chỉnh nhất. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
trong việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức HĐND cấp tỉnh xuất phát từ chính
vai trị quan trọng của HĐND cấp tỉnh, được quy định bởi nhiệm vụ, quyền
hạn của HĐND cấp tỉnh.
20
Sau khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và năm 2001, Luật Tổ
chức HĐND và UBND cũng được sửa đổi, bổ sung năm 2003, trong đó quy
định rõ cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND các
cấp. Tiếp đó, các quy định này được cụ thể hóa trong Quy chế hoạt động của
HĐND năm 2005. Theo đó: về chức năng quyết định, Luật đã qui định cụ thể
các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND cấp tỉnh; về chức năng
giám sát, Luật cũng đã qui định nội dung, hình thức và hiệu quả pháp lý của
việc giám sát; Luật cũng quy định mối quan hệ giữa Thường trực HĐND, các
Ban HĐND với UBND và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của HĐND.
Những quy định về thẩm quyền, chức năng của HĐND cấp tỉnh đã được ghi
nhận trong Hiến pháp, Luật và Quy chế hoạt động góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND. Điều này đã đánh dấu bước
phát triển trong nhận thức về HĐND cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương, góp phần quan trọng nâng cao vị thế của HĐND trong hệ thống cơ
quan nhà nước.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT
LƯỢNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA HĐND CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.2.1. Khái niệm chất lượng hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh
Chất lượng là khái niệm phổ biến, thường được sử dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, chất lượng cũng là một khái
niệm gây nhiều tranh cãi. Tùy theo đối tượng sử dụng, từ “chất lượng” có ý
nghĩa khác nhau.
Việc xác định chất lượng hoạt động của một chủ thể cụ thể là việc làm
không đơn giản cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chất lượng được hiểu là kết
quả như yêu cầu của việc làm mang lại. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa "Chất
lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự
việc” [34, tr.96].
Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm nào
21
đó mà khơng được nhu cầu chấp nhận thì sản phẩm đó bị coi là kém chất
lượng - đây là khái niệm then chốt, là cơ sở để các nhà lãnh đạo hoạch định
chính sách, chiến lược. Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu mà nhu
cầu luôn luôn biến động nên chất lượng luôn biến động theo thời gian, không
gian và điều kiện. Khi đánh giá chất lượng ta phải xem xét đến mọi đặc tính của
đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn nhu cầu cụ thể, ví dụ nhu cầu mang tính
pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội, v.v... Chất lượng là kết quả thực của
việc làm mang lại, cụ thể là kết quả trên thực tế do một công việc cụ thể nào đó
mang lại, trên cơ sở có sự so sánh với những chi phí đã bỏ ra để thực hiện.
Trong lĩnh vực xã hội, chất lượng thường gắn với hiệu quả, thường
được xem là sự so sánh giữa kết quả trước và sau khi tiến hành một hoạt
động, giữa kết quả đã có và kết quả dự định sẽ có; giữa kết quả đạt được và
mục đích. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chất lượng hiệu quả thường
được đồng nhất với những kết quả đạt được về sự hài lòng, về lợi nhuận,
thương hiệu, mở rộng thị trường, v.v.. chất lượng thường được tính tốn chi
tiết, cụ thể thơng qua việc trừ đi các chi phí về nguyên liệu, tài chính, lao
động, v.v.. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, chất lượng cũng như hiệu quả là
kết quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước trên các mặt cơng tác có
sự đối chiếu, so sánh với các khoản kinh phí bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Chất lượng cũng như hiệu quả của pháp luật là kết quả thực tế đạt được do sự
điều chỉnh, tác động của pháp luật mang lại trong những phạm vi và điều kiện
nhất định, biểu hiện ở trạng thái của các quan hệ xã hội, phù hợp với những
mục đích, yêu cầu và định hướng của pháp luật với mức chi phí thấp.
Các cách tiếp cận về chất lượng hiệu quả thường lấy sự so sánh giữa
“đầu vào” và “đầu ra” để đánh giá. Trong nghiên cứu này, theo tác giả thì chất
lượng cũng như hiệu quả là sự so sánh dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả
thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để
đạt được những kết quả đó trong những điều kiện cụ thể.
Việc xác định chất lượng một hoạt động kinh tế thường cho chúng ta
22
những con số chính xác và cụ thể, nhưng với bất kỳ hoạt động chính trị - xã
hội nào thì để tính được chất lượng hiệu quả là hết sức khó khăn và phức tạp.
Bởi, loại hoạt động này chủ yếu mang tính chất định tính chứ khơng phải định
lượng. Mặt khác, hoạt động này mang tính cơng quyền, nó khơng theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận mà trước hết nó phải đảm bảo các lợi ích cơng, tuy nhiên
cũng cần phải chú ý đến việc so sánh chi phí và kết quả đạt được.
Do đó, cách tính chất lượng của hoạt động chính trị - xã hội tốt nhất
chúng ta phải vận dụng phương pháp tính chất lượng kinh tế; phải kết hợp
giữa định tính và định lượng. Theo cách tiếp cận này, chất lượng có thể hiểu
là chỉ số so sánh giữa kết quả thu về với chi phí, cơng sức bỏ ra.
Với cách tiếp cận ở góc độ chung như trên, thì chất lượng hiệu quả hoạt
động của HĐND cấp tỉnh được xem xét dưới các góc độ sau:
- Thứ nhất, chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh được xác định
trên cơ sở mối tương quan với mục đích, u cầu hoạt động của HĐND cấp
tỉnh. Đó là sự đáp ứng các chuẩn mực, yêu cầu mà hoạt động của HĐND tỉnh
đặt ra. Hay nói một cách khác, chất lượng hiệu quả hoạt động của HĐND cấp
tỉnh được xác định trên cơ sở tuân theo đúng thẩm quyền, thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ theo qui định của pháp luật.
- Thứ hai, chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh được thể hiện ở
kết quả hoạt động của HĐND tỉnh trong thực tiễn so với chi phí bỏ ra. Chất
lượng hoạt động của HĐND tỉnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mức độ
hồn thiện, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; tính hợp lý trong tổ chức bộ
máy; năng lực của đội ngũ đại biểu. Trong đó, nhân tố nguồn nhân lực, mà ở đây
cụ thể là năng lực của đội ngũ đại biểu HĐND tỉnh giữ một vai trò hết sức quan
trọng, tác động trực tiếp đến chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh.
Chất lượng của hoạt động của HĐND tỉnh được đo bằng mức độ đạt
được của mục đích hoạt động của HĐND tỉnh, nó được biểu hiện bằng những
đánh giá chung nhất, khái quát nhất của xã hội đối với hoạt của HĐND tỉnh.
Cụ thể hơn, đó chính là khả năng tạo ra được những chuyển động tích cực về
23
các mặt kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phịng, góp phần nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, đưa địa phương phát triển. Chất lượng hoạt
động của HĐND thể hiện trong chất lượng các kỳ họp; chất lượng các nghị
quyết, quyết định vấn đề quan trọng của địa phương; chất lượng hoạt động giám
sát có phát huy hiệu quả trong thực tế. Ngược lại, hoạt động của HĐND sẽ
không đạt chất lượng nếu như khơng đưa lại những kết quả tích cực về kinh tế xã hội của địa phương, không phản ánh và giải quyết được những vấn đề bức
xúc của địa phương; chi phí giành cho hoạt động của HĐND quá nhiều. Theo
Điều 8, Luật Tổ chức HĐND và UBND thì hiệu quả hoạt động của HĐND được
bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp HĐND, hiệu quả hoạt động của Thường
trực HĐND, UBND, các Ban của HĐND và của các đại biểu HĐND.
Từ những phân tích trên và từ vị trí, vai trị, chức năng của HĐND thì
chất lượng hoạt động của HĐND được hiểu là kết quả hoạt động đem lại phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra với những chi phí hợp lí về thời
gian, trí lực, vật lực, nhân lực, v,v.. phục vụ hoạt động của HĐND.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
Muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh thì
cần phải xác định rõ tiêu chí để làm căn cứ đánh giá chất lượng hoạt động,
trên cơ sở đó hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Tiêu chí được hiểu là những đặc trưng, dấu hiệu, làm cơ sở, làm căn cứ để
xem xét, xếp loại các sự vật, hiện tượng. Tiêu chí là cơ sở để xác định những tính
chất, dấu hiệu, tiêu biểu nhờ đó để phân biệt các sự vật và hiện tượng.
Tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh là những
đặc trưng, dấu hiệu về chủ thể, nội dung, phạm vi, hình thức, trình tự, thủ tục
làm căn cứ để đánh giá chất lượng; nó có thể được xem xét trên các khía cạnh
cụ thể sau:
1.2.2.1. Mức độ dân chủ trong hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh
24
Dân chủ là tiêu chí quan trọng để đánh giá bản chất của chế độ nhà
nước mà HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước địa phương, cơ quan đại diện
cho nhân dân địa phương - một hình thức thực hiện dân chủ gián tiếp. Chúng
ta xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
thì quyền lực nhà nước phải thực sự thuộc về nhân dân. HĐND là cơ quan đại
diện cho nhân dân; hoạt động của HĐND phải đảm bảo dân chủ. Quyền lực
của HĐND xét về bản chất là quyền lực do nhân dân ủy quyền, hoạt động của
HĐND chỉ được gọi là hiệu quả khi nó phản ánh được nguyện vọng của nhân
dân, đảm bảo được quyền làm chủ của nhân dân. Hay nói cách khác, đảm bảo
dân chủ là yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực của nhân dân được sử
dụng đúng mục đích, khơng xảy ra tình trạng lạm quyền, chuyên quyền.
Trong tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh việc đảm bảo dân chủ là
yêu cầu hết sức quan trọng. Đảm bảo dân chủ là nguyên tắc hoạt động của bộ
máy nhà nước nói chung và HĐND nói riêng, nó thể hiện bản chất của chế độ
chính trị. Chỉ khi đảm bảo được tính dân chủ trong các quyết định chính sách,
trong tổ chức bộ máy và hoạt động thì mới tạo ra được sự đồng thuận xã hội một trong những điều kiện căn bản nhất để hoạt động của HĐND cấp tỉnh đạt
chất lượng hiệu quả trong thực tế.
HĐND tỉnh là cơ quan dân cử, cũng như các cơ quan dân cử khác, chủ
yếu hoạt động theo phương thức thảo luận, tranh luận dân chủ; khi quyết định
hay thông qua một quyết định nào đó thường lấy nguyên tắc tập trung dân chủ
làm căn cứ. Theo đó, quyết định của đa số đại biểu ln ln có ý nghĩa quyết
định. Khác với cơ quan hành chính nhà nước hay cơ quan tư pháp, trong
HĐND vị trí, vai trị và quyết định của cá nhân đại biểu có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Đại biểu HĐND thường đại diện cho khối cử tri bầu ra họ khi thảo
luận và quyết định một vấn đề nào đó. Do vậy, dân chủ trong hoạt động của
HĐND thể hiện tập trung chất lượng hoạt động của cơ quan dân cử, cơ quan
quyền lực này của nhân dân.
Dân chủ với tính cách là một tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động
25
của HĐND, ở đây là HĐND tỉnh, thể hiện ở mức độ tham gia của các đại biểu
trong các hoạt động, các quyết định của HĐND tỉnh. Đại biểu, tổ đại biểu, các
ban của HĐND có được thể hiện và thể hiện hết ý kiến của mình trong các sinh
hoạt của HĐND hay không. Trong điều kiện một Đảng lãnh đạo, Tỉnh ủy lãnh
đạo HĐND, UBND tỉnh là cơ quan thực hiện các quyết định của HĐND - nhưng
các cơ quan này trong thực tế quyền lực là rất lớn, thì HĐND và đại biểu HĐND
có thực hiện đúng được quyền lực của mình hay khơng cũng thể hiện mức độ
dân chủ trong hoạt động của HĐND. HĐND có ý kiến, "chính kiến", "độc lập"
của mình khơng, có làm đúng quyền hạn và trách nhiệm là cơ quan quyền lực
của nhân dân hay không, v.v. cũng là thước đo mức độ dân chủ trong HĐND.
Mức độ tham gia của đại biểu, tổ đại biểu và các ban của HĐND tỉnh lại thể hiện
ở số lượng, chất lượng và hiệu quả của các ý kiến do họ đưa ra đối với các quyết
định của HĐND tỉnh. Hơn nữa, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cấp
trung gian giữa Trung ương và địa phương, HĐND tỉnh thường mang tính quan
liêu nhiều hơn HĐND huyện cho nên yêu cầu dân chủ trong hoạt động của cơ
quan này là rất lớn. Dân chủ trong hoạt động của HĐND là biểu hiện tập trung
của dân chủ hay là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Tính
dân chủ trong hoạt động của HĐND càng cao càng phản ánh đầy đủ quyền hạn
và trách nhiệm của cơ quan quyền lực của nhân dân.
1.2.2.2. Mức độ hiệu lực, hiệu quả của các quyết định phát triển kinh
tế - xã hội của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hiệu lực, hiệu quả của các quyết định (nghị quyết) của HĐND cấp tỉnh
về phát triển kinh tế - xã hội là tiêu chí quan trọng để đánh giá kết quả hoạt
động của HĐND cấp tỉnh. Chất lượng hiệu quả thông thường chú ý đến hiệu
quả kinh tế, nghĩa là so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để thu lại
kết quả mong muốn, chi phí bỏ ra ít hơn và kết quả đạt được cao hơn. Chất
lượng hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh khơng chỉ đơn thuần tính tốn
định lượng được, vì hoạt động này tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội trong tiến trình thực thi quyền lực nhà nước.