Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong giáo dục đạo đức cho sinh viên việt nam hiện nay (qua thực tế tỉnh bắc giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.5 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỷ 21, thế kỷ của sự bùng nổ thông tin và
khoa học - kỹ thuật hiện đại. Những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong
những năm gần đây đã làm thay đổi cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế giới.
Kể từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới tồn
diện đất nước. Với chủ trương chuyển từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động
tới mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là các giá trị tinh thần, đặc biệt là giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc.
Sự phát triển của kinh tế thị trường cùng với việc mở rộng giao lưu và
hợp tác quốc tế, đã đem lại cho ta những cơ hội lớn trong sự phát triển kinh tế
- xã hội, tạo điều kiện để giao lưu học hỏi trong quá trình đổi mới và phát
triển. Tuy nhiên đây cũng là mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh lối sống ích kỷ,
vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày, từng
giờ làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phá vỡ
nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống. Mặt trái của cơ chế thị trường đã tác
động đến một bộ phận thanh niên, sinh viên hình thành ở họ lối sống chạy
theo đồng tiền, buông thả, quay lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc.
Cùng với các tỉnh khác trong cả nước, Bắc Giang cũng đang tích cực và
chủ động tham gia vào q trình hội nhập. Nền kinh tế tỉnh trong những năm
gần đây đã có nhiều khởi sắc. Đời sống của người dân khơng ngừng được cải
thiện. Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế thì vấn đề đạo đức, đặc biệt là
đạo đức sinh viên trong những năm gần cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được
quan tâm giải quyết.
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đang bị xói mòn bởi chủ
nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Khơng ít sinh
viên ngày nay chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành



2
điệu; họ bỏ qua những giá trị đạo đức với tư cách là nền tảng cốt yếu của
con người.
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần
rất lớn vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Liệu chúng ta có thể giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi một bộ phận không nhỏ thanh niên bị
phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền thống dân tộc?
Trong những điều kiện mới của đất nước, chúng ta đã chuẩn bị "hành trang"
gì cho họ? Điều tiên quyết và khơng thể thiếu đó là "truyền thống dân tộc",
những truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước đã giúp chúng ta "hội nhập" mà khơng bị "hịa tan", phát triển mà khơng
bị "mất gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã
và đang giúp cho sinh viên Việt Nam nói chung - sinh viên Bắc Giang nói
riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng vững trước mọi thử thách
khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Nhận rõ được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy những giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc. Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị
trường, đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số
định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự
phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới tạo ra cái mới, nhưng lại
không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng
cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn. Cội nguồn đó
của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là những giá trị luân lý đạo đức). Gần đây,
trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ tám, Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI (ngày 9-10-2013), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh,
một trong những mục tiêu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
ở nước ta hiện nay là làm cho “Hệ thống giáo dục và đào tạo được chuẩn hóa,



3
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc(người trích nhấn mạnh)”
Với sự vận động của lịch sử nhân loại, trong điều kiện mới đòi hỏi trong
giáo dục cho sinh viên cần phải chú ý đến việc kế thừa những giá trị đạo đức
truyền thống trên cơ sở đổi mới sao cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Kế thừa và đổi mới cũng là qui luật chung đối với sự phát
triển của mỗi hình thái ý thức xã hội và cũng là qui luật trong sự phát triển
của ý thức đạo đức.
Với ý nghĩa đó, vấn kế thừa và đổi mới giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc trong giáo dục đạo đức cho sinh viên nói chung và cho sinh viên tỉnh
Bắc Giang nói riêng là vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó
cũng là lý do để tác giả của luận văn chọn đề tài: “Kế thừa và đổi mới các giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc trong giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt
Nam hiện nay (Qua thực tế tỉnh Bắc Giang)”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã
đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị
tinh thần truyền thống Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1980; "Biện chứng của truyền thống" của Hà Văn Tấn, Tạp
chí Cộng sản, số 3-1981; "Về truyền thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng,
Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự
nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của Đỗ Huy, Tạp chí Thơng tin
Khoa học xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Kh, Tạp chí
Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội,
1994; "Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" do Nguyễn



4
Quang Uẩn chủ biên, tháng 4-1995; "Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và
những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên", Đề tài
nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32 do Mạc Văn Trang chủ biên (Viện
nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo), 1995; "Sự biến đổi
định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường"
của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học, số 5-1995; "Quan hệ kinh tế và đạo
đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế
Kiệt, Tạp chí Triết học, 6-1996; "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường
đối với đạo đức người cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên
cứu lý luận, 2-1997; "Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức
trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số
5, 1998; "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo
đức trong nền kinh tế thị trường" của Hồng Trung, Tạp chí Triết học, số 5,
1998; "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" của
Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2, 1998; "Giáo dục đạo đức đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán, 1999; "Vì sao Hồ Chí
Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?" của Hồng Trung, Tạp chí
Triết học, số 4, 2000; "Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong
điều kiện hiện nay" của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000; "Kế
thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của
Nguyễn Văn Lý, 2000; "Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời
sống xã hội" của Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3, 2001; "Lý tưởng đạo
đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện
nay" của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2, 2001; "Kết hợp chặt chẽ
giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản

lý" của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2001; "Giá trị


5
đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức
trong nền kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5,
2002; "Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam hiện nay" của Lê Sĩ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Một số
biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí
Triết học, số 6, 2002; "Khoa học cơng nghệ và đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường" của Nguyễn Đình Hịa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002;
"Từ "cái thiện" truyền thống đến "cái thiện" trong cơ chế thị trường ở Việt
Nam hiện nay" của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002;
"Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức
cho thanh niên Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị
Hoài Thanh, 2002; "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính
trị hiện nay" của Trần Văn Phịng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, 2003.
“Giá trị truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt
Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học của Ngô Thị Thu Ngà, 2011;
“Phát huy giá trị văn hóa gia đình truyền thống Việt Nam trong giáo dục
thế hệ trẻ” của Nguyễn Thanh Hải, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2, 2012;
“Quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong triết lý phát triển Hồ Chí
Minh” của Lý Việt Quang, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, 2013; “Vai trò
của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng lối sống cho thế
hệ trẻ Việt Nam hiện nay” của Mai Thị Dung, Tạp chí Lý luận chính trị và
truyền thơng, số 7, 2013...
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to
lớn đối với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện
nay ở nước ta. Tuy nhiên, những cơng trình này chưa đề cập một cách trực

tiếp đến việc kế thừa và đổi mới giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
giáo dục đạo đức cho sinh viên tỉnh Bắc Giang hiện nay.


6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng việc kế thừa và đổi mới giá trị đạo đức
truyền thống trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay
(Qua thực tế tỉnh Bắc Giang), đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích tầm quan trọng của kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích những thành tựu và hạn chế trong việc kế thừa và đổi mới giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc trong giáo dục đạo đức cho sinh viên tỉnh Bắc
Giang hiện nay, tìm hiểu nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc kế thừa
và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay (Qua thực tế tỉnh Bắc Giang).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Kế thừa và đổi mới Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong giáo
dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên ở Bắc Giang nói
riêng chủ yếu từ khi đổi mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của


7
Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống. Ngoài
ra, tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của một số cơng trình
nghiên cứu đã được cơng bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp giữa phương pháp lịch sử và
logic, phân tích và tổng hợp. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương pháp so
sánh, phân tích, thống kê, điều tra xã hội học...để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc kế
thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc giáo dục
đạo đức cho sinh viên Bắc Giang hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên tỉnh Bắc
Giang, bước đầu đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
việc việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Bắc Giang hiện nay
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn "Đạo đức học" ở các trường đại học và
cao đẳng ở Bắc Giang.
- Luận văn cũng có ý nghĩa kiến nghị đối với cơng tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho sinh viên tỉnh Bắc Giang hiện nay.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 2 chương, 5 tiết.


8
Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA VIỆC KẾ THỪA VÀ ĐỔI MỚI GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG DÂN TỘC TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH
VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VÀ NỘI DUNG MỘT SỐ GIÁ
TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm giá trị
Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những
tri thức triết học. Sau này, khi khoa học có sự phân ngành thì giá trị học tách
ra thành một môn khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ một
khái niệm khoa học.
Hiện nay, khái niệm giá trị được sử dụng trong nhiều bộ môn khoa học
khác nhau như: đạo đức học, tâm lý học, xã hội học, chính trị học, triết học, kinh
tế học... Tuy nhiên trong mỗi lĩnh vực khác nhau thì khái niệm giá trị cũng được
hiểu ở các góc độ khác nhau và có thể mang những nội dung khác nhau.
Trong lĩnh vực kinh tế học, giá trị gắn liền với giá trị hàng hóa, giá trị là
khái niệm dùng để chỉ sức mạnh của sản phẩm này khống chế sản phẩm khác
thông qua trao đổi, giá trị của một vật phẩm thể hiện ở tính có ích của nó, vì
vậy để bộc lộ giá trị thì vật phẩm được làm ra phải có ích cho cuộc sống của
con người và đáp ứng nhu cầu của con người. Do vậy, trong phân tích kinh tế,
giá trị là vị trí tương đối của hàng hóa trong trật tự ưu tiên, vị trí của nó càng

cao thì giá trị của nó càng lớn.
Trong triết học cũng có nhiều quan điểm khác nhau về giá trị. Những
người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan coi giá trị là sự tồn tại của những
phẩm chất tiên nghiệm, những chuẩn mực lý tưởng tồn tại bên ngồi sự vật
khơng phụ thuộc vào nhu cầu và ý muốn cuả con người. Ngược lại, những


9
người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại cho rằng giá trị là hiện tượng của ý
thức, là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà
người đó đang đánh giá.
Giá trị là một hiện tượng xã hội đặc thù, giá trị không phải là những cái
tiên nghiệm thần bí mà nó bắt nguồn chính từ cuộc sống lao động của con
người và xã hội loài người. Chỉ trong xã hội loài người mới có cái gọi là giá
trị mà con người chính là một giá trị cao nhất “con người là giá trị cao nhất
của mọi giá trị. Đầu tư vào con người là cơ sở vững chắc nhất cho sự phát
triển kinh tế - xã hội” [83, tr.11].
Từ điển Tiếng Việt quan niệm, giá trị được hiểu là cái làm cho một vật có
ích lợi, là đáng q về một mặt nào đó; là tác dụng, hiệu lực; là lao động xã
hội của những người sản xuất hàng hóa kết tinh vào sản phẩm hàng hóa; Số
đo của một đại lượng hay số được thay thế bằng một ký hiệu.
Theo giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn: “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng
định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là bao hàm quan điểm coi giá trị gắn
liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thơi thúc
con người và vươn tới” [12, tr.16].
Từ những ý kiến, quan niệm về giá trị, chúng ta có thể khái quát lại như sau:
Thứ nhất, giá trị là tất cả những gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái
đúng cái tốt đẹp, được con người thừa nhận và đặt nó ở vị trí quan trọng trong
đời sống của con người, nó góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, giá trị không phải là cái nhất thành bất biến mà nó ln vận

động biến đổi theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Giá trị mang tính lịch sử khách
quan, sự ra đời tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó khơng phụ thuộc vào ý
thức của con người mà do yêu cầu của từng thời điểm nhất định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể
trong quan hệ với sự vật hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa
chọn của chủ thể đối với sự vật hiện tượng ấy.


10
Thứ tư, giá trị đóng vai trị hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, giá
trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá trị giúp
con người định hướng và xác định mục đích cho hành động của mình, là động
cơ thúc đẩy hoạt động của con người.
Trên thực tế, dựa vào các tiêu chí khác nhau người ta có thể phân loại giá
trị khác nhau. Nhưng cách phân loại phổ biến nhất là dựa vào tiêu chí mục
đích phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia làm hai loại: giá trị vật
chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thế hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó gắn bó trực tiếp
với sự tồn tại xã hội, quyết định sự tồn tại của xã hội loài người. Giá trị tinh
thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được biểu hiện
trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, phong tục tập
quán...Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần và chúng
trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt giữa cái đẹp, cái
xấu, cái thiện, cái ác... trong đời sống hằng ngày của con người.
1.1.1.2. Khái niệm giá trị truyền thống và giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc
Cho đến nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về “Truyền thống”.
Chẳng hạn trong cuốn Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, do
nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1980, GS Trần Văn Giàu quan
niệm: truyền thống là những đức tính hay những thói tục kéo dài nhiều thế hệ,

nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác dụng, tác dụng đó có thể tích cực,
cũng có thể tiêu cực. Cịn tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn
Huyên trong cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu
hóa, cho rằng:
…truyền thống - đó là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể
hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục, thói quen, lối
sống và cách ứng xử của một cộng đồng người được hình thành


11
trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời
khác và được lưu giữ lâu dài [13, tr.10].
Truyền thống được hiểu là những giá trị tốt đẹp, được lưu truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khác, nó đứng vững được trong thời gian và đương đầu với
những biến động của lịch sử. Hơn nữa, những giá trị tốt đẹp ấy cịn có khả
năng tạo ra sức mạnh, sản sinh ra các giá trị mới, đem lại lợi ích cho con
người và xã hội lồi người.
Mặt khác truyền thống cịn được hiểu là cái khơng đem lại lợi ích cho
con người, đơi khi nó cịn kìm hãm sự phát triển. Bàn về vấn đề này trong
cuốn “Ngày mười tám tháng Sương mù của Louis Bonaparte” C.Mác đã viết:
Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc
những người đang sống. Cịn Hồ Chí Minh trong cuốn “Đạo đức cách mạng”
cũng đã khẳng định: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to;
nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại khơng thể trấn áp nó,
mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài” [52, tr.287].
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả tập trung vào mặt
tích cực của truyền thống cần được kế thừa và đổi mới trong quá trình giáo
dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm các quy tắc,
chuẩn mực dùng để điều chỉnh hành vi của con người, chúng được thực hiện bởi

niềm tin cá nhân, bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư luận xã hội.
Với tư cách là yếu tố cấu thành của hệ thống các giá trị tinh thần của đời
sống xã hội, giá trị đạo đức được xác định là những chuẩn mực, những khuôn
mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi
của con người. Chỉ khi nào những nguyên tắc, chuẩn mực điều chỉnh hành vi
của con người phù hợp với lợi ích của xã hội và được dư luận đồng tình ủng
hộ thì mới có giá trị. Chúng hình thành và phản ánh những yêu cầu của đời
sống xã hội. Để ổn định, tồn tại và phát triển, xã hội nào cũng cần đến những


12
nguyên tắc, chuẩn mực quy định hành vi của con người. Nhưng, khác với các
phương thức điều chỉnh khác, giá trị đạo đức điều chỉnh hành vi của con
người trên cơ sở tự nguyện, tự giác. Do đó, có thể coi giá trị đạo đức là
“những thái độ và hành vi được con người lựa chọn, được đánh giá là có ý
nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận
biểu dương. Giá trị đạo đức vì thế có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã
hội” [82, tr.51].
Cũng giống như các giá trị khác, giá trị đạo đức phụ thuộc vào những
quan hệ kinh tế. Ph.Ăngghen viết:
con người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra những
quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm
cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế
trong đó người ta sản xuất và trao đổi…xét cho đến cùng, mọi học
thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình
hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ [46, tr.136-137].
Giống như các giá trị tinh thần khác, các giá trị đạo đức không phải là
những cái nhất thành bất biến. Khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi sẽ dẫn
đến những thay đổi trong hệ giá trị tinh thần xã hội, trong đó có giá trị đạo
đức. Bản thân giá trị đạo đức, xét theo thời gian có thể phân chia thành giá trị

truyền thống và giá trị hiện đại.
Giá trị đạo đức truyền thống được xác định là những chuẩn mực, những
khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người với con người, giữa
con người với tự nhiên, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhằm điều
chỉnh và chuẩn hóa hành vi của con người một cách tự nguyện, tự giác.
Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần
của dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các giá trị
đạo đức chiếm vị trí nổi trội, tạo nên cốt lõi của nó. Nói đến các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam
với những phẩm chất tốt đẹp đã được hình thành và bảo lưu cho tới thời


13
điểm hiện tại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định
tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong
các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá
nhân với cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. Giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc ta là do cộng đồng người Việt Nam tạo dựng trong lịch sử lâu dài
trên dải đất Việt Nam với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù tạo nên bản
sắc độc đáo của nó.
1.1.2. Nội dung một số giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân
tộc cần kế thừa và đổi mới trong giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt
Nam hiện nay
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành và phát
triển qua hàng ngàn năm lịch sử, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác
và giữ vị trí rất quan trọng trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam.
Đề cập đến những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, giáo sư Trần
Văn Giàu khẳng định: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc là những
nguyên lý đạo đức lớn mà con người trong nước thuộc các thời đại, các giai
đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái, để nhận định nên chăng để

xây dựng độc lập, tự do và tiến bộ của dân tộc đó. Cũng là những nguyên lý
đạo đức đã tàng ẩn trong tâm trí sâu xa của mỗi người dân trong nước, khiến
họ tự nhiên phản ứng đúng với lẽ phải, đúng với quyền lợi và danh dự dân tộc
khi phải đụng chạm một sự cố nào. Những giá trị đó là: “Yêu nước, cần cù,
anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa...” [27, tr.108].
Giáo sư Vũ Khiêu thì cho rằng những giá trị đạo đức truyền thống của
con người Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động
cần cù và sáng tạo, tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con
người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức
của dân tộc.
Giá trị đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc.v.v. cũng là những


14
vấn đề được Đảng ta hết sức quan tâm và được đề cập đến trong nhiều hội
nghị của Đảng. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc” Đảng ta khẳng định: Bản sắc dân tộc của văn hóa
Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên
qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình - làng xã - Tổ quốc; lịng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo
lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản
dị trong lối sống [17, tr.56].
Từ những quan điểm trên đây ta có thể thấy, tuy có sự khác nhau trong
việc sắp xếp bậc thang giá trị đạo đức, nhưng phần lớn đều thống nhất rằng,
những giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm: Lịng u
nước, tinh thần đồn kết cộng đồng, lòng nhân ái yêu thương con người, bao
dung, nhân nghĩa, cần cù, tiết kiệm, hiếu học... Trong đó lịng u nước là bậc
thang cao nhất trong hệ giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, là
sợi chỉ đó xun suốt lịch sử dân tộc Việt Nam.

1.1.2.1. Lịng yêu nước
Yêu nước là tình cảm của tất cả mọi dân tộc trên thế giới chứ khơng phải
chỉ là tình cảm, là truyền thống riêng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ở mỗi
một quốc gia dân tộc thì tình cảm này lại được thể hiện khác nhau và mang
những nội dung khơng hồn tồn trùng nhau. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng
yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử dân tộc Việt Nam
từ ngàn xưa cho tới hơm nay.
u nước là tình u đối với đất nước, là lòng trung thành với Tổ quốc
biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ và đem lại nhiều lợi
ích cho Tổ quốc và nhân dân. Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân


15
ta từ xưa tới nay. Lịng u nước có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân lên trên hết, là chăm lo xây dựng quê hương đất nước, sẵn
sàng chống đô hộ và xâm lược, bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn và
phát huy văn hóa dân tộc. Lịng u nước của dân tộc ta đã trở thành triết lý
sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ nghĩa yêu nước như giáo sư Trần Văn
Giàu đã viết:
Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam
được bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi người đối với quê hương
mình tiến lên thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ của nhận
thức đúng sai, tốt xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương lược
xây dựng và bảo vệ nước nhà [26, tr.7].
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, lịch
sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, yêu nước trước hết là nêu cao tinh thần
chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Điều này đã được chứng minh
qua lịch sử đấu tranh của dân tộc ta để bảo vệ độc lập dân tộc xây dựng đất

nước. Trải qua hơn một nghìn năm dưới ách đơ hộ của thực dân phong kiến
phương Bắc, cha ông ta vẫn kiên cường giữ nước, giữ làng. Mỗi làng xóm
Việt Nam là một thành trì vững chắc chống lại chính sách đô hộ của bọn
ngoại bang, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Khi đất nước đã hồn tồn giải
phóng, truyền thống yêu nước được thể hiện trong điều kiện tồn tại của nhà
nước phong kiến độc lập. Trong khoảng thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV, nhân dân
cả nước thực sự bắt tay vào xây dựng đất nước. Cơng cuộc khai khẩn đất đai,
xây dựng các cơng trình thủy lợi, phát triển nông nghiệp, mở mang nhiều
ngành nghề đã góp phần hình thành một nền kinh tế tự chủ, đáp ứng phần lớn
các nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong nước và đặt cơ sở cho việc ngoại
giao với các nước khác. Trên cơ sở kinh tế đó, nhà nước phong kiến được
củng cố và phát triển với đầy đủ các thiết chế chính trị, quân sự, văn hóa… ý


16
thức dân tộc do đó cũng được tăng cường và củng cố thêm.
Truyền thống đó một lần nữa lại được phát huy cao độ trong cuộc chiến
đấu vì độc lập tự do của nhân dân ta. Cuộc chiến đó diễn ra trong sự so sánh
lực lượng chênh lệch có lợi về phía địch. Lúc này mọi mâu thuẫn trong nội bộ
của nhân dân ta đều phải nhường chỗ cho nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ Tổ
quốc. Trong điều kiện đó, tinh thần u nước, ý chí bất khuất kiên cường là
nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của
dân tộc ta. Chính lịng u nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc đã giúp
nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm lược. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa tới nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần
ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước [51, tr.171].

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì truyền thống yêu nước của
dân tộc ta được biểu hiện chủ yếu ở tình yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội,
khơng chỉ u nhân dân nước mình mà còn biết quý trọng, yêu mến nhân dân
nước khác. Yêu nước phải gắn với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Yêu nước hiện nay là nâng cao lòng tự hào dân tộc, tin tưởng ở tương lai tươi
sáng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu thực hiện
một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Yêu nước hiện nay là phải gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước, vươn lên
trong sản xuất kinh doanh theo phương châm “ích nước lợi nhà”, tăng cường
đồn kết dân tộc thành một khối thống nhất cùng nhau xây dựng đất nước
giàu mạnh và đoàn kết với nhân dân thế giới.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam sớm được hình thành, được
thử thách và khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, được bổ sung và phát


17
triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và của thời đại . Kế
thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước trong hoàn cảnh lịch sử mới vừa là trách
nhiệm, vừa là vinh dự lớn lao đối với mỗi người dân Việt Nam hiện nay nói
chung, sinh viên nói riêng.
1.1.2.2. Truyền thống đồn kết và ý thức cộng đồng
Tinh thần đoàn kết bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước và nó cũng là biểu
hiện của chủ nghĩa yêu nước. Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả cộng
đồng dân tộc trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện tất yếu để
bảo tồn dân tộc, nhất là khi đất nước có giặc ngoại xâm. Tinh thần ấy thể hiện
từ rất sớm ngay trong truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con”. Nhờ đồn kết
mà cha ơng ta đã sáng tạo nên nền văn minh Sơng Hồng, đặt cơ sở cho tồn
bộ tiến trình về sau của lich sử. Đồn kết đã giúp nhân dân ta vượt qua những

thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, phát triển sản xuất để phục vụ đời sống
của mình. Tinh thần đồn kết tồn dân là nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân
ta đánh thắng mọi thế lực xâm lược.
Tinh thần đoàn kết của người Việt Nam, trước tiên, được thể hiện trong
gia đình, trong cộng đồng làng xã, và hơn hết, trong toàn thể cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Có lẽ, hiếm có một dân tộc nào mà tinh thần đoàn kết lại
được biểu hiện nhiều và đa dạng như ở những làng quê Việt Nam. Ở bất cứ
lĩnh vực gì người ta cũng tạo ra sự nhất trí cao như Đào Duy Anh đã nhận xét:
Ở trong một làng người ta thấy những cuộc đoàn kết nhỏ như hội tư
văn gồm những người có chức tước khoa danh, hội văn phả gồm
những người nho học mà khơng có phẩm hàm khoa mục gì, hội võ
phả gồm những người quan võ, hội đồng môn gồm có tất cả học trị
của một thầy. Ngồi ra cịn có vơ số các đồn thể khác, như hội mua
bán dùng cách gắp thăm hay bỏ tiền úp bát mà lần lượt góp tiền cho
nhau trong việc khánh hỷ, cùng là những hội bách nghệ họp các thợ
thủ công đồng nghiệp, hội chư bà họp các bà vãi lễ phật, hội đồng


18
quan họp những bà thờ đồng thánh, hội bát âm họp các tài tử âm
nhạc, cho đến hội chọi gà, hội chọi chim… xem thế thì thấy người
nhà quê ta rất ham lập hội [1, tr.144].
Tinh thần cộng đồng làng xã được mở rộng thành tinh thần đoàn kết dân
tộc và khơng ngừng được nâng cao trong q trình dựng nước và giữ nước.
Từ kinh nghiệm thực tế ông cha ta đã khẳng định rằng “Đồn kết thì sống,
chia rẽ thì chết”, rồi “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn
núi cao” và chắc rằng mỗi người trong chúng ta đều không thể quên được câu
chuyện Bó đũa về tinh thần đồn kết trong gia đình. Thực tiễn lịch sử dân tộc
ta cũng đã chứng minh rằng tinh thần đồn kết là một yếu tố vơ cùng quan
trọng, là yếu tố cần thiết cho mọi sự thắng lợi. Trong lịch sử chống giặc ngoại

xâm, dựa vào tinh thần đồn kết mà Ngơ Quyền cùng nhân dân ta đã làm nên
chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng và cho tới ngày hôm nay tinh thần
ấy vẫn được phát huy cao độ.
Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng trở thành một truyền thống đạo
đức quý báu của dân tộc, nó trở thành điểm tựa vững chắc về tinh thần, là một
trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Điều này đã được minh chứng trong tồn bộ tiến trình lịch sử của dân tộc Việt
Nam. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Dễ mười lần khơng dân
cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong. Người khẳng định: Đồn kết,
đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành công, đại thành công. Trước khi đi
xa trong Di chúc của mình Người đã căn dặn cán bộ, đảng viên: “Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ
Trung ương cho tới các chi bộ cần phải giữ gìn đồn kết nhất trí trong Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình” [53, tr.510].
Nhận thức được tầm quan trọng, sức mạnh của tinh thần đoàn kết và ý
thức cộng đồng, Đảng ta cũng luôn quan tâm đến xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, giữ vững và phát huy tinh thần đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân.
Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành


19
ngày 17/11/1993 đã phản ánh tập trung sự kế thừa, phát triển truyền thống
đoàn kết của dân tộc ta và chiến lược đại đồn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong điều kiện đổi mới đất nước. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn luôn coi
trọng và kêu gọi phát huy truyền thống đại đồn kết tịan dân tộc.Tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta yêu cầu phải:
Đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung...để
tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng
thuận xã hội. Đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết
hài hịa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội [23, tr.240].

Việc giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, ý thức cộng đồng của
dân tộc Việt Nam ngày hơm nay là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là một động lực tinh thần quan trọng,
tạo nên sự đồng thuận xã hội phấn đấu vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh
1.1.2.3. Truyền thống nhân ái - yêu thương con người
Lòng nhân ái, yêu thương con người cũng là một trong những giá trị đạo
đức truyền thống cao đẹp của dân tộc ta. Truyền thống ấy có nguồn gốc sâu
xa từ sinh hoạt trong công xã nông thôn, được củng cố phát triển trong quá
trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước. Đối với con người Việt Nam, từ
lâu truyền thống nhân ái đã trở thành một nếp nghĩ, một cách sống không thể
thiếu. Tuy nhiên, trong những giai đoạn lịch sử cụ thể truyền thống ấy cũng
được biểu hiện ở những sắc thái khác nhau.
Lòng nhân ái, yêu thương con người là cơ sở quan trọng để thiết lập mối
quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Trước hết nó được thể
hiện trong mối quan hệ gia đình: Trong mỗi gia đình người Việt ta có thể dễ
dàng nhận thấy tình u thương vơ bờ bến của cha mẹ đối với con cái, ln
hết lịng quan tâm, giáo dục con cái, ngược lại con cái phải có trách nhiệm tơn
kính cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi già yếu, anh em thì hết lịng u thương


20
đùm bọc nhau “anh em như thể tay chân”...Truyền thống nhân ái cịn xuất
phát từ tình u q hương đất nước, từ lòng yêu thương con người “thương
người như thể thương thân” của người dân Việt Nam. Vì vậy, người Việt Nam
ln sẵn sàng hy sinh vì đất nước, tình u q hương đất nước gắn bó với
tình u nhân dân lao động, tình đồng bào, đồng chí.
Lịng nhân ái, yêu thương con người của người Việt còn thể hiện ở lịng
vị tha, cao thượng, khơng cố chấp với những kẻ lầm đường, lạc lối. Trong
Bình ngơ đại cáo Nguyễn Trãi đã từng viết:

Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Người Việt Nam ln lấy tình yêu thương làm cách xử thế ở đời, lấy lòng
nhân nghĩa để quy phục người khác. Đối với kẻ thù còn mở đường hiếu sinh
khi chúng thua trận như vua Quang Trung khi đánh bại quân Thanh còn cấp
lương thảo và phương thiện cho đám tàn quân trở về nước. Sau này trong các
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chúng ta cũng ln lấy tinh thần
đó để đối xử với họ, chính điều này đã đem đến sự cảm kích và thức tỉnh
lương tâm của nhiều người lính khi tham gia chiến trận ở Việt Nam.
Lịng nhân ái, yêu thương con người còn thể hiện ở sự u chuộng hịa
bình, khao khát hịa bình khơng chỉ cho dân tộc ta mà cho tất cả các nước trên
thế giới. Trong quan hệ bang giao với các nước láng giềng, nhân dân ta bao
giờ cũng trọng tình hịa hiếu, cố gắng tránh những xung đột dẫn đến đổ máu,
tận dụng mọi cơ hội để giải quyết hịa bình cuộc xung đột giữa nước mình với
các nước khác. Sinh thời Hồ Chủ tịch đã từng nói: Dân tộc ta là một dân tộc
giàu lịng bác ái, và chính Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, bao
dung, yêu thương đó.
Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo lập trường chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lịng nhân ái, bao dung của dân
tộc ta được nâng lên một tầm cao mới. Lý tưởng nhân đạo của giai cấp công
nhân là giải phóng người lao động thốt khỏi chế độ bóc lột, giải phóng các


21
dân tộc bị áp bức, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Vì thế, nó mang
tính cách mạng, khoa học sâu sắc. Đó khơng phải là lịng thương người chung
chung trừu tượng hay là sự ban phát, ban ơn cho kẻ khác mà nó là hành động
cải tạo hiện thực, hành động giải phóng con người, làm cho con người phát
huy hết năng lực của mình. Giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc
thực sự cho con người, nhất là người lao động là mục tiêu của sự nghiệp cách

mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, là ý nghĩa cao cả của chủ nghĩa nhân đạo
mácxít. Một trong những điều kiện cơ bản để giải phóng con người là tạo ra
khả năng con người có được những điều kiện vật chất cần thiết đảm bảo sự
tồn tại và phát triển. Muốn thế, mỗi người Việt Nam phải nỗ lực hết mình
nhất là tầng lớp thanh niên cần thấy rõ vai trò và trách nhiệm của mình trước
tương lai, phải có được thái độ, khát vọng hành động tận tụy vì con người và
tình yêu đối với con người.
Truyền thống nhân ái, yêu thương con người từ lâu đã trở thành một nếp
nghĩ, một giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nó là cái gốc của đạo
đức, khơi dậy trong mỗi con người tinh thần dân tộc, vì nghĩa. Ngày nay,
truyền thống đó đã và đang được Đảng, Nhà nước ta quan tâm gìn giữ và phát
huy bằng hàng loạt các hành động cụ thể. Bằng đường lối lãnh đạo kịp thời,
sáng suốt của Đảng nhiều phong trào đã được khơi dậy, như: “uống nước nhớ
nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, nhiều chương trình hành động vì người nghèo,
từ thiện nhân đạo được quan tâm và thu hút sự tham gia đông đảo của mọi
tầng lớp. Lòng nhân ái, yêu thương con người trở thành cơ sở sâu xa và bền
vững của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày hôm nay.
1.1.2.4. Truyền thống hiếu học, ham hiểu biết, có ý chí vượt khó
Hiếu học, ham hiểu biết, có ý chí vượt khó vượt khổ từ lâu đã trở thành
một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Từ ngàn xưa ông cha ta đã từng dạy
“Không thầy đố mày làm nên”. Đó cũng là một triết lý sống của người Việt, vì
vậy người Việt từ xưa đến nay luôn coi trọng việc học hành, tôn sư trọng đạo.


22
Sớm nhận thức được việc học tập không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ
của mỗi cá nhân, người xưa có câu: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học
bất tri đạo” (Viên ngọc không mài dũa thì khơng thể thành đồ dùng được, con
người khơng học thì khơng biết đạo) và “Hiếu nhân, bất hiếu học kỳ tế dã
ngu” (Kể cả những người mong muốn làm điều nhân đức chí thiện nhưng

khơng học thì cũng bị sự ngu dốt che lấp đi). Vì vậy, học tập luôn được mọi
thế hệ cha anh ta quan tâm cố gắng, dù khó khăn thiếu thốn thì tinh thần ấy
vẫn luôn được phát huy cao độ.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục với truyền thống hiếu
học, tôn trọng hiền tài, ngay từ xưa ông cha ta đã biết bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước. Quốc Tử Giám là một kiểu trường đại học quốc lập đầu tiên ở Việt
Nam được thành lập để đào tạo nhân tài. Trên bia số 1 của văn miếu đã ghi
“Hiền tài là ngun khí của đất nước. Ngun khí thịnh thì thế nước mạnh và
vươn cao, ngun khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi vậy, các đấng
thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn
kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc đầu tiên” [56, tr.19].
Việc nhà nước phong kiến trọng dụng nhân tài, coi trọng sử học, mở ra
con đường thăng tiến xã hội cho người dân bằng học tập và quan niệm học
chữ để làm người phổ biến trong dân gian đã tạo ra động lực cho phong trào
học tập phát triển rộng khắp trong xã hội Việt Nam trước đây, từ đó thái độ
coi trọng sự học được hình thành và ngày càng ăn sâu vào máu huyết của đời
sống cộng đồng người Việt.
Người Việt ta có câu: Mồng một tết cha, mồng hai tết chú, mồng ba tết
thầy, “cơm cha, áo mẹ, nghĩa thầy”, “không thầy đố mày làm nên”. Để con cái
chuyên tâm vào học hành, các bậc cha mẹ rất chú trọng giáo dục con cái nhận
thức được ý nghĩa, lợi ích của sự học, “vàng chất bằng non, chẳng bằng cho
con đi học”, “một kho vàng không bằng một nan chữ”. Cho con đi học từ thủa
ấu thơ, các bậc phụ huynh xưa khơng ít người nghèo khó mà vẫn lo cho con


23
từ cái ăn, cái mặc, nghiên bút thường dùng và khi cần cịn gom góp từng đồng
tiền bát gạo cho con đi trọ học nơi xa. Biết bao người cha, người mẹ Việt
Nam đã tần tảo một nắng hai sương trên đồng sâu, đồng cạn, lo chạy từng
buổi chợ, có khi phải đi làm thuê, làm mướn cho con ăn học. Dòng họ Đào ở

xã Song Khê, Huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (dịng họ của trạng ngun
Đào Sư Tích) là một thí dụ điển hình cho truyền thống hiếu học và coi trọng
sự học của con em mình. Hồ Chúc - người đã nhiều năm đảm nhiệm cương vị
lãnh đạo ngành giáo dục nước ta đã nhận xét:
Nhân dân ta rất hiếu học và đặc biệt coi trọng việc học hành của con
em mình, đồng bào mình. Cách mạng tháng Tám đã phát huy cao
độ truyền thống hiếu học đó, tạo nên khí thế của người dạy và người
học hịa quyện trong khí thế cách mạng của tồn xã hội [11, tr.4].
Biết bao tấm gương vượt khó trong học tập như anh Nguyễn Ngọc Ký - một
người bị liệt cả hai tay từ nhỏ, nhưng đã quyết tâm học tập, tốt nghiệp cử nhân
khoa văn, làm giáo viên dạy văn ở một trường phổ thông. Bằng quyết tâm lớn và
lịng kiên trì, dũng cảm phi thường, anh đã làm điều khó có thể tin là sự thật: Viết
bằng chân lên trang giấy. Anh đã viết như vậy từ khi anh vào lớp vỡ lòng cho đến
khi anh tốt nghiệp đại học. Anh đã đi dạy văn bằng cách viết như vậy mấy chục
năm nay. Những bài thơ anh sáng tác được ghi lại bằng cách viết như vậy. Truyền
hình cịn đưa hình ảnh anh Ký đánh máy vi tính cũng bằng chân.
Phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta rất quan tâm đến công tác giáo dục đào tạo, coi giáo dục đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người phấn đấu cho mục đích là
làm sao “ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học hành”.
Trong “Thư gửi cho học sinh” nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt
Nam độc lập, Bác đã viết: “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
khơng, dân tộc Việt Nam ta có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các


24
cường quốc, năm châu được hay khơng chính là nhờ phần lớn vào công học
tập của các em” [49, tr.23].
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã kêu gọi tồn dân hăng hái tham gia học tập, Chính phủ thành lập
“Hội đồng cố vấn học chính” để nghiên cứu chương trình cải cách giáo dục.
Từ đó nền giáo dục của nước ta từng bước phát triển.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu,
tạo mọi điều kiện cho sự phát triển giáo dục đào tạo. Ngày 2/10/1996 Hội
khuyến học Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất. Gần
đây, tháng 9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1271/QĐ - TTg
lấy ngày 2/10 hàng năm là “Ngày khuyến học Việt Nam” với mục đích động
viên các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội tham gia công tác khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
Việc phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng người hiền tài càng trở
nên có ý nghĩa, tơn trọng trí thức, tơn trọng hiền tài, tôn trọng sáng tạo trên cơ
sở nền tảng đạo đức trong sáng. Như viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu đã khẳng định:
“Hiếu học là truyền thống quý báu từ ngàn xưa của dân tộc ta. Truyền thống
ấy cần được giữ gìn và phát huy trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, bất chấp những sóng gió của kinh tế thị trường” [9, tr.4].
Qua những phân tích trên đây có thể cho ta thấy tinh thân hiếu học, ham
hiểu biết, vượt khó là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta
cần được giữ gìn và phát huy. Đặc biệt cần tuyên truyền trong đội ngũ học
sinh, sinh viên - những thế hệ tương lai của đất nước, những con người đang
và sẽ nắm trong tay vận mệnh của dân tộc.
1.1.2.5. Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo
Tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo cũng là một
trong những giá trị trong hệ giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Trải qua bao đời, ý thức đề cao lao động, chống thói lười biếng đã ăn
sâu vào trong tiềm thức của người dân Việt Nam. Thấu hiểu giá trị của sự kết


25
hợp sức lao động và đất đai, người Việt Nam chú trọng giáo dục, động viên

giúp đỡ nhau trong sản xuất, làm cho tấc đất trở thành tấc vàng. Lao động cần
cù, sáng tạo là nguồn gốc của mọi của cải và hạnh phúc.
Lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất là yếu tố quyết định nhằm
duy trì cho sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc và của lồi người nói
chung. Đối với Việt Nam do hoàn cảnh tự nhiên cũng như điều kiện lịch sử
kinh tế - xã hội của mình để tạo ra của cải vật chất người dân lao động cần
không ngừng phấn đấu, hăng say, cần cù, chịu khó trong công việc. Việt Nam
vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, về tự nhiên bên cạnh những ưu đãi về tài
ngun, khống sản thì nước ta cũng liên tục xảy ra thiên tai, lũ lụt; về xã hội thì
chiến tranh xảy ra liên miên khiến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp
kém. Trong hoàn cảnh ấy những người dân Việt Nam vẫn kiên trì bám đất, bám
làng, vừa sản xuất vừa chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhờ có đức tính cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo mà nhân dân ta
đã vượt qua bao nhiêu khó khăn, thử thách để tự khẳng định mình, đưa đất
nước từng bước di lên. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, lao động chủ
yếu là thủ công “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, vì vậy để có được hạt
thóc, người nơng dân Việt Nam phải một nắng hai sương, “bán mặt cho đất,
bán lưng cho trời”, những hình ảnh ấy đã được phản ánh trong những câu ca
dao của dân tộc như: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu; Chồng cày, vợ cấy, con
trâu đi bừa”. Ông cha ta cũng dặn rằng: "giàu đâu những kẻ ngủ trưa, sang
đâu những kẻ say sưa tối ngày”. Muốn có cơm ăn, muốn có cuộc sống tốt thì
cần phải lao động và lao động một cách hăng say, chịu thương, chịu khó.
Bởi lao động rất vất vả nên ông cha ta rất quý trọng thành quả của lao
động và thường dạy con cháu rằng” Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một
hạt đắng cay muôn phần”. Hơn nữa, thiên tai lũ lụt liên tục xảy ra nên từ xa
xưa người dân Việt Nam đã sớm phải đương đầu với khó khăn quanh năm đắp
đê chống lụt, đào mương dẫn nước để “nghiêng đồng đổ nước ra sông” rồi lại



×