1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng
và rèn luyện Đảng ta thành một Đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu
sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lãnh
đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong di sản tư tưởng
mà Hồ Chí Minh để lại, những quan điểm của Người về xây dựng Đảng là
một nội dung cực kỳ quan trọng, định hướng cho đường lối lãnh đạo của
Đảng ta trong mọi thời kỳ cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng được
một đảng chính trị - Đảng Cộng sản có đủ khả năng lãnh đạo và đưa cách
mạng đến thành công, vấn đề cốt lõi là Đảng phải xây dựng được một hệ
thống cơ sở trong sạch, vững mạnh. Người nói: Nếu chi bộ, cơ sở vững mạnh,
trong sạch, mọi đường lối, chính sách, chỉ thị của Đảng để đấu tranh, kháng
chiến, kiến quốc đều được thực hiện thành công. Trái lại, nếu chi bộ cơ sở yếu
kém, khơng thuần khiết thì chi bộ sẽ tan rã, công tác cách mạng sẽ thất bại.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo những quan điểm của Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng, Đảng ta luôn quan tâm đến việc nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là cơ sở đảng ở xã. Bởi lẽ, ở
nước ta hiện nay, gần 70% dân số sống bằng nông nghiệp, nông thôn - địa bàn
của tổ chức cơ sở đảng ở xã. Số lượng đảng bộ xã ở nước ta hiện nay chiếm
khoảng 20% tổng số tổ chức cơ sở đảng nhưng chiếm gần 60% tổng số đảng
viên của toàn Đảng. Tổ chức cơ sở đảng cấp xã là nền tảng của Đảng nối liền
Đảng với quần chúng; là nơi giáo dục, rèn luyện, sàng lọc đảng viên; nơi trực
tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn cuộc sống và lãnh đạo,
tổ chức đảng viên, quần chúng thực hiện đường lối ấy. Hiện nay, trong điều
kiện Đảng lãnh đạo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc tế và đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, trong đó xác định cơng nghiệp hóa, hiện
2
đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn là nhiệm vụ hàng đầu, thì việc quan tâm củng
cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của các đảng bộ xã là một nhiệm vụ rất quan
trọng và là yêu cầu cấp bách.
Tuy nhiên, so với thực trạng và yêu cầu đặt ra của thời kỳ mới thì chất
lượng các đảng bộ xã thuộc tỉnh đảng bộ Bạc Liêu vẫn còn nhiều hạn chế,
nhất là trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng nghị quyết, chủ trương;
năng lực cụ thể hoá, giải pháp tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên vào thực tế địa bàn cơ sở. Một số đảng bộ còn lúng túng trong lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị; chưa đủ sức giải quyết tốt những
vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở; chưa thực hiện đầy đủ sự lãnh đạo đối với
chính quyền và các đồn thể; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của
các bộ phận, các tầng lớp nhân dân vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội,
kiến thiết nông thôn. Chất lượng sinh hoạt đảng, đấu tranh tự phê bình và phê
bình cịn hạn chế, đơi khi mang tính hình thức. Việc đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm ở một số cơ sở chưa đúng thực chất,
vẫn cịn biểu hiện chạy theo thành tích…
Những hạn chế, bất cập trên do nhiều nguyên nhân, nhưng một trong
những nguyên nhân quan trọng là chưa nhận thức đầy đủ, chưa vận dụng một
cách sáng tạo và phù hợp các giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
nói chung, xây dựng tổ chức cơ sở đảng nói riêng vào thực tiễn hiện nay. Vì
vậy, tìm hiểu, nghiên cứu, góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng tổ chức cơ sở đảng, để từ đó vận dụng vào việc nâng cao chất lượng tổ
chức cơ sở đảng cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng và cấp bách. Với ý nghĩa đó, tơi chọn đề tài “Nâng cao chất
lượng tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay theo quan điểm
Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ khoa học chính trị, chun
ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, trên phạm vi cả nước đã có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói chung, xây dựng tổ chức cơ
3
sở đảng nói riêng. Các cơng trình đã được nghiên cứu bằng nhiều cách tiếp
cận khác nhau, dưới góc độ của các chun ngành khoa học khác nhau.
Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu được công bố trong thời gian gần
đây có thể kể đến như:
* Một số cơng trình đề tài nghiên cứu
- Đề tài khoa học cấp bộ, Nguyễn Minh Bích (1998), Thực trạng và
những yêu cầu xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn một số tỉnh miền
núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện nay”. Đề tài tập trung phân tích thực
trạng tổ chức cơ sở đảng và xây dựng một số giải pháp để củng cố và kiện
toàn các tổ chức cơ sở đảng ở vùng núi, cao phía Bắc Tổ quốc.
- Nguyễn Đức Hà (2010), Một số vấn đề về xây dựng tổ chức cơ sở
đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả nêu ra những yêu cầu
về nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; về
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng;
về đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm; về
một số vấn đề về thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ
tịch uỷ ban nhân dân;…
Ngồi ra cịn có các cơng trình đề tài nghiên cứu: GS. Đặng Xuân Kỳ
(chủ nhiệm) (2005), Chương trình nghiên cứu KX 03, Xây dựng Đảng trong
điều kiện mới; Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh (2001), Cơng tác xây dựng
Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, Nxb
Lao động, Hà Nội; Nguyễn Quốc Bảo (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng, Nxb Lao động, Hà Nội; Đặng Xuân Kỳ, Mạch Quang Thắng,
Nguyễn Văn Hoà (Đồng chủ biên) (2005), Một số vấn đề về xây dựng Đảng
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh
(2005), Một số vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb Lao động, Hà Nội; Thanh Quang (2009), Vận dụng và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng, Nxb Văn hố Thơng tin… Các chương trình đề tài nghiên cứu trên đã trình bày, phân tích
4
những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, về bản chất của Đảng Cộng sản, về năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng nói chung, của tổ chức cơ sở đảng nói riêng. Trong đó có đề
cập đến vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng và những sáng tạo của Người
về nội dung, hình thức, cách tiến hành củng cố, kiện tồn, phát huy vai trị
của tổ chức cơ sở đảng, xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, nhằm góp
phần nâng cao vai trị lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng trong quá trình cách
mạng Việt Nam.
* Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ như:
- Đề tài luận án phó tiến sĩ về “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng
ở nông thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh
(1995). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng và đề ra
những giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bằng
sông Hồng.
- Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nơng thơn vùng
cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước”. Tác giả tập trung làm những rõ cơ sở lý luận và thực trạng năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu, từ đó tác giả đưa ra những những giải pháp cơ bản
để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở
nông thôn vùng cao phía Bắc.
- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Lê Quốc Khởi (2006), Chất lượng các đảng bộ xã ở
tỉnh Bạc Liêu giai đoạn hiện nay. Dưới góc độ chuyên ngành Xây dựng Đảng,
tác giả tập trung nghiên cứu chất lượng 48 đảng bộ xã thuộc đảng bộ 7 huyện,
thị từ năm 2001 đến năm 2006 và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao
chất lượng các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu.
- Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Dương
Huỳnh Khải (2008), Chất lượng lãnh đạo của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau
5
trong giai đoạn hiện nay để viết luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên
ngành Xây dựng Đảng. Tác giả đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn
của vấn đề nghiên cứu đồng thời phân tích, đánh giá đúng thực trạng về chất
lượng của các đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay. Từ đó, xác định phương
hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng của các
đảng bộ xã ở tỉnh Cà Mau trong giai đoạn hiện nay.
Một số luận văn thạc sĩ có liên quan đến đề tài: Phùng Đức Thái (2000),
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng ở
xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay; Nguyễn Văn Dũng (2000), Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh
Long An hiện nay; Dương Trung Ý (2002), Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai
đoạn hiện nay; Nguyễn Thị Lương Uyên (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện nay; Đặng Ngọc Bắc (2011), Xây dựng
tổ chức cơ sở đảng khối cơ quan tỉnh Quảng Bình hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh... Những luận văn trên đã nghiên cứu, phân tích tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng, đồng thời vận dụng vào xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các đảng
bộ xã, phường, quận, nơng thơn,… trong thời kỳ mới.
* Các cơng trình nghiên cứu cơng bố trên tạp chí
Đã có rất nhiều các chun luận, cơng trình nghiên cứu về cơng tác xây
dựng Đảng và xây dựng tổ chức cơ sở đảng của nhiều tác giả được cơng bố
trên các tạp chí, như: "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị, vị trí, chức
năng của tổ chức cơ sở đảng", Nguyễn Xn Thơng (2006), Tạp chí Cộng sản
(9). "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh tồn dân tộc đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển", Nơng Đức Mạnh (2006), Tạp chí xây dựng Đảng (5).
“Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên năm
6
qua và hướng tới”, Nguyễn Đơng Sương (2006) Tạp chí Xây dựng Đảng
(1+2). “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt tư tưởng của đảng
viên ở các tổ chức cơ sở đảng”, Đinh Xuân Đặng (2007), Tạp chí Tư tưởng
văn hố (9). "Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong
thời kỳ mới", Trương Thị Mỹ Trang (2007), Tạp chí Xây dựng Đảng (2 + 3).
"Biện pháp xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh", Vũ Cao Hội (2007), Tạp
chí kiểm tra (2). "Vấn đề đánh giá tổ chức cơ sở đảng hiện nay", Bùi Đức Lại
(2009), Tạp chí xây dựng Đảng (5). "Tiếp tục cụ thể hoá và thực hiện Nghị
quyết Trung ương sáu về tổ chức cơ sở đảng và đảng viên", Nguyễn Đức Hà
(2009), Tạp chí xây dựng Đảng (1 + 2). "Xây dựng chi bộ theo tư tưởng Hồ
Chí Minh", Trần Minh Trưởng (2010), Tạp chí xây dựng Đảng (1). "Nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới", Trần Lưu
Hải (2010), Tạp chí xây dựng Đảng (2 + 3). “Về năng lực và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng”, Lâm Sỹ Nghĩa (2011), Tạp chí xây dựng Đảng (7).
“Một số vấn đề nâng cao chất lượng lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng”, Trần Thu Phương (2012), Tạp chí Lao động và
cơng đồn (502).
Các cơng trình nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về cơng tác xây dựng Đảng, trong đó cơng tác xây dựng tổ chức
cơ sở và vận dụng tư tưởng đó vào việc xây dựng Đảng trong tình hình mới.
Cho đến nay chưa có đề tài, bài viết nào đề cập đến việc nâng cao chất lượng
tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu theo tư tưởng Hồ Chí Minh .
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong quan điểm Hồ Chí Minh về tổ
chức cơ sở đảng và vận dụng quan điểm đó vào việc xây dựng tổ chức cơ sở
đảng cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ nội dung cơ bản của quan điểm Hồ Chí Minh về tổ chức cơ sở đảng.
7
- Đánh giá thực trạng công tác xây dựng các tổ chức cơ sở đảng cấp xã
thuộc Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu hiện nay theo quan điểm Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng các tổ
chức cơ sở đảng cấp xã thuộc Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu hiện nay theo quan điểm
của Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về tổ chức cơ sở đảng.
- Thực trạng vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng cấp xã thuộc Đảng bộ
tỉnh Bạc Liêu hiện nay và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất
lượng các tổ chức cơ sở đảng cấp xã thuộc Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức cơ
sở đảng, được thể hiện qua các tác phẩm, bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu chất lượng tổ chức cơ sở đảng cấp xã thuộc Đảng bộ tỉnh
Bạc Liêu từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của xây dựng Đảng của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chính sách của Nhà nước, văn bản, nghị quyết về công tác xây
dựng Đảng của tỉnh Bạc Liêu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng; phương pháp lịch sử - lơgíc; phương pháp phân tích - tổng hợp,
so sánh; tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ những nội dung của đề tài.
8
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng
tổ chức cơ sở đảng, luận văn đánh giá thực trạng, đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở Đảng bộ tỉnh
Bạc Liêu hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm sáng tỏ thêm quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức
cơ sở đảng; vận dụng vào việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng cấp xã
thuộc Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu,
giảng dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận văn góp phần tham mưu cho đảng bộ tỉnh nói chung và đảng bộ
cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu nói riêng trong việc xây dựng, nâng cao chất lượng tổ
chức cơ sở đảng cấp xã thuộc Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
lục, luận văn được kết cấu gồm 2 chương, 8 tiết.
9
Chương 1
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Khái niệm Tổ chức cơ sở đảng lần đầu tiên được diễn đạt một cách
tương đối đầy đủ tại Đại hội III của Đảng công nhân Dân chủ - xã hội Nga
(25/04/1905): “Mỗi tổ chức Đảng cho tới chi bộ công nhân cơ sở của Đảng
phải được xác định những thành phần và nhất định phải ổn định những mối
liên hệ đều đặn với Trung ương” [30, tr.217]. Sau đó, trong bài Tiến tới thống
nhất V.I.Lênin chỉ rõ: “Những điều kiện khách quan địi hỏi rằng những chi
bộ cơng nhân phải làm cơ sở của Đảng” [29, tr.251 - 259]. Tại Hội nghị lần
thứ VIII toàn Nga của Đảng Cộng sản (b) Nga (12/1919), Hội nghị đầu tiên
sau khi chính quyền Xơ Viết được thành lập, đã xem xét Điều lệ Đảng và
thêm vào điều khoản sau: Cơ sở của tổ chức Đảng là chi bộ Đảng. Điều lệ
còn thể hiện rõ: các chi bộ được thành lập ở các xí nghiệp, các làng, các đơn
vị Hồng quân và các cơ quan.
Như vậy, xét về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập khá đầy
đủ quan niệm về tổ chức cơ sở đảng. Tổ chức cơ sở đảng được hiểu là toàn bộ
các cơ sở của tổ chức Đảng (chi bộ, đảng bộ cơ sở), cũng là nơi để triển khai
toàn bộ hoạt động của Đảng.
Hồ Chí Minh khơng đưa ra khái niệm trực tiếp về tổ chức cơ sở đảng,
nhưng cũng thống nhất với quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tác
phẩm Thường thức chính trị, mục 44, Người chỉ dẫn: “ở mỗi xưởng máy, hầm
mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, nơng thơn, đại đội - có 3 đảng
viên trở lên thì lập một chi bộ. Chi bộ là đồn luỹ của Đảng chiến đấu trong quần
chúng”. Người còn chỉ rõ: “mỗi chi bộ có thể chia làm mấy tiểu tổ, để công tác
cho dễ. Nhưng không nên chia nhiều tiểu tổ quá. Nơi nào đảng viên quá đông (ở
nông thôn quá 50, ở nhà máy, cơ quan,…quá 100 đảng viên) thì có thể lập Tổng
chi bộ, dưới Tổng chi bộ, lập mấy Phân chi bộ” [46, tr.288].
10
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, tổ chức cơ sở đảng là một tổ
chức cơ sở của Đảng được lập tại các đơn vị cơ sở, gắn liền với một cơ quan,
đơn vị. Cụ thể hơn, các tổ chức cơ sở đảng chính là đảng bộ, chi bộ cơ sở, là
cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng.
Trên cơ sở hướng dẫn của Người, Đảng ta đưa ra khái niệm về tổ chức
cơ sở đảng như sau:
1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở), là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ 3 đảng viên chính thức trở lên, lập tổ
chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh
nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và
các đơn vị khác có từ 3 đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức
đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp
uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định tổ chức đảng đó trực thuộc
cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính
thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ
chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có
các tổ đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ
cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
5. Những trường hợp sau đây, cấp uỷ cấp dưới phải báo cáo và
được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng viên
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở [21, tr.35-36].
Như vậy, khái niệm tổ chức cơ sở đảng đã được đưa ra từ rất sớm và
được gọi chung cho tất cả đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở tuỳ thuộc vào số
lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở.
11
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Học thuyết về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã khẳng
định: tổ chức cơ sở của Đảng Cộng sản dù quy mơ như thế nào, thuộc loại
hình nào đều là một khâu quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động lãnh
đạo cách mạng của Đảng.
Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: giai cấp cơng nhân phải xây dựng một
chính đảng có tổ chức thống nhất, độc lập và phải “biến mỗi chi bộ của mình
thành trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân” [36, tr.348]. Trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trên lĩnh vực tổ chức, để tiến hành xây
dựng chính đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp cơng nhân. V.I.Lênin đã
phát triển tư tưởng đó trong nhiều tác phẩm viết trước Cách mạng Tháng
Mười Nga. Người cho rằng, các nhà máy, công xưởng nơi tập trung giai cấp
cơng nhân là thành trì của cách mạng. Do vậy, Đảng phải thiết lập cơ sở của
mình và ở đây “nhóm những nhà cách mạng - cơng nhân nhất định cũng phải
là hạt nhân và người lãnh đạo” [36, tr.17].
Với sự phát triển của cách mạng và đặc biệt sau khi Đảng Cộng sản (b)
Nga trở thành đảng cầm quyền, với vai trị là lãnh tụ chính trị của toàn xã hội,
các tổ chức cơ sở của Đảng được thành lập không chỉ trong các nhà máy,
công xưởng mà còn ở tất cả các đơn vị cơ sở trong hệ thống tổ chức xã hội.
V.I.Lênin viết:
Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng
phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm cơng tác cổ động,
phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại
và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thơng qua
cơng tác mn hình, mn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện
đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống [31, tr.232 - 233].
Vai trò của các tổ chức cơ sở đảng càng đặc biệt quan trọng ở thời kỳ
Đảng tập trung lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế. Theo V.I.Lênin, các
12
chi bộ của Đảng phải là những pháo đài trên mặt trận này và có trách nhiệm
“đem hết sức lực, đem hết sự chú ý để tạo ra, để phát huy một tính chủ động
lớn hơn ở cơ sở” [32, tr.279]. Người cho rằng bằng nhiều biện pháp nâng cao
vai trị của tổ chức cơ sở đảng, phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở thì
những nhiệm vụ, mục tiêu của chính sách kinh tế của Nhà nước Xơviết mới
thành hiện thực.
Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng khơng chỉ được tìm thấy trong các
di sản lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn được
minh chứng bằng những kết quả hoạt động thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản
và hoạt động lãnh đạo cách mạng vô sản của các ơng. Những chỉ dẫn đó trở
thành định hướng cho việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng của các đảng cộng
sản trên thế giới.
Khẳng định tính đúng đắn trong di sản lý luận của các nhà kinh điển
chủ nghĩa xã hội khoa học về vị trí vai trị của tổ chức cơ sở đảng, Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý nêu trên vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Trong quá trình trực tiếp tổ chức và lãnh đạo Đảng ta, Người luôn
quan tâm vấn đề xây dựng hạt nhân chi bộ, nâng cao vị trí, vai trò của tổ chức
cơ sở đảng. Bởi lẽ, theo Hồ Chí Minh, chất lượng của tổ chức cơ sở đảng là
một trong những nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ sở.
Là người nắm chắc các nguyên lý mácxít về xây dựng Đảng, Hồ Chí
Minh đã có quan niệm chuẩn xác về vị trí của tổ chức cơ sở đảng. Người
khẳng định: Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài. Sức mạnh của
Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp
công nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt
chẽ, có tính kỷ luật cao. Sức mạnh của các tổ chức liên quan chặt chẽ với
nhau. Trong các tổ chức đảng phải tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ, coi
đó là xương sống chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng. Điều này đòi hỏi tổ chức
cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, chống mọi biểu hiện
13
bản vị gia trưởng, địa phương cục bộ…Điều đó cũng đòi hỏi chế độ sinh hoạt
dân chủ trong Đảng Cộng sản, tạo tiền đề cho dân chủ xã hội.
Nói về vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “chi bộ là gốc rễ của Đảng” [46, tr.288]. Điều đó cho thấy tổ
chức cơ sở đảng có vai trị là “nền tảng”, là cơ sở để xây dựng nên toàn bộ hệ
thống tổ chức của Đảng, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, bám sát các đơn vị cơ
sở trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng tới từng thành viên, từng đơn vị cơ sở và từng người
dân. Vai trò là “gốc rễ”, “nền tảng” của tổ chức cơ sở đảng còn được thể hiện
là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào phong
trào cách mạng của quần chúng, đồng thời cũng là nơi thực hiện kiểm nghiệm
và góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong
phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân.
Tổ chức cơ sở đảng cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây
dựng nội bộ Đảng như: kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh
giá đảng viên, nơi thường xuyên thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt của Đảng; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Chất lượng tổ chức cơ sở đảng do đó có ảnh hưởng lớn đến chất lượng nội bộ
Đảng; Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải
mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt” [53, tr.113]. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh,
“chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc
đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì cơng việc khơng trơi chảy”
[52, tr.193]. Mặt khác, Người còn chỉ rõ: “chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”,
“đảng viên tốt thì chi bộ tốt”. Tức là, giữa chi bộ và đảng viên có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Chất lượng đảng viên quyết định đến chất lượng chi bộ. Chi
bộ cũng chính là mơi trường giáo dục, rèn luyện của đảng viên.
Tổ chức cơ sở đảng còn là cầu nối Đảng với quần chúng nhân dân, là
một mắt khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ Đảng với dân - nền tảng sức
14
mạnh của Đảng, bởi đây là tổ chức đảng gần nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân
và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh với Đảng. Hồ Chí
Minh dạy rằng: “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng vì nó là sợi dây
chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng” [46, tr.288]. Người yêu cầu: “Mỗi
chi bộ đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt
chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ
đại của quần chúng” [52, tr.28].
Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở, bởi tổ chức cơ sở
đảng là một thành tố của hệ thống chính trị ở đơn vị cơ sở, nhưng là bộ phận
quan trọng nhất, đóng vai trò trung tâm lãnh đạo đối với cả hệ thống chính trị
đó, đảm bảo cho hoạt động ở cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng,
quyết định xu hướng vận động và phát triển của cơ sở trong hoạt động của
đảng trên mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, Người nhấn mạnh: “Muốn làm
nhà cho tốt phải xây nền cho vững. Muốn thực hiện kế hoạch tốt phải chăm lo
củng cố chi bộ” [51, tr.25]. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị tổng kết 3 năm
xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “bốn tốt” (4/1946), Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Đối với Đảng ta, xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững mạnh là một việc vơ
cùng quan trọng. Điều đó chúng ta đều hiểu rõ” [53, tr.98].
Như vậy, trong hệ thống tổ chức đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai
trị của tổ chức cơ sở đảng. Người đã xác định vai trò của chi bộ trong ba loại
quan hệ chủ yếu, trong sự tương tác giữa chi bộ với các đối tượng khác:
Một là, đối với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân quyết định
chất lượng lãnh đạo của Đảng. Theo Người, “cần phải ra sức củng cố các chi
bộ”, để tất cả các chi bộ trở nên thực sự là hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở mọi
bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi” [51, tr.30].
Hai là, quan hệ giữa chi bộ và đảng viên. Chất lượng đảng viên quyết
định chất lượng chi bộ, chi bộ là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là
nơi giám sát đảng viên. Hồ Chí Minh xác định: “Đảng viên tốt thì chi bộ mới
tốt. Muốn đảng viên tốt thì chi bộ phải thường xuyên giáo dục mọi đồng chí.
15
Nhiệm vụ của đảng viên là gì? Tư cách của đảng viên là thế nào? Đồng thời
giúp đỡ đảng viên hằng ngày tự kiểm điểm mình” [53, tr.101].
Ba là, vai trò của chi bộ các khu vực dân cư, địa bàn sinh sống, trong
quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Trong vấn đề này, những chỉ dẫn của Hồ
Chí Minh có giá trị lâu dài.
Vận dụng quan điểm trên của Hồ Chí Minh, dù ở bất kì giai đoạn cách
mạng nào, Đảng ta luôn coi tổ chức cơ sở đảng là những đơn vị chiến đấu cơ
bản, những tế bào của Đảng, là nền tảng trên đó Đảng được xây dựng vững
chắc và thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với cách mạng Việt Nam. Từ thực
tiễn xây dựng tổ chức cơ sở đảng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(12/1986) đã rút ra bài học: “Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng
được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn
đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng”.
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta giành được
những thành tựu to lớn, quan trọng. Đạt được những thành tựu đó là do Đảng
ta có đường lối đúng đắn và việc áp dụng vào thực tiễn có hiệu quả, trong đó
tổ chức cơ sở đảng đóng một vai trị quan trọng.
1.3. NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CƠ
SỞ ĐẢNG
1.3.1. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Để tổ chức cơ sở đảng thực hiện tốt vai trị chức năng của mình là nền
tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nhiệm vụ
chung cho tất cả các loại hình tổ chức cơ sở đảng, mà trên cơ sở đó còn chỉ ra
những nhiệm vụ cụ thể cho từng loại hình cơ sở đảng.
Về nhiệm vụ chung, Hồ Chí Minh xác định:
Nhiệm vụ của chi bộ là:
- Luôn luôn tuyên truyền cho nhân dân và tổ chức nhân dân để thực
hiện khẩu hiệu và chính sách của Đảng.
16
- Luôn luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân và kịp thời
báo cáo cho cấp trên biết rõ.
- Luôn luôn quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị và văn hố của
nhân dân, đồng thời giáo dục nhân dân, tổ chức nhân dân để giải
quyết các vấn đề cho nhân dân
Chỉ có làm đầy đủ những cơng việc ấy, thì Đảng mới liên hệ chặt
chẽ với quần chúng.
- Chọn lọc đảng viên mới cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Chi bộ
cần thường xuyên giáo dục quần chúng, bồi dưỡng những phần tử
hăng hái, nâng cao trình độ giác ngộ của họ đến tiêu chuẩn đảng
viên. Khi giới thiệu họ vào Đảng, thì phải hết sức cẩn thận.
- Chi bộ phải hiểu rõ lý lịch, mặt mũi chính trị, trình độ giác ngộ, ưu
điểm và khuyết điểm của mỗi đảng viên cũ. Phải đôn đốc họ học tập
và tham gia mọi công tác của Dảng.
Đối với những phần tử xấu chui vào trong Đảng, chi bộ phải điều tra
nghiên cứu cẩn thận, cùng với chính quyền và quần chúng tẩy trừ họ
ra. Trách nhiệm của chi bộ là chấp hành kỷ luật của Đảng [46, tr.288].
Trên cơ sở nhiệm vụ chung, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhiệm vụ cụ
thể cho từng loại hình cơ sở đảng, phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của từng
đơn vị cơ sở:
Đối với tổ chức cơ sở đảng ở các cơ quan, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chi
bộ phải là động lực của mỗi cơ quan”. Bởi vậy, theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ
của chi bộ là: Làm cho toàn thể nhân viên đều cố gắng thực hiện đầy đủ chính
sách của Đảng, của Chính phủ và hết lòng hết sức phụng sự nhân dân; làm
cho mọi người thực hành cần, kiệm, liêm, chính; tẩy trừ những bệnh quan
liêu, hình thức, tham ơ, lãng phí, a dua, dối trá, trái luật lệ của Chính phủ, trái
kỷ luật lao động. Vạch rõ các khuyết điểm và đề ra cách sửa chữa, không để
khuyết điểm nhỏ chồng chất thành khuyết điểm to; tăng cường giáo dục chính
trị và học tập nghề nghiệp của nhân viên. Chăm sóc giúp đỡ cho mỗi một
17
người tiến bộ; giải thích cho mọi người hiểu thấu chính sách của Đảng, của
Chính Phủ, khuyến khích mọi người đề nghị ý kiến để thực hiện đầy đủ
những chính sách ấy. Làm cho mọi người đều thể hiện rõ nhiệm vụ vẻ vang
của mình, bất kỳ ở địa vị nào, làm cơng việc gì đều vì nhân dân, vì Tổ quốc
mà đấu tranh, đều thi đua làm đúng những nghị quyết và kế hoạch của Đảng,
của Chính phủ [46, tr.453].
Để thực hiện được những nhiệm vụ trên, theo Hồ Chí Minh, thì mỗi
một đảng viên phải xung phong làm mọi việc, phải thật thà đoàn kết và giúp
đỡ anh em ngoài Đảng, phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan, “phải
luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê
bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em”, ngăn
cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ
đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ” [46, tr.453 - 454].
Đồng thời, Người cũng nhắc nhở chi bộ phải dùng cách chính trị, giáo dục, đề
nghị, giải thích, khai hội bàn bạc với quần chúng… tuyệt đối không được lạm
quyền, mệnh lệnh, phải nhớ rằng: Chi bộ là một tổ chức lãnh đạo chính trị,
chứ khơng phải là một tổ chức hành chính [46, tr.453 - 454].
Đối với tổ chức cơ sở đảng trong các nhà máy, xí nghiệp, Hồ Chí Minh
yêu cầu: “Phải chú trọng công tác phát triển đảng viên”, “phải chăm lo bồi
dưỡng và phát triển những cơng nhân có đủ tiêu chuẩn vào Đảng và Đoàn.
Đảng uỷ phải chú trọng bồi dưỡng và cân nhắc cán bộ nữ”. Người nhấn
mạnh: “công nhân bây giờ làm chủ, không phải đi làm thuê như trước, phải
khéo tổ chức công nhân tham gia quản lý nhà máy”, “phải lắng nghe sáng
kiến và lời phê bình của công nhân, phải thật sự dựa vào công nhân, đi đúng
đường lối của quần chúng, nắm vững chính sách của Đảng” [50, tr.128].
Đối với tổ chức cơ sở đảng ở nơng thơn, Hồ Chí Minh đã nêu ra những
u cầu cụ thể trong công tác xây dựng chi bộ ở nông thôn trở thành một chi
bộ tốt. Người nêu rõ, chi bộ tốt ở nông thôn "là chi bộ mà chấp hành tốt các
chính sách của Đảng; đi đúng đường lối quần chúng, củng cố và phát triển
18
hợp tác xã nông nghiệp, không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân, đảng
viên gương mẫu và được dân tin, dân phục, dân yêu” [51, tr.37].
Theo Hồ Chí Minh, ở các tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, do trình độ
đảng viên, tính chất cơng việc, địa bàn sinh hoạt…khác với chi bộ cơ quan,
cho nên, cách tổ chức, điều hành hay tổ chức sinh hoạt chi bộ cũng khác nhau.
Người cho rằng: “giáo dục chi bộ và cốt cán ở nông thôn là một việc rất quan
trọng và cần kíp", đội ngũ cốt cán ở nơng thơn "cần phải học tập, để làm cho
đảng viên và cốt cán tư tưởng thơng, lập trường vững, làm đúng chính sách
của Đảng và Chính phủ, đi đúng đường lối quần chúng. Học tập càng khá, thì
giải quyết các vấn đề càng dễ dàng, cơng việc càng trơi chảy". Người cịn
nhắc nhở Trung ương, khu và tỉnh ra sức lãnh đạo, giúp đỡ, đôn đốc, kiểm tra
việc giáo dục. Dạy dần dần từ ít đến nhiều, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao.
Không tham nhiều, không nhồi sọ. Dạy một cách thiết thực, Lý luận gắn chặt
với thực hành. Cán bộ huyện và xã thì vừa học vừa dạy. Giáo dục theo cách
ấy, thì nhất định làm được.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trị “cốt cán" ở nơng thơn. Người cho
rằng họ không những là “cái khâu liên hệ” để gắn liền Đảng với quần chúng,
làm cho quần chúng quây quần xung quanh Đảng, mà còn là “cái kho dồi dào
cho Đảng lấy thêm lực lượng mới”. Vì vậy, theo Người, nếu cốt cán được
phát triển và củng cố, thì Đảng sẽ phát triển và củng cố. Nếu khơng có cốt
cán, thì Đảng sẽ khơ héo… [46, tr.467 - 468]. Do đó, Người ln mong rằng
các cấp uỷ và các ban tuyên huấn có kế hoạch thiết thực để thực hiện việc
giáo dục cho họ [46, tr.467 - 468].
Người cịn u cầu cơng tác lãnh đạo của chi bộ phải sát với nhiệm vụ
chuyên môn sản xuất hàng ngày, chi bộ phải “lãnh đạo dân chủ, đi sâu đi sát,
mọi việc đều bàn bạc với xã viên, vì vậy xã viên càng có tinh thần tập thể,
tinh thần làm chủ nông thôn và hăng hái lao động sản xuất” [51, tr.37]. Người
chỉ rõ: “chi bộ trong xã phải thiết thực lãnh đạo, giúp đỡ tổ đổi công. Tổ đổi
19
công tốt hay xấu, chi bộ phải phụ trách phần lớn” [47, tr.467], “chi bộ nào tốt
là hợp tác xã đó tốt, bởi vì chi bộ lãnh đạo hợp tác xã” [51, tr.250].
Như vậy, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã xác định rõ chức năng, nhiệm vụ
của tổ chức cơ sở đảng nói chung và nhiệm vụ của từng loại hình cơ sở nói
riêng. Đây cũng chính là cơ sở, là định hướng để Đảng ta xác định chức năng,
nhiệm vụ của các loại hình cơ sở đảng trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng.
Trên cơ sở những lời giáo huấn của Hồ Chí Minh, trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Đảng ta xác định tổ chức cơ sở
đảng có 5 nhiệm vụ chính:
1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ đó một cách có hiệu quả. Nhiệm vụ
chính trị được đề ra vừa quán triệt đường lối cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, vừa phù hợp với thực tế từng đơn vị cơ sở.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững vàng về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ;
nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê
bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng;
thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên,
nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ
kiến thức, năng lực cơng tác; làm tốt cơng tác phát triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính,
sự nghiệp, quốc phịng, an ninh và các đồn thể chính trị - xã hội
trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; lãnh đạo
nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
20
5. Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra
tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng [21, tr.39 - 40].
Thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ này, tổ chức cơ sở đảng mới thực sự
trở thành hạt nhân chính trị của xã hội, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, là
môi trường để giám sát, giáo dục và rèn luyện đảng viên.
1.3.2. Phương thức hoạt động của tổ chức cơ sở đảng
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ
chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của
Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao.
Hồ Chí Minh có quan niệm tổng thể, có giá trị phổ biến về hệ thống tổ
chức đảng, bao gồm các cơ quan từ Trung ương đến cơ sở. Cơ quan lãnh đạo
cao nhất của Đảng là Toàn quốc Đại biểu Đại hội. Trong khoảng từ Đại hội
này đến Đại hội khác, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Trung ương.
Trung ương không thể ngày ngày khai hội. Để lãnh đạo mọi cơng tác,
Trung ương cử ra Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Để chỉ đạo những địa phương ở xa, Trung ương có thể họp Tồn quốc
đại biểu hội nghị. Hội nghị có quyền: quyết định chính sách trước mắt của
Đảng; cử thêm một số uỷ viên Trung ương mới, hoặc cách chức uỷ viên nào
khơng làm trịn nhiệm vụ. Những nghị quyết của Hội nghị phải có Trung
ương phê chuẩn mới được thi hành.
Các cấp xã, huyện, tỉnh, khu cũng có đại hội của cấp mình; do đại hội cử
ra chi uỷ, huyện uỷ, tỉnh uỷ, khu uỷ [46, tr.288].
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chủ
động, sáng tạo ra những hình thức tổ chức bộ máy phù hợp với đặc điểm
tình hình ở Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đa số
trong dân chúng, giai cấp cơng nhân cịn nhỏ yếu. Người cũng đã nhạy bén
đưa ra những quyết định sáng suốt về hình thức tổ chức bộ máy, phương
thức lãnh đạo, cũng như hoạt động của Đảng. Việc “Đảng tuyên bố tự giải
21
tán, nhưng sự thật là Đảng rút vào hoạt động bí mật” đã thể hiện năng lực
ra quyết định và bản lĩnh người lãnh đạo cao nhất của Đảng. Đến thời kỳ
kháng chiến chống Pháp cịn có thêm các khu uỷ. Khi hồ bình lặp lại ở
miền Bắc, điều kiện cho phép lại bỏ Xứ uỷ và khu uỷ, chỉ giữ lại Khu tự trị
(Việt Bắc, Tây Bắc),...
Chính nhờ có sự linh hoạt, sáng tạo về hình thức và phương thức hoạt
động như vậy mới bảo đảm cho hoạt động của Đảng được thông suốt, mau lẹ,
kịp thời, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
Trong phương thức hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, Hồ Chí Minh
ln xác định “Đảng mạnh là do chi bộ mạnh”, “chi bộ tốt mọi việc đều tốt”.
Vì vậy, Người ln chăm lo xây dựng và khơng ngừng hồn thiện phương
thức hoạt động, lề lối làm việc cho phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của từng
loại đơn vị cơ sở nhằm xây dựng tổ chức cơ sở đảng thực sự vững mạnh.
Người thường xuyên chỉ đạo tổ chức những đợt chỉnh huấn, sinh hoạt tự phê
bình, phê bình để qua đó nâng cao chất lượng chi bộ. Chính Hồ Chí Minh đã
khởi xướng cuộc vận động rộng lớn xây dựng chi bộ, đảng bộ “bốn tốt” và
Người đã trực tiếp lãnh đạo tổ chức, duy trì, đẩy mạnh phong trào này trong
tồn Đảng cho đến phút cuối đời. Một chi bộ đạt tiêu chuẩn bốn tốt, theo
Người phải là chi bộ có “đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ
chặt chẽ với mọi quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường
lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ
phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; đối với Đảng thì củng cố tốt và phát triển tốt”. Để có nhiều chi bộ
“bốn tốt”, Hồ Chí Minh u cầu “mỗi huyện ủy, thành ủy, tỉnh ủy nên trực
tiếp giúp một chi bộ kém trở thành “bốn tốt”. Giúp chứ không bao biện. Rồi
làm cách vết dầu loang đến chi bộ khác”. Người nhấn mạnh, “từ nay các
huyện ủy, thành ủy, tỉnh ủy cần phải đi sâu, đi sát chi bộ, cần giúp đỡ các chi
bộ một cách thiết thực và thường xuyên”.
22
Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh,
phương thức lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng phải sát thực, phù hợp,
coi trọng phương pháp thuyết phục, giáo dục, nêu gương nhằm phát huy
vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Tổ chức đảng ở các
cơ quan phải mở rộng dân chủ, phát huy dân chủ để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Hồ Chí Minh hết sức chú ý xây dựng lề lối làm việc và cơ chế vận hành
của tổ chức bộ máy. Sau hai năm giành được chính quyền (10-1947), Hồ Chí
Minh đã viết cuốn sách nổi tiếng “Sửa đối lối làm việc” nhằm giáo dục, rèn
luyện cho cán bộ, đảng viên biết giữ vững nguyên tắc tổ chức của Đảng kiểu
mới trong sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của các tổ chức đảng, bảo đảm cho
bộ máy của Đảng vừa phát huy được dân chủ, vừa giữ vững kỷ luật, kỷ
cương; làm cho các tổ chức của Đảng luôn bám sát cơ sở, bám sát thực tiễn,
sát quần chúng và kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Học thuyết Mác - Lênin về chính đảng của giai cấp cơng nhân đã khẳng
định: Sự ra đời của một chính đảng là một tất yếu lịch sử, là đòi hỏi khách
quan của cuộc đấu tranh giai cấp, cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp mình. Như vậy, lãnh đạo là
chức năng bao trùm của Đảng. Chức năng ấy được quy định bởi ngay từ quy
luật ra đời của Đảng. Yêu cầu cao nhất của một chính đảng là phải lãnh đạo
đúng.Vì vậy, Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian, trí tuệ để xây dựng
phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó có phương thức lãnh đạo của các tổ
chức cơ sở đảng. Tháng 10 -1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ cách lãnh đạo của Đảng:
Lãnh đạo đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng
chính là người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, khơng có dân
chúng giúp sức thì khơng xong.
23
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn sự kiểm sốt đúng thì cũng
phải có quần chúng mới giúp được [43, tr.325].
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những yếu tố tạo nên hiệu quả lãnh đạo đúng của
Đảng, đó cũng chính là những nội dung, quy trình, cách thức, phương pháp
lãnh đạo của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, để lãnh đạo đúng, ngồi kinh nghiệm
của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm, lắng nghe ý kiến của
Đảng viên, của dân chúng, của những người “không quan trọng” để thêm cho
kinh nghiệm của mình. Một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên
hệ giữa Đảng với dân chúng. Lãnh đạo đúng, không phải cứ ngồi trong phòng
giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh mà phải quyết định mọi vấn đề một cách
cho đúng. Muốn thế, “phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì
cũng phải có quần chúng giúp mới được”. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, những
người lãnh đạo chỉ nhìn thấy một mặt của công việc, sự thay đổi của mọi người:
trơng từ trên xuống. Vì vậy, sự trơng thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trơng thấy
cơng việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên.
Nên sự trơng thấy cũng có hạn. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải
họp kinh nghiệm của cả 2 bên lại. Muốn như thế, người lãnh đạo phải có mối
liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng. Giữ chặt mối
liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là
nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Cách xa dân chúng,
không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như “đứng lơ lửng giữa trời”, nhất
định thất bại” [43, tr.325 - 326]. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra các căn bệnh về
phương thức lãnh đạo của Đảng, nổi bật là “bệnh lạm quyền”, đè đầu cưỡi cổ
nhân dân. Đồng thời, Người nghiêm khắc phê phán những cán bộ, đảng viên, tổ
chức đảng, chính quyền nhiễm phải các căn bệnh đó.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của tổ chức
Đảng, rất phong phú và toàn diện, từng bước phát triển để phù hợp với từng giai
đoạn cách mạng. Tại phiên bế mạc Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam tháng 3 - 1955, Hồ Chí Minh đã nêu rõ:
Lãnh đạo phải sát thực tế hơn.
24
Lãnh đạo phải tập thể và dân chủ, phải thống nhất và tập trung.
Phải nâng cao trình độ lý luận của tồn Đảng và nâng cao trình độ,
tổ chức cho thích hợp, với nhiệm vụ và cơng tác mới. Phải cải thiện
sự lãnh đạo tổ chức [47, tr.367].
Phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng có vai trị rất quan trọng
đối với chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của toàn Đảng. Trong hoạt động lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng, nếu lựa chọn được phương thức lãnh đạo đúng
đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh là một nhân tố quyết định bảo đảm chất
lượng, hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng, thể hiện năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Ngược lại, có đường lối đúng, có tổ chức
hợp lý mà khơng có phương thức lãnh đạo phù hợp với từng loại hình tổ chức
đảng thì hiệu quả lãnh đạo thấp, thậm chí có trường hợp cịn làm vơ hiệu hoá
cả đường lối, chủ trương của Đảng.
1.4. NỘI DUNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.4.1. Về tư tưởng, lý luận
Trong cơng tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh ln chú trọng cả 3 mặt:
chính trị, tư tưởng, tổ chức. Trong đó, Người đánh giá cao vai trị của cơng tác
tư tưởng. Bởi lẽ, tư tưởng thơng suốt thì hành động mới tích cực, đúng hướng.
Người cho rằng: “giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng
nhất của Đảng, phải kiên quyết chống lại các thói xem nhẹ tư tưởng”.
Vị trí quan trọng của cơng tác tư tưởng xuất phát từ tầm quan trọng của
lý luận đối với sự nghiệp cách mạng. C.Mác cho rằng: “lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [8, tr.580].
V.I.Lênin cũng đã chỉ rõ: “Nâng cao sự giác ngộ của quần chúng, hiện nay
cũng như bất cứ lúc nào, vẫn là nền tảng và nội dung chủ yếu của tồn bộ
cơng tác của chúng ta” [32, tr.472].
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Cơng tác tư tưởng có vai trị
tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh chính trị - tinh
thần to lớn trong Đảng và tồn xã hội, góp phần thắng lợi vào sự nghiệp cách
25
mạng. Theo Hồ Chí Minh, cơng tác tư tưởng của tổ chức đảng là biện pháp
quan trọng để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng, để tập hợp
lực lượng cách mạng, tinh thần, tư tưởng, sự giác ngộ luôn luôn là yếu tố đầu
tiên tạo nên lịng quyết tâm, ý chí kiên cường của người cách mạng; là tiền đề,
cơ sở để có hoạt động thống nhất, mạnh mẽ có hiệu lực. Hồ Chí Minh coi sự
thống nhất về tư tưởng, hành động là nguồn sức mạnh to lớn làm nên thắng lợi
cho Đảng, cho cách mạng. Người khẳng định: “Nếu đảng viên tư tưởng và hành
động khơng nhất trí, thì khác nào một mớ cắt rời, “trống đánh xi, kèn thổi
ngược”. Như vậy, thì khơng thể lãnh đạo, không thể làm cách mạng” [49, tr.606].
Hồ Chí Minh quan niệm cơng tác tư tưởng ln giữ vai trò chủ đạo, đầu
tiên chi phối sự suy nghĩ hành động của con người, “tư tưởng đúng thì hành
động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ được giao”. Tư tưởng đúng
đắn, thông suốt, lập trường giai cấp vững vàng là yếu tố quan trọng hàng đầu
tạo nên lịng quyết tâm, ý chí kiên cường của người cách mạng. Để thực hiện
tốt công tác tư tưởng ở tổ chức cơ sở đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu, nội dung
của cơng tác tư tưởng phải vừa mang tính toàn diện, tổng hợp, vừa rất cụ thể,
sát hợp với từng đối tượng ở cơ sở, vừa phải quán triệt được tình hình, yêu
cầu chung vừa bảo đảm để nhân dân dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Bởi lẽ, cơ
sở là nơi tiếp nhận và trực tiếp truyền đạt, hướng dẫn, triển khai tổ chức thực
hiện đến từng người dân tất cả các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, chỉ thị của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể. Ngoài ra, với tư
cách là hạt nhân chính trị tại cơ sở, các tổ chức cơ sở, trên cơ sở nắm vững
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và điều
kiện thực tế của cơ sở, đề ra chủ trương biện pháp lãnh đạo nhân dân thực
hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Về việc giáo dục tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên
trong các tổ chức cơ sở đảng, Hồ Chí Minh nêu rõ: “lý luận rất quan trọng, lý
luận là “khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, khoa học
về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi