Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Hoạt động từ thiện xã hội của phật giáo ở đồng nai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.02 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, với Phật giáo, trong từng thời
điểm phát triển của đất nước đều chiếm một vị thế và có vai trị nhất định trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Có thể nói
rằng, Phật giáo là một tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, luôn gắn bó với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với phương châm nhập thế, gắn kết
đạo và đời, phấn đấu thực hiện tâm niệm mang lại hạnh phúc an vui cho con
người. Ngay từ buổi đầu du nhập, với tư tưởng từ, bi, hỷ, xả, Phật giáo luôn
nhận được sự đồng thuận của người dân Việt Nam.
Tư tưởng, triết lý Phật giáo đã, đang và sẽ còn tác động đến nhiều mặt
của đời sống xã hội, ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tinh thần, tình cảm, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam. Giáo lý Phật
giáo mang đậm giá trị nhân văn sâu sắc, có tác dụng giáo dục con người lịng
nhân ái, vị tha, hịa hợp, loại bỏ ốn thù, coi trọng bình đẳng và tiến bộ xã hội,
hướng thiện, làm phong phú thêm kho tàng văn hóa người Việt.
Phật giáo ở Đồng Nai với hơn 310 năm du nhập và phát triển đến nay,
tồn tỉnh hiện có 574 cơ sở thờ tự, hơn 650 am, cốc, 5.600 tu sỹ, nhà tu hành
và 698.000 Phật tử, phân bố trên 171/171 xã, phường, thị trấn. Phật giáo
Đồng Nai đã tích cực thực hiện các hoạt động từ thiện xã hội từ khi du nhập
đến nay, nhưng nổi bật và hoạt động có tính tổ chức, hệ thống nhất là trong
hơn 30 năm trở lại đây, hoạt động này được Ban Từ thiện xã hội tỉnh Hội Phật
giáo Đồng Nai quan tâm, tổ chức thực hiện bằng nhiều phương thức hoạt
động thiết thực, góp phần cùng thực hiện thành cơng mục tiêu “Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Phật giáo Đồng Nai nhìn chung, hoạt động theo đúng đường hướng
“Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa Xã hội” và trong hoạt động từ thiện xã hội


2


với mục đích cứu khổ, độ sinh, vận động cứu trợ nhân đạo, góp phần làm
giảm bớt gánh nặng cho xã hội và tạo nên những thành tựu kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phịng của tỉnh.
Tích cực góp phần cùng các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương giải
quyết, hỗ trợ kịp thời các trường hợp trong và ngoài tỉnh, nước bạn về những
vấn đề an sinh xã hội cấp thiết như: vận động các nhà hảo tâm, mạnh thường
quân, Phật tử cứu tế,… về tiền của, vật lực để giúp đỡ các gia đình Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, gia đình thương binh liệt sỹ, gia đình có cơng với cách mạng
đang gặp khó khăn về đời sống nói chung và giúp cho những mảnh đời kém
may mắn, hộ nghèo, nạn nhân chất độc da cam, người già neo đơn, trẻ em mồ
côi, bệnh tật không nơi nương tựa, nhân dân các vùng bị thiên tai lũ lụt cả
trong và ngồi nước, xã hội hóa giao thơng nơng thôn, lĩnh vực y tế, giáo dục,
… và làm một số hoạt động từ thiện xã hội khác.
Từ sau đổi mới năm 1986, đời sống nhân dân Đồng Nai vẫn cịn nhiều
khó khăn do một số ngun nhân như: ảnh hưởng của tồn cầu hóa nói chung,
ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu, tình trạng nhập cư tăng nhanh, sự phân
hóa giàu nghèo,... Các tơn giáo trên tồn tỉnh nói chung đều thực hiện tinh
thần bác ái, từ thiện, trong đó Phật giáo vốn giáo lý căn bản là cứu khổ, cứu
nạn, giúp đỡ người khó khăn, hoạn nạn luôn được xem là nguyên lý “Phụng
sự chúng sinh là cúng dường Chư Phật”, nên việc phát huy tinh thần nhập thế
cứu đời, tuân thủ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là
trong thời gian gần đây.
Hiện nay, số lượng phật tử Đồng Nai đứng thứ hai sau Cơng giáo,
nhưng có số lượng chức sắc lại chiếm tỷ lệ khá cao, so với các tôn giáo hiện
có trên địa bàn tỉnh, với hơn 5.600 tu sỹ, nhà tu hành, đây là lực lượng hùng
hậu và có nhiệt huyết trong hoạt động từ thiện xã hội. Với tính chất và nhu
cầu cấp thiết, Đồng Nai cần có một lực lượng làm cơng tác an sinh xã hội
ngồi Nhà nước, để cùng chung tay thực hiện nhiệm vụ này. Đặc biệt, Đồng



3
Nai chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu cụ thể nào về vấn đề Phật
giáo đối với hoạt động từ thiện xã hội. Tuy nhiên, vấn đề này cũng đã được
đề cập, nhưng cũng mới chỉ ở dạng báo cáo tổng kết chuyên đề, báo cáo
từng nhiệm kỳ, báo cáo năm của Ban từ thiện xã hội tỉnh Hội Phật giáo
Đồng Nai, bài viết,…để đưa ra những vấn đề chung và định hướng trong
q trình hoạt động.
Có thể nói rằng, hoạt động thiện nguyện của Phật giáo ở Đồng Nai là
bàn tay liên đới của Nhà nước, để hỗ trợ và góp phần làm tốt cơng tác an sinh
xã hội nói chung, đây là một việc làm mang ý nghĩa thiết thực, cần phải có
định hướng, hỗ trợ để phát huy vai trò của Phật giáo Đồng Nai, nhằm thực
hiện tốt hơn nữa hoạt động này trong thời gian tới, cùng với cả hệ thống chính
trị, chính quyền các cấp chăm lo cho các đối tượng xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, đóng góp đã đạt được, hoạt động từ
thiện xã hội của Phật giáo ở Đồng Nai cũng đang đặt ra một số vấn đề cần quan
tâm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung và tỉnh Hội Phật giáo Đồng Nai
nói riêng, cũng như từ phía các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến địa phương
đối với hoạt động này trong thời điểm hiện nay và trong những năm tiếp theo.
Đứng trước tình hình chung về khủng hoảng kinh tế tồn cầu và khu vực
hiện nay, Đồng Nai hiện có tỷ lệ tăng dân số nhanh, do q trình đơ thị hóa và
làn sóng di cư của người dân lao động nghèo ở các tỉnh phía Bắc, vào làm cơng
nhân tại các khu cơng nghiệp tập trung. Tình hình nơng dân sản xuất nông
nghiệp thường xuyên bị ảnh hưởng bởi sự biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,
… đời sống của người dân nhìn chung ngày một khó khăn.
Do đó, xuất phát từ những vấn đề trên, cần phải đặt ra một số vấn đề liên
quan, cần sự tập trung chỉ đạo của Đảng, chính quyền các cấp trong tồn tỉnh, để
vừa phát huy tinh thần vì cộng đồng, tính tương thân tương ái của Phật giáo và
các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi
lợi dụng của các thế lực thù địch, thông qua hoạt động từ thiện để chống phá
Đảng ta trên mặt trận tôn giáo.



4
Từ nhận thức được tính cấp thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn
như vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo
ở Đồng Nai hiện nay” làm đề tài Luận văn thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua quá trình tìm hiểu cho thấy, hiện nay trong cả nước đã có rất nhiều
đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến hoạt động từ thiện xã hội của
Phật giáo, trên phương diện lý luận và thực tiễn, riêng đối với tỉnh Đồng Nai
tuy có nhưng cịn hạn chế, cụ thể:
Biên Hịa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nhà xuất bản
Đồng Nai năm 1998 (in lần thứ II có sửa chữa và bổ sung). Cuốn sách nêu tình
hình tổng quan quá trình hình thành và phát triển trên các phương diện chung
của tỉnh Đồng Nai, trong đó có đề cập đến tình hình Phật giáo Đồng Nai với
hoạt động từ thiện xã hội.
Phật giáo và vấn đề hộ Quốc an dân, (2010) của Hịa thượng Thích Giác
Quang (Quan Âm tu viện, tỉnh Đồng Nai), bàn về các vấn đề có liên quan đến
cơng tác cứu độ chúng sinh, làm từ thiện.
Đạo Phật Việt Nam, tác giả Thích Đức Nghiệp, Nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh, ấn hành năm 1995. Cuốn sách bàn về Phật giáo Việt Nam, trong
đó có đề cập đến giáo lý có nội dung Bố thí.
Tám quyển sách quý, tác giả Thích Thiện Hoa, Thành hội Phật giáo Thành
phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1992. Cuốn sách có nêu định nghĩa về từ, bi, hỷ,
xả, tính chất từ, bi, hỷ, xã trong giáo lý của Phật giáo và việc tu dưỡng tâm tính, là
nguồn gốc tạo nên sự thúc đẩy trong việc làm từ thiện của Phật giáo ngày nay.
Tìm hiểu đạo Phật của Khantipàlo (do Thích Chơn Thiện dịch), do Viện
nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản năm 1990. Cuốn sách có bàn về hạnh
bố thí của Phật giáo và khơng chờ đợi sự đền đáp khi bố thí.
Bộ Phật học phổ thơng, của Thích Thiện Hoa, Nhà xuất bản khoa học xã

hội năm 1992. Cuốn sách có bàn về vấn đề hạnh bố thí, lịng từ bi phải được
thể hiện trong sự bố thí, tác giả cịn nhấn mạnh đến phương pháp và cách thức
thực hành bố thí theo tinh thần của Phật giáo.


5
Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy Hinh, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội năm 1999. Cuốn sách có bàn về hình thức bố thí của Phật giáo
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Đạo Phật ngày nay, do Trần Tuấn Mẫn dịch, Viện Nghiên cứu Phật học
Việt Nam, xuất bản năm 1997. Tác giả nêu vấn đề đạo đức học Phật giáo, khuyên
con người sống “tốt đời, đẹp đạo” đây là hạnh nguyện vĩ đại thể hiện cụ thể lịng
từ bi, vơ ngã, vị tha và cứu khổ, độ sinh cho tất cả mọi người và chúng sinh.
Bước đầu học phật, do Hịa thượng Thích Thanh Từ, Nhà xuất bản Tôn
giáo ấn hành năm 2005. Nội dung cuốn sách viết về kiến thức cơ bản của đạo
Phật, nêu về lòng từ bi, đem lại sự an vui, cứu khổ cho mọi người với tinh thần
không vụ lợi, không mong được trả ơn.
Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I, II, III của Nguyễn Lang, Nhà xuất
bản Văn học ấn hành năm 2000. Sách đề cập đến lịch sử Phật giáo Việt Nam,
trong đó có nêu một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực hoạt động từ thiện xã hội
của Phật giáo và một số nhà sư tiêu biểu trong quá trình hoạt động từ thiện xã
hội lúc bấy giờ.
Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam, do Thích Trí Hải, Nhà xuất
bản Tơn giáo ấn hành năm 2004. Cuốn hồi ký này viết về hoạt động của bản
thân ông cũng như giới Phật giáo Miền Bắc giai đoạn (1924 - 1954) nhằm chấn
hưng Phật giáo, kháng chiến kiến quốc và có đề cập đến những nhận thức mới
về sự nhập thế của Phật giáo và các hoạt động cứu tế xã hội rất hiệu quả của
giới Phật giáo Việt Nam đương thời.
Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, có 2 tập, do Thích Đồng Bổn chủ
biên (Tập 1 do Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm

1996, tập 2 do Nhà xuất bản Tôn giáo ấn hành năm 2002). Bộ sách này giới
thiệu thân thế và sự nghiệp của các vị danh tăng và một số vị đại cư sỹ của Phật
giáo Việt Nam trong thế kỷ XX, trong đó có nhiều vị rất tích cực hoạt động từ
thiện xã hội.


6
50 chấn hưng Phật giáo Việt Nam, do Thích Thiện Hoa, xuất bản năm
1970. Nội dung sách viết về lịch sử phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt
Nam, có đề cập đến các ban ngành của các tổ chức Phật giáo (chủ yếu ở Miền
Nam) và các vấn đề liên quan đến việc làm từ thiện xã hội.
Hoạt động từ thiện xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay,
của Chử Thị Kim Phương, Luận văn thạc sỹ triết học, Hà Nội, năm 2010. Luận
văn nêu một số vấn đề trọng tâm liên quan đến hoạt động từ thiện của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam, thực trạng, giải pháp, kiến nghị, dự báo xu hướng,… nhằm
hướng hoạt động từ thiện xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động có
hiệu quả hơn trong thời gian tới và hoạt động đúng đường hướng hành đạo và
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.
Đôi nét về hoạt động từ thiện trong thời hội nhập, của Thích Giác Toàn,
Nguyệt san Giác ngộ, số 160, tháng 7/2009. Bài viết đề cập đến những kết quả
cụ thể đạt được, trong hoạt động từ thiện xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, qua báo cáo tổng kết hoạt động phật sự từ Nhiệm kỳ I đến Nhiệm kỳ V.
Bài viết có đề cập đến nội dung về một số định hướng hoạt động từ thiện xã hội
trong thời hội nhập.
Vấn đề từ thiện của Phật giáo Việt Nam hiện nay, của Lê Tâm Đắc, Tạp
chí Cơng tác Tơn giáo, số 2, năm 2009. Bài viết đề cập đến vấn đề từ thiện xã
hội thể hiện trong giáo lý Phật giáo với hạnh Bố thí, tác giả có nêu một số kết
quả đã đạt được trên lĩnh vực từ thiện xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
hiện nay, từ đó có đề xuất một số ý kiến để hoạt động này đạt hiệu quả cao hơn
trong thời gian tới.

Đôi điều về hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo Việt Nam hiện nay,
Lê Tâm Đắc - Nguyễn Đại Đồng, Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX nhân vật và
sự kiện, xuất bản năm 2013. Nêu nhận định về vấn đề từ thiện xã hội và một
số khái niệm liên quan đến hoạt động này. Đánh giá chung tình hình thực hiện
hoạt động từ thiện của Phật giáo Việt Nam hiện nay, trên một số lĩnh vực tiêu


7
biểu và đưa ra một số định hướng chung cho hoạt động từ thiện xã hội, nhất là
lĩnh vực y tế, giáo dục.
Báo cáo Ban từ thiện xã hội 30 năm hình thành và phát triển, do Ban từ
thiện xã hội tỉnh Hội Phật giáo Đồng Nai biên soạn, năm 2011. Báo cáo nêu
quá trình hình thành, phát triển chung và kết quả hoạt động từ thiện xã hội qua
30 năm hoạt động của Ban và đề ra một số giải pháp tuyên truyền, vận động
nhà hảo tâm, tín đồ, các giới, nhất là giới trẻ để lòng tốt, tâm từ bi dễ phát khởi,
đồng cảm và từ đó phát tâm thiện nguyện cùng vận động, chung tay thực hiện
hoạt động từ thiện xã hội đạt hiệu quả.
Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động của Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai
khóa VI, nhiệm kỳ (2007 - 2012), năm 2012, do Ban Thường trực Ban Trị sự
tỉnh Hội Phật giáo Đồng Nai thực hiện. Báo cáo có đề cập đến các vấn đề hoạt
động chung của tỉnh Hội Phật giáo Đồng Nai và kết qủa hoạt động từ thiện xã
hội trong nhiệm kỳ này.
Kỷ yếu điển hình “Dân vận khéo” tỉnh Đồng Nai, tháng 10/2010, do Ban
Dân vận Tỉnh ủy Đồng Nai thực hiện. Kỷ yếu nêu gương các điển hình tiên tiến
trong cơng tác vận động quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước, trong đó có biểu dương điển hình tiêu biểu của chức sắc
Phật giáo tham gia cơng tác vận động tín đồ thực hiện tốt hoạt động từ thiện xã
hội, cứu trợ, xây nhà tình thương, duy trì bếp ăn từ thiện cho bệnh nhân nghèo.
Có thể nói rằng, từ các cơng trình, bài viết, báo cáo tiêu biểu nêu trên,
với những khía cạnh và mức độ khác nhau, đã chỉ rõ tính cấp thiết cũng như những

phản ánh các hoạt động và kết quả đã đạt được trong hoạt động từ thiện xã hội của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung và ở từng khu vực, vùng miền, địa phương
nói riêng. Qua đó, có thể khẳng định, cho đến nay vẫn chưa có nhiều cơng trình
nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể về hoạt động từ thiện xã hội của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo ở Đồng Nai nói riêng.
Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những thành quả của những nghiên cứu
đã được thực hiện trước, về nội dung liên quan đến đề tài của luận văn. Qua


8
nghiên cứu thực tế tình hình hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo ở Đồng
Nai, tôi sẽ tiếp tục tập trung nghiên cứu vấn đề trên một cách tương đối cụ thể
về các vấn đề lý luận và thực trạng hiện nay, từ đó tìm ra những mặt mạnh,
tích cực nhằm phát huy và chỉ ra những mặt còn tồn tại hạn chế cần khắc
phục, đồng thời đưa ra những định hướng và có những kiến nghị nhằm đẩy
mạnh tính hiệu quả thiết thực của hoạt động này, đối với Phật giáo tỉnh Đồng
Nai thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Khái quát lý luận và thực trạng hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo
ở Đồng Nai hiện nay, từ đó đề xuất một số định hướng, giải pháp, kiến nghị
để phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt còn tồn tại, trong hoạt động từ
thiện xã hội của Phật giáo ở Đồng Nai và trong công tác quản lý Nhà nước,
đối với chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh về hoạt động này.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động từ thiện xã hội
của Phật giáo ở Đồng Nai hiện nay.
- Khái quát thực trạng của hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo ở
tỉnh Đồng Nai và những vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đề xuất một số định hướng, giải pháp, kiến nghị, nhằm từng bước phát

huy vai trò, kết quả hoạt động và tuân thủ chủ trương, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước, đối với hoạt động này của Phật giáo ở Đồng Nai trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các lĩnh vực hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai.


9
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 1981 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về những
vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo.
Luận văn được thực hiện với một số phương pháp liên ngành như: sử học,
triết học và một số phương pháp cụ thể như so sánh, phân tích và tổng hợp thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Đây là cơng trình nghiên cứu một cách khái qt các vấn đề liên quan
đến hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo ở Đồng Nai từ năm 1981 đến nay.
- Bước đầu đề xuất một số định hướng, giải pháp, kiến nghị để phát huy
tính tích cực và hạn chế những mặt còn hạn chế trong hoạt động từ thiện xã
hội của Phật giáo ở Đồng Nai và trong công tác quản lý Nhà nước của chính
quyền các cấp trên địa bàn tỉnh thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ cung cấp có hệ thống về các hoạt
động từ thiện xã hội của Phật giáo ở Đồng Nai, làm cơ sở nhận thức luận, góp
phần trong quá trình nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về hoạt động này

trong thời gian tới.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác quản lý
Nhà nước, các lớp tập huấn về hoạt động từ thiện xã hội của tơn giáo nói
chung và của Phật giáo nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 03 chương, 08 tiết.


10
Chương 1
HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO
Ở ĐỒNG NAI: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỈNH ĐỒNG NAI

1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế
Điều kiện tự nhiên: Tỉnh Đồng Nai phía Đơng giáp tỉnh Bình Thuận,
phía Đơng Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và
Bình Phước, phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, phía Tây giáp Thành phố
Hồ Chí Minh. Nằm ở vị trí trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là
vùng kinh tế phát triển năng động nhất Việt Nam. Đồng Nai có địa hình chủ
yếu là đồng bằng, đồi lượn sóng, núi thấp, tương đối bằng phẳng, có 82,09%
đất có độ dốc. Tài nguyên đất đa dạng, hội tụ đủ các loại đất ở Việt Nam.
Đồng Nai nằm trong vùng nhiệt đới có gió mùa, khí hậu ơn hịa, ít bảo lụt và
thiên tai, nhiệt độ bình quân hàng năm 25-26 độ gồm 2 mùa mưa nắng.
Điều kiện kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của tỉnh Đồng
Nai năm 2012 là 12,1%, giai đoạn (2011-2015) dự kiến tăng từ 13-14%/năm.
Thu nhập bình qn trên 41,53 triệu đồng/người/năm. Có diện tích tự nhiên
5.907,1 km2, dân số khoảng 2,7 triệu người, người kinh chiếm 92% và 30 dân
tộc thiểu số còn lại chiếm 8%, trong đó: Dân thành thị 33,23%, nơng thơn

66,73%. Có 11 đơn vị hành chánh với 171 đơn vị xã, phường, thị trấn, gồm 01
thành phố, 01 thị xã và 9 huyện. Đồng Nai có tháp dân số trẻ, dân số trong độ
tuổi lao động 65,54% (khoảng 1,63 triệu lao động).
Số lượng các trường, đơn vị dạy nghề trên địa bàn tỉnh trên 100 cơ sở.
Tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết mạch
quốc gia đi qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc lộ 51, tuyến đường sắt Bắc Nam gần sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, gần cụm cảng Sài Gòn, cụm Cảng
Thị Vải - Vũng Tàu …, thuận lợi cho giao thương trong nước và quốc tế.


11
1.1.2. Tình hình văn hóa - xã hội
Hiện tồn tỉnh có 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế,
có 95% trạm y tế có bác sỹ phục vụ ổn định. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
58%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 44%. Hạ tỷ lệ hộ nghèo còn 3,5%
trên tổng số dân (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015). Tồn tỉnh có
88,7% ấp, khu phố văn hố và 97% hộ gia đình văn hóa. Tỷ lệ hộ sử dụng
nước sạch (đô thị đạt 98,4%, nông thôn đạt 93%). Tỷ lệ hộ có sử dụng điện
đạt 99,5%, riêng nơng thơn 99,26%.
1.1.3. Về đời sống tín ngưỡng, tơn giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay
Trong tiến trình hình thành và phát triển lịch sử vùng đất Đồng Nai, từ
đặc thù vị trí địa lý, nhân văn, có thể nói nhân dân Đồng Nai có nhu cầu tín
ngưỡng, tơn giáo khá lớn. Ngồi tín ngưỡng dân gian truyền thống như đạo
thờ tổ tiên, ơng bà, cha mẹ, người có cơng với nước với nhân dân, thờ thành
hoàng, thờ tổ nghề.v..v. Người dân Đồng Nai đã tiếp nhận tơn giáo ở nước
ngồi vào từ rất sớm trong lịch sử. Vốn lưu giữ truyền thống thương người,
khoan dung, độ lượng nên các tôn giáo từ nước ngoài vào cũng được người
dân Đồng Nai tiếp nhận và có chọn lọc để mở rộng, làm sâu sắc thêm và tạo
thành sắc thái riêng của mình. Cho đến nay, các tơn giáo có tín đồ ở nước ta ít
hay nhiều đều có cơ sở ở Đồng Nai, trong đó Phật giáo là một trong những
tơn giáo lớn xuất hiện ở Đồng Nai từ khá sớm, có đơng tín đồ và có những

ảnh hưởng nhất định trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Đồng Nai là một tỉnh có nhiều tơn giáo đan xen phức tạp. Tính đến
6/2013, tồn tỉnh có 43 tổ chức giáo hội thuộc 10 tôn giáo đang hoạt động như:
Công giáo, Phật giáo, 30 hệ phái Tin lành (09/30 hệ phái được công nhận về mặt
tổ chức), Cao đài (có 4/5 hệ phái được cơng nhận về mặt tổ chức), Phật giáo Hịa
Hảo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Hồi giáo (Islam), Bửu sơn Kỳ
hương, Bahai. Có 1.731.565 tín đồ, chiếm 65% dân số toàn tỉnh; 8.081 chức sắc,


12
tu sỹ, 21.685 chức việc; 1.468 cơ sở thờ tự. Ngồi ra, trong q trình phát triển
cơng nghiệp, đã du nhập nhiều hệ phái Tin lành và các hiện tượng “tơn giáo
mới” như Tổ tiên chính thống giáo, đạo Dừa, Thanh Hải vơ Thượng sư, Thiên
đạo, Pháp Ln cơng. Tín đồ các tôn giáo tập trung nhiều ở các huyện: Thống
Nhất, Trảng Bom, Thành phố Biên Hòa, Định Quán, Thị xã Long Khánh, Long
Thành...; 110/171 xã, phường, thị trấn có trên 30% quần chúng có tơn giáo; 23
xã, phường, thị trấn có trên 90% quần chúng có tơn giáo.
Hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh cơ bản thuần túy, ổn định.
Đa số chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tơn giáo chấp hành pháp luật, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, phấn khởi
trước sự đổi mới, phát triển của đất nước, sự quan tâm, tạo điều kiện của
chính quyền các cấp trong hoạt động của các tôn giáo, tích cực hưởng ứng
tham gia các phong trào thi đua, yêu nước do các cấp ủy Đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát động.
Bên cạnh những mặt tích cực, tình hình tơn giáo tỉnh Đồng Nai hiện nay
vẫn còn đang tồn tại nhiều yếu tố phức tạp. Vi phạm pháp luật trong hoạt
động tơn giáo cịn diễn ra nhiều nơi, nhất là vấn đề giảng đạo, truyền đạo, xây
dựng cơng trình tơn giáo trái phép, chuyển nhượng đất đai, tạo lập cơ sở tôn
giáo. Đáng chú ý là tình hình khiếu kiện, địi đất, cơ sở vật chất có nguồn gốc
tơn giáo đang do Nhà nước quản lý khá gay gắt, phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy

cơ xảy ra “điểm nóng”. Hoạt động của giáo hội Cơng giáo có nhiều yếu tố tác
động xấu đến đời sống chính trị, xã hội. Gần đây nhất là vụ tham gia hưởng
ứng cùng Hội đồng Giám mục Việt Nam trong việc góp ý Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992. Các nhóm Gia đình Phật tử bất hợp pháp, nhóm mạo
xưng “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất” cơng khai hoạt động có tính
cực đoan. Một số điểm nhóm của các hệ phái Tin lành chưa được Nhà nước
cơng nhận, có những hoạt động phức tạp, vi phạm pháp luật và một số tổ chức
Cao đài có lúc, có nơi diễn ra căng thẳng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an


13
ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn.
Đồng Nai là tỉnh có Tịa Giám mục và Đại chủng viện quy mô lớn nhất
Việt Nam, Công giáo có số giáo dân chiếm khoản 1/5 giáo dân cả nước, đa
phần là di cư năm 1954 đến. Gần đây, một số linh mục tỏ ra thân thiện với
chính quyền, tham gia tốt các phong trào thi đua yêu nước đều bị thun
chuyển, khơng ít linh mục 01 năm thun chuyển đến 02 lần và một số nội
dung hoạt động có nhiều người nước ngồi tham gia, nhưng khơng đăng ký
hoặc thơng báo với chính quyền địa phương.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN CỦA
PHẬT GIÁO

1.2.1. Khái niệm “Từ thiện xã hội” của Phật giáo
Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học, do (Hoàng Phê chủ
biên), Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2008 định nghĩa: “Hoạt động là
tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau bằng một mục đích
chung, trong một lĩnh vực nhất định” [46] và cịn định nghĩa: “ Từ thiện là có
lịng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó để làm phúc” [46].
Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
xuất bản năm 1994 (do Hồng Phê chủ biên) giải thích: “Từ thiện: (người có của)

có lịng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó để làm phúc” [46].
Về khái niệm “xã hội”, từ điển giải thích: “xã hội là một tập thể hay
một nhóm những người được phân biệt với các nhóm người khác bằng các lợi
ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẽ cùng một thể chế và có cùng văn hóa ” [46].
Như vậy, hoạt động từ thiện xã hội nói chung là những việc làm mang tính
tập thể cao nhằm giúp đỡ những người nghèo khổ, khó khăn hoạn nạn để làm
phúc.
Riêng đối với Phật giáo thì khái niệm về từ thiện xã hội được xem là
sự thể hiện lòng từ bi và tinh thần nhập thế, sự dấn thân của các vị tăng sỹ và
Phật tử vào đời sống xã hội, thể hiện qua những hoạt động cụ thể, để cứu giúp


14
những người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, bị thiên tai, hoạn nạn, những
mảnh đời bất hạnh. v..v.
1.2.2. Khái niệm “Bố thí” trong giáo lý của Phật giáo
Bố thí là một đức hạnh tối quan trọng trong cách thức tu tập, hành trì
và hoằng dương Phật pháp của các tăng sỹ lẫn cư sỹ trong các Tông phái của
Phật giáo. Bố thí là hạnh đầu tiên trong 6 pháp Ba La Mật của Phật giáo Đại
thừa hay trong 10 pháp Ba La Mật của Phật giáo Nguyên thủy. Trong đó, Bố
có nghĩa là khắp, thí là cho, cho khắp tất cả. Vậy theo quan điểm giáo lý của
Phật giáo, thì Bố thí nghĩa là sự cho, tặng, biếu, cúng dường. Trong tác phẩm
Bố thí Ba La Mật, Thích trí Siêu đã giải thích cụ thể về vị trí và vai trị quan
trọng của Bố thí trong các pháp Ba La Mật của Phật giáo, cụ thể:
Bố thí làm nền tảng cho bố thí. Bố thí gồm có ba trình độ: hạ, trung,
thượng. Khi mới bắt đầu vào Bồ tát đạo, Bồ tát tập bố thí trong sạch, bố thí
những đồ vật bình thường như đồ ăn, thức uống, đèn dầu,…đó là bố thí hạ.
Khi thường xun thực hành bố thí hạ, tâm của Bồ tát bắt đầu phát triển, bố
thí nhiều hơn như, quần áo, thuốc, nhà, vàng bạc,…đó là bố thí trung. Tích
cực thực hành bố thí trung, hảo tâm của Bồ tát phát triển tới mức có thể bố thí

tất cả những gì mình có (nội và ngoại thí) khơng ngần ngại hiến các bộ phận
của thân thể như đầu, chân, tay, mắt,… gọi là bố thí thượng.
Bố thí làm nền tảng cho Trì giới. Nếu Bồ tát tham lam, keo kiệt, khơng
bao giờ bố thí cho ai, thì kiếp sau sẽ chịu cảnh nghèo khổ, vì nghèo khổ nên
dễ xuất hiện tư tưởng lường gạt, trộm cướp, từ trộm cướp dễ dẫn đến việc giết
người. Vì nghèo khổ nên khó có thể thỏa mãn được dục lạc, dục lạc khơng
thỏa mãn thì dễ phạm hạnh. Như vậy, vì nghèo khổ nên ta dễ phạm vào mọi
tội của thân, khẩu, ý. Ngược lại, nếu thực hành bố thí, ta sẽ tái sinh trong cảnh
giàu có đầy đủ, nhờ đó mà giữ gìn giới luật tốt.
Bố thí làm nền tảng cho Nhẫn nhục. Khi Bồ tát thực hành hạnh bố thí
mà người nhận địi hỏi hơn, hoặc xin không đúng lúc, hoặc không cần xin mà


15
cứ xin, lúc đó sẽ nghĩ: “Nay ta thực hành bố thí, cốt để cầu giác ngộ thành
Phật, buộc ta phải cho cả. Bố thí đây là làm cho chính ta, tại sao phải nổi giận
như vậy ” [28]. Bồ tát thực hành nhẫn nhục để sự bố thí trong sạch.
Bố thí làm nền tảng cho Tinh tiến. Thực hành bố thí, Bồ tát cũng thực
hành ln cả tinh tiến. Khi bắt đầu thực hành bố thí, phúc đức quả báo rất ít
nên Bồ tát thực hiện nhiều sự bố thí. Nhưng muốn bố thí cho mọi lồi, phải
tinh tiến thực hành bố thí. Nhờ tinh tiến bố thí nên tạo được nhiều phúc đức.
Cứ thế, bố thí và tinh tiến vừa làm nhân vừa làm duyên cho nhau.
Bố thí làm nền tảng cho Thiền định. Người tu Thiền định ban đầu luôn
luôn gặp phải năm chướng ngại (ngũ lam, giận tức, hôn trầm, trạo cử và nghi
hối). Nếu không diệt trừ được những chướng ngại này, thì khơng thể tiến xa
trong thiền định. Thực hành bố thí trong sạch tức là đang diệt trừ năm chướng
ngại. Bố thí sạch tức có nhẫn nhục, có nhẫn nhục thì tiêu trừ được tức giận.
Khi bố thí để cầu quả vị Phật, Bồ tát cần nhiều Tài và Pháp để có bố thí rộng
rãi cho mọi lồi. Vì cần nhiều Tài và Pháp nên Bồ tát phá trừ được lười biếng.
Khi Bồ tát khởi tâm trong sạch, tâm kính trọng người nhận, chú ý đến hành

động của mình, khơng giám suy nghĩ bất chính, nên ln tỉnh thức khơng
chạy theo vọng tưởng, do đó diệt trừ trạo cử. Khi bố thí, Bồ tát tin rằng sẽ gặp
được phúc đức vô lượng, nên Bồ tát ln tìm cơ hội để bố thí.
Bố thí làm nền tảng cho Trí tuệ. Nhờ bố thí thường xuyên, Bồ tát gặt được
nhiều phúc đức. Do tin Tam bảo, Bồ tát phát tâm học hành chính pháp, phá trừ tà
kiến và vô minh. Hơn nữa, khi thực hành bố thí Ba La Mật, Bồ tát ln suy tư về
người cho, vật được cho, người nhận. Nhờ luôn suy tư, Bồ tát hiểu được thực
tướng tức là trí tuệ. Tất cả chư Phật đều bắt đầu con đường giác ngộ bằng bố thí.
Do đó, bố thí là nền tảng cho Phật đạo, luôn là hạnh đứng đầu.
Trong Phật giáo, bố thí có ba loại: Bố thí Tài (hay Tài thí), bố thí Pháp
(hay Pháp thí), bố thí vơ cực. Trong đó, Tài thí là bố thí tài vật, gồm của cải,


16
vật chất, nhà, tiền, vàng,… Đối với Tài thí, theo Phật giáo, điều quan trọng
khơng hồn tồn ở giá trị của tài vật mà là ở thái độ và động cơ của hành động
bố thí. Tài thí khơng chỉ là việc bố thí của cải vật chất, mà đơi khi cịn bố thí
cả các bộ phận trên cơ thể và thậm chí cả thân mạng. Do cách hiểu Tài thí như
vậy, nên mới có sự hình thành những tổ chức từ thiện Phật giáo kêu gọi hiến
máu, hay hiến thận sau khi chết cho khoa học. Nếu bố thí tài vật được thực
hiện với tâm từ bi thì tác dụng của nó sẽ lớn hơn nhiều so với cùng việc bố thí
tài vật mà với các dụng tâm khác.
Pháp thí là bố thí Phật pháp, nghĩa là giáo dục Phật pháp cho người khác,
cho họ những lời nói tốt đẹp và có ích lợi. Pháp thí khơng chỉ được hiểu là đem
đến với người khác, mà còn là việc truyền trao hay định hướng nghề nghiệp, trực
tiếp hướng dẫn làm giảm đi những tệ nạn xã hội. Thực hành Pháp thí, các tăng sĩ
và Phật tử đã xây dựng nên các trường học, trung tâm dạy nghề, trung tâm tư vấn
xã hội. v..v. Theo Phật giáo, phương thức bố thí này đem lại kết quả tốt, có tác
động mạnh đến đời sống của nhân dân.
Bên cạnh Tài thí và Pháp thí, trong Phật giáo cịn có hình thức bố thí

Vơ cực. Trong tác phẩm Lục Độ Tập Kinh, được viết vào thế kỷ thứ III, nhà
sư Khương Tăng Hội đã giải thích về bố thí Vơ cực như sau: Bố thí Vơ cực có
nghĩa là từ bi dưỡng dục người và vật, thương xót những người lầm theo tà
đạo. Vui mừng cho người hiền được siêu độ, cứu hộ chúng sinh, ân trạch vượt
trời đất, sâu hơn biển. Bố thí chúng sinh, đói cho ăn, khát cho uống, rét cho
mặc, nóng cho mát, bệnh cho thuốc, xe ngựa, thuyền bè, các loại châu báu, vợ
con, quốc thổ nếu có người cầu xin thì đều cho.
Như vậy, về hình thức, bố thí Vơ cực chủ yếu là bố thí của các bậc cao
tăng, cụ thể là các vị Bồ tát. Về bản chất, bố thí Vơ cực chủ yếu là bố thí “Tài
thí”, tức là bố thí của cải vật chất, không tiếc của cải lớn nhỏ, không giới hạn
kể từ tính mạng đến tài sản của mình [29, tr.358 -361].


17
Ngồi ra, cịn một số khái niệm, quan điểm, ngun lý liên quan đến
hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo như vấn đề nhập thế, lòng từ bi, từ
thiện, thế tục hóa, phụng sự chúng sinh là cúng dường Chư Phật, cụ thể:
Nhập thế, khái niệm “nhập thế” thường được sử dụng với nghĩa là sự
tham gia của các chức sắc, tín đồ tơn giáo vào các hoạt động của đời sống xã
hội. Sự nhập thế của Phật giáo trong xã hội hiện nay được biểu hiện rõ nét qua
các hoạt động việc đời song song với việc đạo. Hoạt động từ thiện luôn gắn
chặt với tinh thần nhập thế. Tuy nhiên, không phải tất cả việc làm từ thiện
luôn được coi là những việc làm nhập thế, nếu hiểu nhập thế là hành động
nhằm thúc đẩy sự phát triển xã hội. Hoạt động từ thiện không chỉ đơn giản là
việc quyên góp tài, lực theo sự vận động để đem phân phát khi có yêu cầu, mà
hơn nữa việc qun góp này hiện nay cịn được triển khai thành những đề án,
cơng trình phúc lợi xã hội có tính lâu dài, cơng trình đó nhằm phục vụ phát
triển xã hội ở lĩnh vực nào đó thì tùy theo từng tổ chức cụ thể.
Lòng từ bi, theo Từ điển Phật học, Từ (Metta) chỉ sự thương yêu chúng
sinh và tạo cho chúng sinh sự an lạc, Bi (Karuna) là sự đồng cảm với sự đau

khổ của chúng sinh, thương xót và làm cho chúng sinh vơi khổ. Như vậy, theo
quan điểm của Phật giáo, từ bi là sự đồng cảm với nỗi khổ của chúng sinh. Từ
bi vô cùng rộng lớn nên cũng được gọi là “Vô cái đại bi”. Lịng từ bi, hay tình
thương, là nguồn an ủi chúng sinh đang đau khổ, là bể nước cam lồ mát ngọt
cho người đang bị trầm luân, lửa trần gian thiêu đốt nhảy vào tắm gội thân tâm.
Song, tình thương này phải hồn tồn vị tha, khơng nhuốm màu vị kỷ. Nếu là
tình thương vị kỷ, chẳng những khơng làm vơi đi nỗi khổ của chúng sinh, trái
lại còn tạo thêm nỗi khổ nhấn sâu họ vào vô minh. Từ bi là ban vui cứu khổ
cho mn lồi. Sự vui hay khổ của người khác xem như vui, khổ của chính
mình, chia sẽ niềm vui, nỗi khổ cho nhau đó là lịng từ bi. Vì thế, ban vui, cứu
khổ cho mọi người mà khơng thấy mình là người ban ân, kia là kẻ thọ ân, hồn
tồn vì người và cho người mới là tình thương khơng giới hạn. Tình thương từ


18
bi là tình thương đồng hóa khổ vui của người như của mình. Mọi xót thương
cứu giúp người, khơng vì mình mới là lịng từ bi. Muốn phát tâm từ bi, chúng
ta phải tập cảm thông với mọi người.
Thấy người khổ cảm như chúng ta chịu khổ, nỗi khổ của người xem
như nỗi khổ của chúng ta, giúp người hết khổ là ta hết khổ, không cần trả
ơn. Phải biết chia sẽ, chan hịa, gắn bó, cảm thơng để từ đó phát tâm hỗ trợ,
giúp người. Phật giáo Đồng Nai đã nhập thế trong hơn 310 năm qua và luôn
thể hiện năng lực thích ứng mạnh mẽ trước các điều kiện hiện thực đang
biến đổi từng ngày, bằng những hoạt động thiết thực đã cảm hóa và góp
phần khơng nhỏ trong việc cùng Đảng và chính quyền các cấp chăm lo cho
các đối tượng xã hội, người bất hạnh, khó khăn hoạn nạn, xây dựng nếp sống
văn hóa trong cộng đồng,… đem lại niềm vui an lạc và hạnh phúc ngay trên
chính cõi trần này.
Từ thiện, theo Từ điển Phật học, từ thiện là những việc cứu giúp kẻ
nghèo khổ, tật bệnh, hoạn nạn trong đời dựa trên cơ sở của lịng từ bi.

Thế tục hóa, thuật ngữ này được sử dụng lần đầu trong Hòa ước
Wessphalie (1648) để chỉ việc Giáo hội chuyển giao tài sản cho các thế lực trần
tục. Thế tục hóa xuất hiện cùng với sự ra đời của giai cấp tư sản Châu âu. Thế
tục hóa là kết quả của sự địi hỏi phải tách rời tơn giáo ra khỏi chính trị, giải
phóng Nhà nước ra khỏi Nhà thờ. Hay nói cách khác, thế tục hóa là tiến trình
đưa tơn giáo ra khỏi lĩnh vực công, cả Nhà nước lẫn xã hội, để khoanh lại trong
lĩnh vực tư, nghĩa là trong đời sống tinh thần cá nhân. Q trình thế tục hóa
diễn ra có sự khác nhau giữa các tôn giáo, giữa các quốc gia và châu lục.
Ngày nay, thuật ngữ này nói lên những thay đổi bên trong của các Giáo
hội tôn giáo. Nội dung cơ bản của thế tục hóa được nhiều nhà nghiên cứu
thống nhất ở các đặc điểm sau đây:
+ Xu thế thế tục hóa biểu hiện trong cuộc đấu tranh của một bộ phận
tiến bộ, trong từng tôn giáo muốn xóa bỏ những điểm lỗi thời trong giáo lý,


19
những khắc khe trong giáo luật, muốn tiến tới sự đồn kết giữa các tín đồ tơn
giáo và khơng tơn giáo.
+ Xu thế thế tục hóa cịn biểu hiện ở chỗ con người dường như ra khỏi
tôn giáo nhất định nhường lại một tâm thức tôn giáo bàng bạc.
+ Xu thế này biểu hiện ở các nước công nghiệp, nhất là với bộ phận
dân cư thành thị và tầng lớp thanh niên, vai trị của tơn giáo giảm đi. Sự quyết
định đời sống chủ yếu dựa vào bản thân chứ khơng phụ thuộc hoặc ít phụ
thuộc vào đấng siêu nhiên.
+ Các hình thức nhập thế của các tơn giáo bằng cách tham gia vào
những hoạt động trần tục phi tôn giáo nhằm cứu nhân độ thế.
Thế tục hóa xoay quanh ba vấn đề cơ bản là, q trình chun mơn hóa,
duy lý hóa, nhập thế, trong đó nhập thế là quá trình xoay chuyển các quan tâm
của con người từ các lĩnh vực tôn giáo siêu việt đến các nhu cầu trần thế.
Nguyên lý “Phụng sự chúng sinh là cúng dường Chư Phật” của Phật

giáo quan niệm rằng, thấy người làm việc lành, việc phải, mình tán thán bằng
lời, hoặc góp một phần cơng, giúp một phần của để thành công việc lành ấy.
Tam bảo là cây cầu đưa chúng sinh từ bến mê qua bờ giác, là con thuyền cứu
vớt chúng sinh đang chìm trong bể khổ đưa đến bờ Niết bàn, là ngọn đèn soi
đường cho chúng sinh khỏi lạc trong rừng tối vô minh. Người phát tâm tán trợ
bồi bổ, tơ đắp cho Tam bảo thường cịn ở thế gian là cúng dường.
Tam bảo gồm Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Phật chỉ cịn lại hình
tượng. Pháp là giáo pháp do Đức Phật nói ra, chỉ dạy đường lối tu hành.
Tăng là những tu sỹ theo Phật học chính pháp. Người Phật tử chân chính
khi phát tâm cúng dường, chỉ vì mong cho Tam bảo thường có ở thế gian,
để đưa chúng sinh ra khỏi đau khổ mê lầm. Đây chính là tinh thần nhập thế
để phụng sự chúng sinh, với tấm lòng vị tha như vậy, dù là một phần đóng
góp nhỏ về tài, lực nhưng đem lại phúc đức vô biên, tăng, ni nhận sự cúng
dường chân chính của Phật tử, họ sẽ thấy trọng trách lớn lao của mình


20
trong việc gìn giữ đạo pháp và phấn đấu làm những việc làm có nghĩa, để
mang lại lợi ích cho chúng sinh.
Về phương diện lý luận, bản chất của đạo Phật, nhìn từ góc độ con người
là nhân bản, nhưng ở góc độ cao hơn nữa, tính chất nhân bản khơng chỉ thể hiện
ở việc phục vụ lợi ích cho con người mà cịn phục vụ lợi ích an vui cho các loài.
Ý niệm về nhân bản là lấy con người làm trọng tâm, phục vụ lợi ích an sinh xã
hội và hạnh phúc của mọi loài. Với nguyên lý “ Phụng sự chúng sinh là cúng
dường Chư Phật ” là tiền đề nhập thế căn bản của đạo Phật. Đối với các tơn giáo
khác, tín đồ cũng được thường xuyên khuyến khích phục vụ Thượng đế, mở
mang Thiên quốc, tức là nước Chúa trên bờ cõi quốc gia mình, người đó sẽ được
đến gần với Chúa hơn và hưởng hồng ân của Chúa mãi mãi sau khi chết. Ai
không làm theo những gì Chúa dạy trong kinh điển, sau khi chết sẽ bị đày xuống
hỏa ngục. Vì sợ bị trừng phạt và mong được ân huệ của Chúa sau khi chết mà họ

dấn thân phục vụ cho cộng đồng và xã hội. Do đó, việc vì mưu cầu lợi ích cho
bản thân nên tín đồ của một số tôn giáo làm việc này với một số quan điểm khác
nhau. Như vậy, đối với một số các tôn giáo, việc phụng sự Thượng đế, làm hài
lòng Ngài là phương châm nhập thế. Cịn đối với Phật giáo thì Ngài chưa bao
giờ dạy con người rằng, muốn được an vui, hạnh phúc ở Niết bàn, muốn được
kết quả phúc báu trên cuộc đời và để cuộc sống thật sự có ý nghĩa hãy phục vụ
Ngài. Đức Phật thay thế sự phục vụ Ngài bằng phụng sự chúng sinh, tức đem
phúc lợi xã hội đến với mọi người, mọi loài. Nếu đức Phật được xem là đối
tượng cao quý, nhất vì sự giác ngộ và lòng từ bi của Ngài thể hiện và đóng góp
cho nhân loại thì việc đền ơn, đáp nghĩa Ngài không phải là việc bày cúng
hương hoa để thể hiện sự thành kính, thực hiện lễ nghi, tụng niệm hằng ngày,
mặc dù các cơng việc đó các Phật tử khác với tín đồ của tơn giáo khác ở chỗ
không mưu lợi lạc cho bản thân. Đạo Phật dạy cho con người mở lòng từ bi ở
chỗ thể hiện lịng từ bi đó khơng giới hạn ở bất kỳ biên cương, bờ cõi, màu da,
sắc tộc, giới tính, tuổi tác… Mọi người đều cần được chăm sóc, yêu thương lẫn


21
nhau. Cách thức mở rộng tình thương yêu này là tâm con người không bị giới
hạn bởi bất kỳ hạn cuộc nào.
Song bên cạnh đó, các tín đồ một số tôn giáo khác đến với tôn giáo của
họ cũng thường cầu nguyện cho bản thân, gia đình, vì tình cảm đó rất cao
q. Có thể nói, lịng từ bi thường được thiết lập trên nền tảng của sự gần gũi,
gắn bó, sau đó mở rộng đến mọi người, mọi lồi. Đạo Phật dạy cách nhìn
dung hịa, bao qt, lấy đối tượng chúng sinh làm nền tảng dấn thân, nhập thế
thì trong đó bao gồm người thân và bản thân.
Bản chất nguyên lý “ Phụng sự chúng sinh là cúng dường Chư Phật ” là
một đẳng thức hóa, nâng tầm giá trị an vui, lợi lạc của chúng sinh đến chỗ cao quý
nhất, được dâng cúng cho Ngài và các bậc giác ngộ. Ngài thấy rõ, sự có mặt của
Ngài trong cõi đời không phải để phục vụ Ngài, mà Ngài muốn thơng qua lời dạy

của mình, con người sẽ phụng sự con người, mang lại lợi lạc và hạnh phúc cho tha
nhân. Nói cách khác, bản chất sự có mặt của đạo Phật là phục vụ nhân loại. Một
số tôn giáo khác thì ngược lại ở chỗ, con người phục vụ tơn giáo thơng qua hình
ảnh của Thượng đế, từ đó mới phục vụ nhân sinh.
Trên hai phương diện hồn toàn khác nhau, đạo Phật lấy con người
làm trọng tâm, làm đối tượng để thể hiện lòng từ bi và nhập thế, đối với các
tôn giáo hữu thần lấy Thượng đế làm đối tượng, thơng qua Thượng đế thể
hiện tình thương của con người nên trở thành tình thương có điều kiện và bị
giới hạn. Các tăng, ni, Phật tử luôn ghi khắc lời dạy của Đức Phật “ Phụng sự
chúng sinh là cúng dường Chư Phật ” nên trong mỗi việc làm đều hướng đến
giá trị của chân, thiện, mỹ, đem lại lợi lạc, an vui cho nhân gian.
Trong luận văn này, tôi chủ yếu đề cập tới hành vi nhập thế trong xu
thế thế tục hóa, thơng qua những hoạt động từ thiện xã hội cụ thể của Phật
giáo tỉnh Đồng Nai, chung tay cùng cộng đồng toàn xã hội giúp đỡ những
hoàn cảnh bất hạnh, những người gặp hoạn nạn khó khăn, góp phần thực hiện
thành cơng mục tiêu xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân trên


22
các lĩnh vực đời sống, kinh tế - xã hội.
1.3. VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO Ở
ĐỒNG NAI HIỆN NAY

1.3.1. Đối với tôn giáo
Phật giáo là tơn giáo gắn bó với dân tộc trong suốt 2.000 năm lịch sử
Việt Nam, sự hiện diện của Phật Giáo Đồng Nai đã trên 310 năm ở vùng đất
địa đầu, nơi mà các chúa Nguyễn cùng nhân dân, trong đó có Phật giáo hướng
về phương Nam, một phương trời rất đa dạng và phong phú các tơn giáo, có
ảnh hưởng đến Đạo Phật phát sinh. Chủ trương của Phật giáo phát huy nội lực
con người, nên trong các công hạnh lành của Phật, nhân hạnh Bồ tát muốn

được xiển dương, luôn phải được xuất phát từ sự khởi tâm thanh tịnh mà hành
động. Từ đó những việc làm từ bi của người con Phật trở thành những dòng
pháp thanh lương trong sáng, hội nhập và truyền thừa giáo lý Đức Phật,
truyền lưu chánh pháp [53, tr.3].
Đạo Phật là đạo của tình thương, của tỉnh thức, của giác ngộ, là đạo
của con người vì tất cả mọi người. Ngay từ giữa thế kỷ XX, trước sự biến
động và thay đổi của xã hội Việt Nam đương thời cho đến nay, nhìn từ nhiều
phương diện hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo Đồng Nai, trên tinh thần
dấn thân, xuất phát từ lịng nhân ái, u hịa bình, hịa hợp, đồng hành cùng
dân tộc ngày càng được tôn vinh và phát huy. Sự nhập thế của Phật giáo Đồng
Nai ngày càng thiết thực, bằng nhiều hoạt động từ thiện xã hội có ý nghĩa, qua
đó góp phần hóa giải những mâu thuẫn và đồn kết giữa các tơn giáo, có sức
ảnh hưởng sâu sắc và củng cố, thiết lập vị trí của mình trong đời sống xã hội,
chung tay cùng cộng đồng giúp đỡ người khó khăn, hoạn nạn, bệnh tật, làm
giảm gánh nặng cho Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh, đối với hoạt động
chăm lo cho các đối tượng xã hội. Kịp thời hỗ trợ và định hướng cho đối
tượng được trợ giúp vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng
đồng.


23
Thực tế cho thấy, hiện nay tôn giáo nào cũng chú trọng đến công tác
truyền giáo. Đối với Phật giáo Đồng Nai cũng vậy, từ những thành tựu đã đạt
được trên nhiều lĩnh vực, trong đó hoạt động từ thiện xã hội đã có nhiều đóng
góp lớn vào việc hoằng dương Phật pháp, mở rộng ảnh hưởng ra bên ngồi.
Cơng việc hoằng pháp được tỉnh Hội kết hợp mở rộng cả về hình thức lẫn nội
dung với các khóa đào tạo, tu học dài và ngắn hạn cho các tăng, ni và cả Phật
tử (các khóa tu ngắn hạn, tuần hoặc tháng). Kết hợp hoạt động từ thiện xã hội
với việc hoằng dương Phật pháp luôn được chú trọng thực hiện với nhiều
thành phần đối tượng xã hội trong và ngồi tỉnh, thậm chí hỗ trợ giúp đỡ đến

nạn nhân một số nước khi có thiên tai, hoạn nạn như hồi sinh nước bạn
CamPu Chia hỗ trợ nạn nhân bảo lụt, sóng thần như Cu Ba, Lào, Malaisia, Ấn
Độ, Nhật Bản,.... Đồng thời, Ban hoằng pháp đã phối hợp làm từ thiện và in
kinh sách bằng chữ Brailles đến cho cả người khiếm thị. Thăm, tặng quà và
thuyết giảng Phật pháp cho đồng bào vùng sâu, xa, dân tộc thiểu số,... Qua
hoạt động này đã nâng tầm ảnh hưởng của Phật giáo với các tôn giáo bạn,
cộng đồng trong và ngoài tỉnh, khắc phục một số hạn chế, đưa đường hướng
hoạt động của tỉnh Hội Phật giáo Đồng Nai từng bước đi vào đời sống thiết
thực trong nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân sinh.
Hoạt động từ thiện ln đi đơi với trí tuệ, làm thay đổi cách nhìn, quan
điểm trong quá trình hoạt động từ thiện xã hội, đưa hoạt động này thoát khỏi sự
giới hạn làm theo sự tùy tâm, bất chợt, khơng có kế hoạch, chương trình, mục
tiêu, khơng theo kiểu đói cho ăn, lạnh cho mặc ấm nữa, mà định hướng, tạo điều
kiện hỗ trợ cho họ làm thế nào để chính họ tự tạo được nguồn thu nhập, cải thiện
cuộc sống trong tương lai được ấm no, hạnh phúc bền vững, từ đó sức lan tỏa và
tầm ảnh hưởng của Phật giáo Đồng Nai từng bước được củng cố và phát huy tốt
tính nhập thế, nâng cao hiệu quả hoạt động trên các phương diện nói chung.
Phật giáo Đồng Nai trên tinh thần hoằng pháp khơng xa rời lợi sinh đã
đem lại cái nhìn mới, thể hiện vai trò lớn mạnh từng ngày của mình trong tiến


24
trình phát triển chung của đất nước, làm giảm thiểu gánh nặng cho xã hội, ích
nước lợi nhà, tốt đời, đẹp đạo. Tạo được sự đồng thuận lớn, kết nối chia sẽ và
chung tay đóng góp của Phật tử, xã hội và cộng đồng đối với những việc làm từ
thiện xã hội đầy ý nghĩa của Phật giáo Đồng Nai trong thời gian qua.
1.3.2. Đối với hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội
Đạo Phật là đạo của tình thương và vì tất cả mọi người, mọi lồi. Lâu
nay, khơng ít người cho rằng, Phật giáo chỉ quan tâm đến thoát tục, cứu độ và
giải thoát khổ đau, từ bi, hỷ xả, tìm kiếm Niết bàn ở cõi sau hơn là quan tâm

đến những vấn đề thuộc về thực tại. Lại nói thêm rằng, khơng có một tư tưởng
kinh tế đáng kể nào trong giáo lý Phật giáo. Khơng ít người cho rằng, đã là đệ
tử Phật thì việc kinh doanh chỉ mang tính cầm chừng, vì giáo lý Phật giáo chủ
trương vô ngã, cuộc sống này là vô thường, phải quan niệm “thiểu dục, tri túc”
(bớt ham muốn dục vọng và biết đủ).
Phải chăng, quan niệm đó đã tác động phần nào đến nền kinh tế nước
nhà nói chung. Từ đó, có ý kiến cho rằng, hiện nay Phật giáo khơng cịn phù
hợp với xu hướng phát triển của thời đại, với giai đoạn hiện đại hoá và cơng
nghiệp hố như hiện nay. Đặc biệt, là đối với Đồng Nai một tỉnh công nghiệp
hiện đại của cả nước.
Trong kinh Phật khơng có một lời dạy trực tiếp nào về chủ đề kinh tế,
nhưng lời dạy của Đức Phật về 4 nhu cầu: ăn, mặc, ở và thuốc men xuất hiện
rất nhiều trong kinh điển. Điều đó cho thấy rằng, Ngài có cái nhìn rất thấu đáo
và thiết thực về vấn đề này. Đức Phật thừa nhận rằng, thật khó để có một đời
sống ổn định trong một hồn cảnh nghèo khó. “Đối với những gia chủ trên thế
gian này, nghèo là khổ đau.”, “Khổ đau trên cuộc đời này là nghèo và nợ nần”
[1, tr.3]. Nghèo khó, giống như lịng tham, góp phần vào tội phạm và bất ổn
xã hội... [49, tr.27].
Có thể nói, từ quan niệm của nhà Phật chỉ ra bốn điều kiện dẫn đến
hạnh phúc và lợi ích trong tương lai, đó là niềm tin tinh thần, đạo đức, bố thí


25
và trí tuệ. Theo quan niệm Phật giáo, sự điều độ và hạnh phúc sẽ giúp thoát
khỏi những ham muốn vô tận và bất thiện, sẽ đưa đến việc kiểm soát rắc rối
do sản xuất quá mức và tiêu dùng quá độ. Phật giáo khuyến khích sự phát
triển của con người trong sự hài hòa với thiên nhiên.
Từ quan điểm và lời dạy trên của đức Phật đã được Ban hoằng pháp tỉnh
Hội Phật giáo Đồng Nai tích cực truyền giảng và vận động nhân dân, tín đồ Phật
tử thực hiện trong thời gian qua. Đồng thời, thông qua việc kết hợp với hoạt

động từ thiện trên địa bàn tỉnh, các tăng, ni cũng đã tích cực truyền giảng nội
dung này nhằm động viên khích lệ quần chúng, tín đồ tích cực tham gia sản xuất,
vươn lên làm giàu chính đáng cho mình và làm giảm gánh nặng cho xã hội, có
cơ hội giúp người nghèo khó,... để tạo phúc cho gia đình và bản thân theo tinh
thần của nhà Phật.
Ngày nay, Phật giáo Đồng Nai đã, đang và sẽ cịn duy trì và có ảnh
hưởng nhất định đến cách thức lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống của
người dân, các tín đồ Phật tử. Trong bối cảnh kinh tế thị trường và tình hình
chính trị, xã hội hiện nay, với xu hướng nhập thế tích cực, các chức sắc, nhà tu
hành Phật giáo nói chung rất chú trọng khai thác, vận dụng kinh điển Phật giáo
trong đời sống thực tế. Từ ý tưởng trong Kinh chuyển pháp Luân vương xem sự
nghèo khổ là điều kiện chính phát sinh ra những tội ác và rối loạn xã hội. Từ
quan điểm đó, trong thời gian qua, tăng, ni, Phật tử Đồng Nai đã triển khai nhiều
hoạt động tích cực nhằm góp phần đưa Phật giáo Việt Nam nói chung hòa nhập
cùng xã hội, cũng như kế thừa tư tưởng của tổ Bách Trượng ở Trung Quốc cho
rằng: Một ngày không làm, một ngày không ăn” (nhất nhật bất tác, nhất nhật bất
thực), nhằm khuyến khích, động viên và kêu gọi nhân dân, tín đồ Phật tử phát
huy tính sáng tạo trong lao động, học tập, tăng cường phát triển kinh tế hộ gia
đình, tập thể, từng bước cải thiện cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
Kết quả mang lại là nhiều tín đồ Phật giáo tỉnh Đồng Nai đã thấm
nhuần thuyết vô thường, vô ngã và lý thuyết duyên khởi, đã nhanh chóng bắt


×