Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Những quan điểm hồ chí minh về con đường quá độ lên XHCN ở việt nam và sự vận dụng quan điểm đó trong công cuộc đổi mới hôm nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.9 KB, 27 trang )

I.MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan diểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam.Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng,về thời kỳ quá
độ lên CNXH của chủ nghĩa Mác Lênin và xuất phát từ những đặc điểm thực tế của Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã khẳng dịnh con đường cách mạng của Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên CNXH. Như vây quan diểm của
Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là quan niệm về 1 hình thái gián tiếp cụ
thể -quá độ từ 1 xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi dành được độc lập
dân tộc đi lên CNXH. Theo hcm thực chất quá trình quá độ này là quá trình cải biến nề sản xuất
lạc hậu thành nền sản xuat tiên tiến hiện đại. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp
trong điều kiện mới, khi mà nhân dân đã hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ. Trước
thực trạng này, Người đã đưa ra những quan điểm về nhiệm vụ, bước đi,biện pháp tiến hành xây
dựng CNXH, biến nhận thức lý luận thành hành động thực tiễn. Người đã đề ra những nguyên
tắc có tính chất phuong pháp luận phù hợp với viêt nam có ý nghĩa vô cùng to lớn ở hiện tại và
tương lai. Để hiểu rõ thêm về con đường quá độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhóm em đã làm
bài thảo luận: ‘’Những quan điểm hồ chí minh về con đường quá độ lên XHCN ở Việt Nam và
sự vận dụng quan điểm đó trong công cuộc đổi mới hôm nay”
II.NỘI DUNG:
I, Quan điểm của HCM về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
1. Tính khách quan về thời kì quá độ lên XHCN ở Việt Nam
Theo Mác Lê-nin thì sự phát triển tất yếu của xã hội loài người là quá trình biến đổi hình thái
kinh tế xã hội từ thấp đên cao kế tiếp và thay thế nhau ,cụ thể là: công xã nguyên thủy -> chiếm
hữu nô lệ -> chế độ phong kiến -> tư bản chủ nghĩa -> cộng sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm “ phê phán cương lĩnh của Gôta” C.Mác đã khẳng định giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hôi kia,
thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước.Như vậy,chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản bao gồm ba giai đoạn : thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã
hội (một giai đoạn cấp thấp của chủ nghĩa cộng sản),chủ nghĩa cộng sản.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có vai trò tất yếu,là một bước quan trọng để cải biến cách
mạng sâu sắc và toàn diện từ xã hội cũ lên xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ
nghĩa xã hội,tạo ra cơ sở về vật chật và tinh thần cho chủ nghĩa xã hội thực hiện được trên những


nguyên tắc cơ bản.Thời kỳ này được bắt đầu khi giai cấp vô sản thắng lợi và nắm chính quyền
bắt đầu xây dựng xã hội mới và kết thúc khi đã có đủ cơ sở vật chất điều kiện kinh tế ,chính trị
để xây dựng chủ nghĩa xã hội.Tính khách quan tất yếu thời kỳ này là do:
+Sự khác nhau về bản chất của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản(tư bản chủ nghĩa dựa trên
cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,áp bức boc lột còn chủ nghĩa xã hội là công hữu về tư liệu
sản xuất,giải phóng con người)
+Chủ nghĩa xã hội cần được xây dựng dựa trên cơ sở sự tiến bộ vượt bậc về trình độ khoa học kỹ
thuật và kinh tế xã hội
Đồng thời có hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
+ Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (đối với những nước tư bản có trình
độ phát triển cao,đủ điều kiện và cơ sở vật chất )
+Quá độ gián tiếp từ xã hội trước hay tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội.Đây là hình thức quá độ
phản ánh sự nhảy vọt về kinh tế chính trị mà không qua chủ nghĩa tư bản ở những nước có nền
kinh tế phát triển kém
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam đã trải qua các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc:đấu
tranh để giải phong dân tộc xây dựng một nhà nước phong kiến,hay để xây dựng một chế độ
cộng hòa đại nghị tư sản đều bị bế tắc và không phù hơp với nước ta hiện nay.Lĩnh hội và vận
dụng sáng tạo lý luận của Mác Lênin về sự phát triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình
thái kinh tế-xã hội,hiểu rõ hoàn cảnh của nước ta chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:Tiến lên
chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập
theo con đường cách mạng vô sản.
Việt Nam là một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến khi chúng ta giành được độc lập,cách mạng
thành công dựa trên lực lượng chủ yếu nhân dân.Đồng thời,thực tế chủ nghĩa tue bản đã lỗ thời
về mặt lich sử sớm hay muộn cũng thay bằng hình thái kinh tế xã hội cao hơn đó là chủ nghĩa xã
hội.Và chủ nghĩa tư bản cũng đã lộ rõ những nét bất cập,hình thành dựa trên sự tư hữu về tư liệu
sản xuất và bản chất chính là bóc lột người lao động.Trên cơ sở vận dụng những lý luận của chủ
nghĩa Mác Lênin đồng thời kết hợp với nhãn quang độc đáo,sự vận dụng sáng tạo, Hồ Chí Minh
đã khẳng định “ con đường cách mạng Việt Nam là tiên hành giải phóng dân tộc,hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân,tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”.Như vậy quan niệm của Hồ Chí
Minh về thời kỳ quá độ là một hình thái gián tiếp cụ thể là con đường thứ hai :quá độ từ một

nước nông nghiệp lạc hậu nghèo nàn dần đi lên chủ nghĩa xã hội,bỏ qua chủ nghĩa tư bản.Nội
dung này đã làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin.Tuy nhiên nước ta quá độ từ
một nước nông nghiệp lạc hậu nghèo nàn tiến lên chủ nghĩa tư bản mà không trải qua chủ nghĩa
tư bản đặc điểm này chi phối đăc điểm khác đồng thời sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn do cụ thể chủ
nghĩa xã hội phải xây dựng trên tiền đề khoa học kỹ thuật và kinh tế phát triển.Nhận thấy trước
điều đó,Bác đã đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ đó là nhu cầu xã hội phát
triển cao trong khi thực trạng kinh tế-xã hội vẫn còn non kém.
2. Nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Tiền đề để xây dụng chủ nghĩa xã hội là trên cơ sở trình độ khoa học kỹ thuật phát triển,kinh
tế xã hội đạt tới trình độ cao.Trong khi đó đất nước ta mới giành được độc lập,hậu quả chiến
tranh còn nặng nề,cụ thể là một nước nghèo nàn lạc hậu.Vậy nên theo Hồ Chí Minh, thực chất
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất tiên tiến hiện
đại. Đồng thời để xây dựng được nước ta trở thành nước phát triển có trình độ cao phù hợp với
những yêu cầu và cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội cần một quá trình lâu dài không thể gấp
gáp,nóng vội dẫn đến những sai lầm.Bởi vậy Hồ Chí Minh đã khẳng định: do những đặc điểm và
tinh chất quy định,quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình dần dần, khó khan, phức tạp và
lâu dài.
Dựa trên tính tất yếu và ý nghĩa của thời ký quá độ là một thời kỳ chuyển biến tạo tiền đề đi lên
chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã xác định nhiệm vụ lịch sử của chủ nghĩa xã hội bao gồm 2 nội
dung lớn:
+ Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
+ Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội kiểu mới, kết hợp cải tạo và xây dựng trong đó lấy
xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất chủ chốt, lâu dài.
Hai nội dung này đều là những nội dung quan trọng chủ chốt của thời kỳ quá độ với điều kiện
nước ta còn lạc hậu kém phát triển phải thực hiện dần dần nên Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh
đến tính chất tuần tự,dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Đồng thời hai nhiệm vụ
này cũng đi kèm với những khó khan phức tạp được người thể hiện qua các điểm:
+Thư nhất,đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội,cả lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.Nó đòi hỏi phải giải

quyết hang loạt mâu thuẫn khác.
+Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhà nước, nhân dân ta chưa có
kinh nghiệm, nhất là lĩnh vực kinh tế. Đây là một thách thức hết sức to lớn để xây dựng tiền đề
cho chủ nghĩa xã hội.Công việc hết sức mới mẻ này sẽ khiến cho Đảng và nhân dân ta vấp phải
nhiều thiêu sót.Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã
lỗ thời.
+Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị thế lực phản động trong và
ngoài nước chông phá.(Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên
xô)
Từ đó người cũng chỉ ra rằng các cán bộ trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa phải thận
trọng không nôn nóng không đốt cháy giai đoạn.Đồng thời phải xác định những bước đi đúng
đắn nhất, tránh sai lầm,đưa ra chủ chương chính sách phù hợp với tình hình của xã hội.
3Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng CNXH trong thời kì quá độ ở nước ta
Xây dựng CNXH trong thời kỳ qua độ là một qua trình lâu dài, khó khăn. Vì thế khi xây
dựng CNXH, Hồ Chí Minh đã xác định rõ những nội dung chính về các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa-xã hội
Trong lĩnh vực chính trị: người chỉ ra vai trò quan trọng của đảng trong việc xây dựng đất nước.
đảng có vai trò lãnh đạo việt nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chỉ đạo dẫn dắt việt nam
trở thành một nước dân giàu nước mạnh, dân chủ văn minh. Vì thế nhiễm vụ của đảng là:
- - Phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự
chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp
ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới.
- Làm sao cho Đảng ta không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất
lòng tin của dân, có thể dẫ đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với
nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức.
- Củng cố và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ngày càng trở thành nhiệm vụ rất quan trọng.
- Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và
tri thức, do Đảng lãnh đạo.
* Trong lĩnh vực kinh tế: kinh tế là một lĩnh vực quan trọng của một đất nước. đất nước được độc

lập nhưng nền kinh tế nghèo nàn, dân không đủ cơm ăn áo mặc thì độc lập đó cũng trở nên
không có ý nghĩa. Do đó Người đã xác định những hiệm vụ quan trọng về kinh tế mà nước ta cần
thực hiện:
- Tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu
kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng,
lãnh thổ.
- Đối với cơ cấu kinh tế nông- công nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ
thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết
yếu của nhân dân.
- Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Người lưu ý phải phát triển đồng đều giữa kinh tế đô thị và kinh
tế nông thôn. Phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và
nâng cao đời sống của đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước.
- Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội,
thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân
dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển.
- Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hoạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy
trong phát triển sản xuất. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh bước
đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất, "Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã
hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích
chung và lại lợi riêng ; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay".
* Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội: bên cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội cũng là một lĩnh
vực không kém phần quan trọng. nguwoif đã nêu lên những nội dung quan trọng như:
- Xây dựng con người mới, đề cao vai trò của văn hóa giáo dục và KHKT trong xã hội XHCN.
- Nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong đời
sống xã hội.
II quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương châm, bước đi, biện pháp thực hiện
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.Nguyêntắc:
2 nguyêntắccótínhchấtphươngphápluậnnhưsau:
Thứnhất,

Ngườichorằngxâydựngchủnghĩaxãhộilàmộthiệntượngmangtínhphổbiến,mangtínhquốctế.
Hiệntượngđãdiễnra ở nhiềunướctrênthếgiớinênchúng ta
cóthểhọchỏithamkhảonhưngNgườinhấnmạnhrằngkhôngnênsaochép, máymóc,
giáođiều.CầnbámchắcvàonhữnglýluậnsắcbéncủaChủNghĩaMác- Lê Nin làmnềntảngđểxâydựng
con đườngđilên CNXH.
Thứhai, saukhiđãxácđịnhđược con đườngđilên CNXH thìkhitiếnhànhchúng ta
phảixuấtpháttừđiềukiệnthựctếcủađấtnước, đặcđiểmdântộc,
nhucầuđilêncủađấtnướcvàquantrọngnhấtkhảnăngcủanhândânlúcbấygiờ.
→TrongkhinhấnmạnhhainguyêntắctrênđồngthờivừachôngviệcrờixacácnguyênlýcủachủnghĩaMác
- Lê Nin, khôngquátuyệtđốihoácáiriêngcủadântộc,
vừaphảichôngmấymócgiáođiềukhiápdụngcácbiệnphápcủaLê- Nin
vàhọchỏitừcácnướckhácvàphảilưu ý đếnđiềukiệnlịchsửcủadântộc. ThìchủtịchHồChí Minh
đãquántriệtvàđưaragiảiphápkhắcphụctrongtữnglĩnhvựcriêng,
nhấnmạnhrằngphảicảitạovàxâydựngxãhộinhưngphảilấyxâydựnglàchínhcùng long
quyếttâmhếtmìnhcủadânvàlãnhđạolàĐảng.
2. Phươngchâm:
 Quán triệt các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và xây dựng chế độ mới, tham khảo
học tập các nước dân tộc anh em một cách có chọn lọc.
 Xác định bước đi và xây dựng XHCN chủ yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc
nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
3. bước đi:
- Tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc lên CNXH.
- Dần dần thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao không chủ quan nôn nóng và việc xác định
các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào các điều kiện khách quan quy định.
4. Biệnpháp:
Cùngvớinguyêntắc, phươngchâm, bướcđithìchủtịchHồChí Minh có đề ra nhữngbiệnpháp cụ thể
sau:
- Thựchiệncảitạoxãhộicũxâydựngxãhộimới, kếthợpcảitạovớixâydựng, lấyxâydựnglàmchính.
- Kếthợpxâydựngvàbảovệ, đồngthờitiếnhànhhainhiệmvụchiếnlược ở haimiền Nam vàBắc:
thựchiện“xâydựngmiềnbắc, chiếucốmiềnnam” vừachốnggiặcngoạixâm, vừaxâydựngđấtnước.

- Xâydựngchủnghĩaxãhộiphảicóbiệnphápquyếttâmđểthựchiệnthắnglợikếhoạch.
Phảitậphợpđượctoànthểnhândân, đồng long
yêunướcchungtaygópsứcbảovệvàđấutranhvìTổQuốcthìyêucầuđốivớiĐảnglàphảicóđườnglốichính
sáchlãnhđạorõràng, sángsuốt.
- Trongđiềukiệnnước ta, biệnphápcơbản, quyếtđịnh,
lâudàitrongxâydựngchủnghĩaxãhộilàđemcủadân, tàidânsứcdânlàmlợichodân,
dướisựlãnhđạocủaĐảngCộngSảnViệt Nam.
III VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CNXH VÀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY.
1,Kiên định mục tiêu đọc lập dân tộc và CNXH
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã rút ra năm bài học lớn của cách mạng nước ta, trong đó có bài học số một là “Nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Có thể nói, đây là sự tổng kết sâu sắc về lịch
sử và lý luận của quá trình cách mạng nước ta, thể hiện trong đường lối cách mạng của Đảng,
trong tất cả các cương lĩnh chính trị của Đảng từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay.Nắm vững mối
quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng phù hợp trong từng thời
kỳ lịch sử là một trong những nguyên nhân của thành tựu cách mạng nước ta. Đại hội XI của
Đảng đã yêu cầu phải “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH”, coi đây là một nội dung
của công tác xây dựng Đảng về chính trị, của việc nâng cao bản lĩnh chính trị của toàn Đảng và
của mỗi cán bộ, đảng viên.
-Ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của
cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử dân tộc hơn 80 năm qua đã chứng tỏ con đường xã hội
chủ nghĩa là sự lựa chọn của Đảng và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ”, xuyên suốt trong đường lối cách mạng Việt Nam. Không
phải chỉ khi giành được chính quyền, đất nước hòa bình, nhiệm vụ kiến quốc đặt lên hàng đầu,
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mới được đặt ra mà ngay cả trong thời kỳ đấu tranh giành
chính quyền, khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu thì đi lên chủ nghĩa xã hội
đã là mục tiêu, là sự lựa chọn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở

đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập dân tộc thì không có điều
kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch của dân tộc này
với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó
chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN.
Đại hội lần thứ VI (12-1986) của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước đã khẳng định: "Toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp
tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam XHCN". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông
qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh: "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta".
Tiếp tục dòng chảy xuyên suốt và thống nhất đó, Báo cáo chính trị được thông qua tại Đại hội
Đảng lần thứ VIII xác định bài học quan trọng đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới là: "Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh".
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4-2001) - Đại hội đầu tiên của thế kỷ XXI, đại hội của dân
chủ, trí tuệ, đoàn kết và đổi mới đã tiếp tục khẳng định: "Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh". Như vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên thực tế đã trở thành
dòng chủ lưu, là tư tưởng xuyên suốt, được quán triệt và đề cao trong sự nghiệp đổi mới mà toàn
dân ta đang tiến hành.
Chính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà nhân dân ta
đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu CNXH trong khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu đã lâm vào thoái trào, tan rã; tạo cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh của cách mạng Việt
Nam trên trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân ngày càng được củng cố,
tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để hơn của thời kỳ CNH-HĐH.
2.Phát huy quyền làm chủ của nhân dân:
 Dân chủ ở cơ sở chính là “một bước cụ thể hóa quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân”, là “một khâu đột phá, đưa sức mạnh chính trị lên một tầm cao mới, thu hút nhân
dân tham gia quản lý và giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước”, là “một khâu quan trọng và

cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là “nơi trực tiếp thực hiện
mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước”, là “nơi cần thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất”, như Chỉ thị số 30/CT-TƯ của Bộ Chính trị đã đề
ra rất cụ thể, rõ ràng. Thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở chính là tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của chính quyền, phát huy vai trò
MTTQ và các đoàn thể nhân dân để khắc phục tình trạng quan liêu, mất dân chủ, sách nhiễu,
tham nhũng Vì vậy, dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa chiến lược, liên quan đến sự sống còn của
Đảng, của Nhà nước, của cả đất nước
 Chỉ đạo của Đảng: Một sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng đã diễn ra vào tháng 9/2010: Dự
thảo 3 văn kiện trình Đại hội Đảng XI đã được Bộ Chính trị đăng tải công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân.
 Chủ trương của Đảng: Lấy ý kiến cán bộ, đảng viên, nhân dân vào các dự thảo văn kiện trình đại
hội XI.
 Ý nghĩa: Việc công bố và lấy ý kiến cán bộ, đảng viên, nhân dân vào các dự thảo văn kiện trình
Đại hội XI của Đảng tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc, sẽ được tổ chức vào đầu năm 2011 là đợt
sinh hoạt chính trị hết sức ý nghĩa, thể hiện mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, nhằm phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước, góp phần làm cho các văn kiện trở thành sản phẩm kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng, sức
sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc quyết định đường lối phát triển đất
nước trong thời kỳ mới; trên cơ sở kiên định vấn đề có tính nguyên tắc cơ bản là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nêu cao tinh thần xây dựng và ý thức trách nhiệm, đề xuất được
nhiều ý kiến có giá trị, góp phần hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng văn kiện đại hội.
Theo đó, bất cứ một công dân Việt Nam nào cũng được nêu chính kiến của mình về những nội
dung đồng tình, tập trung vào những vấn đề bức xúc để đưa ra chủ trương, giải pháp khả thi,
hướng đến “Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền
vững; phát huy sức mạnh của dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Chủ trương trên đây của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng là phù hợp với tư
tưởng Hồ Chí Minh về đường lối tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói về Đại hội Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng

ta và của nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng
và hành động đã nhất trí càng nhất trí hơn nữa. Cho nên, toàn thể đồng chí ta phải thảo luận kỹ
càng các đề án và góp ý kiến dồi dào, để Đại hội thành công thật tốt đẹp”; “Phải thật sự mở rộng
dân chủ để tất cả các đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên
để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt đẹp” (Hồ Chí Minh toàn tập). Với
cương vị là Phó trưởng Tiểu ban thường trực Tiểu ban Cương lĩnh và Báo cáo Chính trị chuẩn bị
cho Đại hội Đảng toàn quốc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu tại Hội nghị liên
tịch thường niên giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ
Việt Nam vào ngày 10/3/2010, đã lưu ý những người soạn thảo tiếp thu ý kiến xây dựng các văn
kiện Đại hội "phải hết sức có trách nhiệm với tinh thần công khai, dân chủ" và nhấn mạnh việc
đưa dự thảo văn kiện ra lấy ý kiến góp ý rộng rãi của nhân dân: "Chúng ta phải phát huy mạnh
mẽ hơn nữa dân chủ, phải tổ chức thế nào để không dừng lại ở tính hình thức, phải thực chất mới
huy động được tối đa trí tuệ của mọi tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp ý kiến".
Sự kiện quan trọng trên đây đã soi vào tư duy, nhận thức của đại bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân
dân một luồng ánh sáng và sinh khí mới. Nhiều ý kiến góp ý, dù vào một số phần hay chỉ một
phần nhỏ nào đó trong Báo cáo Chính trị đã thể hiện ý thức trách nhiệm cao với Đảng, với nước,
với nhân dân, nhất là những vấn đề thiết thực ở ngay địa phương, đơn vị mình. Lấy một ví dụ
điển hình, tại cuộc họp báo vào sáng ngày 21/9 mới đây tại Quảng Nam, lần đầu tiên diễn ra một
cuộc lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến vào kết quả sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam ở nhiệm
kỳ qua và định hướng phát triển trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng Bộ lần thứ XX một cách
rộng rãi và cởi mở. Không đưa ra nhiều nghị quyết, khẩu hiệu như ở những nhiệm kỳ trước, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ rõ những kết quả đã làm được, những vấn đề còn tồn đọng, đặc biệt là
trao đổi sôi nổi, thắng thắn về những giải pháp cần thiết để thay đổi cách làm cũ còn ít hiệu quả.
Kể cả vấn đề nhân sự cho Đại hội Đảng cũng được đưa ra một cách công khai, dân chủ.
Tin tưởng rằng, thông qua nghiên cứu nội dung và góp ý vào văn kiện đại hội Đảng sẽ tăng
cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, nêu cao quyết tâm thực hiện
mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tới.
• Hạn chế:
 Quyền dân chủ của nhân dân đã được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật, song tự nó - như
nhiều người đã nói - không thể trở thành hiện thực mà phải thông qua con người thực hiện.

VD: Cải cách thủ tục hành chính_một nhu cầu bức xúc của người dân ở cơ sở.
Mot số nơi không thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân hoặc có làm thì cũng rất hình
thức chiếu lệ, nhất là ở nông thôn vùng sâu, vùng xa nơi nông dân chiếm số đông trong dân số,
ảnh hưởng nghiêm trọng tới khối đại đoàn kết dân tộc và sự đồng thuận xã hội, ổn định xã hội.
Chính vì vậy mà song song với thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua các tổ chức và
các đại biểu dân cử, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước chủ trương và ban hành cơ chế, quy chế,
pháp luật tạo hành lang pháp lý để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình, theo
đúng tư tưởng Hồ Chí Minh: “Phải làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói dám làm”. Bác Hồ còn chỉ dẫn: “Lúc dân biết và dám phê bình
người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân tức là mức dân chủ hóa khá cao”.
Chỉ thị số 30/CT-TƯ của Bộ Chính trị ban hành ngày 18-2-1998 “Về xây dựng và thực hiện
quyền dân chủ ở cơ sở”. Tiếp đó, Chính phủ ra Nghị định số 29/1998/NĐCF ngày 11-5-1998 về
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.Ngày 7-7-2003, Chính phủ ban hành tiếp Nghị định số
79/2003/NĐCF thay thế Nghị định 29/1998/NĐCF để bảo đảm tính pháp lý cao trong thực hiện
dân chủ ở cơ sở.Ngày 20-4-2007 Quốc hội - cơ quan dân cử cao nhất - đã ban hành Pháp lệnh
“Thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn” có hiệu lực từ 1-7-2007 để thay thế Nghị định
79/2003/NĐCF của Chính phủ.
.
Tháng 9-2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã mở Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Chỉ thị số
30/CT-TƯ của Bộ Chính trị và đã có Kết luận, trong đó có đoạn: “Xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần tác động tích cực tới việc củng cố, đổi mới, nâng cao chất
lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, xây dựng chỉnh đốn Đảng, củng cố, xây dựng chính quyền
trong sạch, vững mạnh, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải tiến sự chỉ đạo, quản lý, điều
hành của chính quyền, làm chuyển biến tác phong công tác của cán bộ, đảng viên, công chức, đổi
mới tư duy, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị theo hướng “trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân” và có trách nhiệm với dân, là biện pháp quan trọng để khắc phục quan liêu, tham
nhũng, lãng phí. Tuy nhiên, so với yêu cầu của Chỉ thị, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
chưa đồng đều và vững chắc. Tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn nhiều, có
nơi là nghiêm trọng. Những biểu hiện quan liêu, tham nhũng không được phát hiện và đấu tranh
ngăn chặn, khắc phục kịp thời, làm giảm lòng tin, gây bất bình trong nhân dân, dẫn đến khiếu

kiện kéo dài, vượt cấp”.
Đánh giá chung sau 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở (1998 - 2008) của cơ quan chức
năng, kết luận cho rằng: “kết quả chỉ dừng lại ở một số việc cụ thể, tình hình chung là lắng
xuống. Dân tỏ ra thờ ơ và ít tác dụng tới bản thân.Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” còn dừng lại ở khẩu hiệu, tệ nạn quan liêu, trù dập, ức hiếp quần chúng, mất dân chủ,
coi thường kỷ cương phép nước giảm không đáng kể. Cán bộ thì đùn đẩy, né tránh, người đứng
đầu cơ quan, đơn vị không bị ràng buộc trách nhiệm gì cả, nghiêng về phương thức thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân thông qua các tổ chức đại diện, đại biểu dân cử cho nên quyền của
nhân dân làm chủ trực tiếp bị hạn chế, lúng túng trong việc làm phân rõ quyền lực chính trị,
quyền lực Nhà nước, quyền lực nhân dân. Nhân dân chưa được tham gia góp ý, bàn bạc vào việc
xây dựng các chủ trương, chính sách, pháp luật cũng như các kế hoạch, chương trình các dự án
tại địa phương ”.
Thực tế đã chứng minh, việc vi phạm quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua đại
biểu dân cử, thông qua các tổ chức dân cử là nguy cơ gây mất ổn định đất nước. Quyền dân chủ
của nhân dân đã được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật, song tự nó - như nhiều người đã nói
- không thể trở thành hiện thực mà phải thông qua con người thực hiện.
3Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Từ tư tưởng hồ chí minh về con đường quá độ ở nước ta, Đảng đã khéo léo vận dụng,
khẳng định phương hướng chủ đạo trong thòi đại mới là:“ kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại” . Hiện nay, khi mà thế giới có nhiều biến đổi lớn, phức tạp thì việc quán triệt và
thực hiện các nội dung , nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại càng cần thiết và có ý nghĩa thời sự. Những giá trị đích thực của quá khứ bao
giờ cũng là những bài học kinh nghiệm cho hiện tại , soi sáng cho hành động và nhận thức của
tương lai. “ Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” là tư tưởng mang tính chiến lược
cách mạng và rất sáng tạo của Hồ Chí Minh. Nó góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân
tộc, nhấn chìm tất cả bè lũ xâm lược cướp nước và tay sai bán nước, thống nhất đất nước. Đặc
biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước ngày hôm nay, chúng ta cần phát huy tối đa tính tự lực và
nâng cao hợp tác quốc tế; giữ vững bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập.
Sức mạnh của dân tộc là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết và ý thức
cộng đồng; ý chí đấu tranh bất khuất cho độc lập tự do, niềm tin vào tài năng trí tuệ của dân tộc

Việt Nam, vào cuộc đấu tranh chính nghĩa.Vậy thì, cái cội của sức mạnh dân tộc chính là chủ
nghĩa dân tộc.
Sức mạnh thời đại chính là dòng thác sức mạnh của nhân dân các nước chính quốc, sức mạnh
đoàn kết quốc tế và sự hình thành và phát triển và sức mạnh đoàn kết trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới; là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Trước những bối cảnh thế giới có những biến đổ sâu sắc, trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần
chú ý vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại như sau:
Một là: Đảng ta luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách
mạng vô sản toàn thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết và ủng hộ các phong trào cách mạng, các
xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục tiêu hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội ==> Việt Nam tiến hành đổi mới là góp phần thiết thực vào đổi mới CNXH, vào
sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân thế giới.
Hai là: Giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương tận lực phát huy sức
mạnh dân tộc trên cơ sở đó để tranh thủ và tận dụng được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của
lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng mỗi thời kỳ.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH hiện nay, chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ và ra nhập thị trường quốc tế, nhưng phải trên cơ
sở độc lập tự chủ, phát huy đầy đủ các tếu tố nội lực, dựa vào các nguồn lực trong nước là
chính Nếu không độc lập tự chủ, không phát huy đầy đủ nội lực thì không thể đứng vững và đi
lên một cách vững chắc, lâu bền và cũng không thể hội nhập kinh tế quốc tế một cách bình đẳng.
Chỉ có phát huy cao nhất các nguồn nội lực, trước hết là nguồn lực con người, chúng ta mới có
thể thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài, mới bảo vệ được độc lập, chủ quyền khi
hội nhập với thế giới.
Ba là: Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho đường lối ngoại giao rộng mở, đa phương hoá,
đa dạng hoá, hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp tồn tại bằng hoà bình thương lượng.
Trong tình hình hiện nay việt nam phải tích cực hội nhập với thế giới nhưng vẫn phải giữ vững
bản sắc dân tộc, giữ được cốt cách dân tộc sâu sắc mạnh mẽ. Chỉ có giữ vững bản sắc dân tộc thì

mới loại trừ những yếu tố đọc hại từ bên ngoài và tiếp thu tri thức nhân loại. nếu làm được như
vậy là chúng ta đã kết hợp được sức mạnh của dân tộc và sức manh thời đại, góp phần phát triển
đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.
4Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đảy mạnh đấu
tranh chống quan lieu, tham nhũng lãng phí, thực hiện cần-kiệm-liêm chính-chí công-vô tư
để xây dựng CNXH.
*Những chỉ đạo, biện pháp, chính sách của Đảng
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và yêu cầu đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 12 tháng 01 năm
2011 đến ngày 19 tháng 01 năm 2011. Trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm
đổi mới, Đảng đã nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, tạo nền tảng để đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Trong lĩnh vực hoàn thiện thể chế bộ máy, Đảng ta nhận định: Xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN tại Việt Nam là một tất yếu khách quan, công tác xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Từ đó,
Đảng ta đã đặt ra bốn yêu cầu lớn nhằm đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại
Việt Nam.
• Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện
tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản
lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật,
kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi
người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp.Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam
kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
• Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
-Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu
Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng cao chất
lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách; có cơ chế để đại biểu Quốc
hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri
-Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây
dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào
cuộc sống thực hiện ngân sách; giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
-Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ
chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực
lượng vũ trang;
-Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính
thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý;
tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng
phó và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh
-Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục
hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
-Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp
trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người
-Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt
động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp
• Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong
tình hình mới

Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm
vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh
bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước.
Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có
cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín
với nhân dân. Tổng kết việc thực hiện “nhất thể hoá” một số chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước
để có chủ trương phù hợp. Thực hiện bầu cử, bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp
trưởng giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
• Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng
phí
- Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu
dài.
- Nghiên cứu phân cấp, quy định rõ chức năng cho các ngành, các cấp trong phòng, chống tham
nhũng, chú trọng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí.
- Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn
vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước( về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây
dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử
dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ.)
- Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo
quy định.
- Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ,
công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng.
- Hoàn thiện các quy định trách nhiệm của người đứng đầu khi để cơ quan, tổ chức, đơn vị xảy ra
tham nhũng, lãng phí. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng
- Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực; đồng thời kỷ luật nghiêm những người bao che
- Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức,
phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản

xuất và tiêu dùng.
III. TÓM TẮT NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI:
1 thành tựu
Thực hiện công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, gần 30 năm
qua, tiềm lực kinh tế được nâng cao, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nếu
như ở giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân năm chỉ đạt
4,4%; giai đoạn 1991 - 2000, GDP tăng 7,6%/năm; giai đoạn 2001 - 2005 GDP bình quân
7,34. GDP bình quân đầu người ngày càng tăng, đưa Việt Nam ra khỏi nước kém phát
triển, trở thành nước có thu nhập trung bình.
Không chỉ có vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng và kiên định còn đường xã hội chủ
nghĩa, gần 30 năm qua, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình
thành và ngày càng hoàn thiện. Đường lối đổi mới của Đảng được thể chế hóa thành pháp
luật, tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việc ban hành hiến pháp năm 2013 có điểm mới tiến bộ so với
Hiến pháp năm 1992 là quy định quyền tự do kinh doanh trong từng ngành nghề mà pháp
luật không cấm; thể hiện rõ hơn bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng đã đưa đất nước và nhân dân
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên, có một số mặt đạt trình độ của các nước phát triển trung bình. Việt Nam đã
hoàn thành phần lớn mục tiêu thiên niên kỷ cam kết trước cộng đồng quốc tế
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thành tựu
cơ bản, bao trùm là chúng ta giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ,
chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia, ổn định chính trị xã hội và trật tự, an toàn xã
hội được giữ vững. Tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân tiếp
tục được tăng cường. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
từng bước được điều chỉnh phù hợp với quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế, tạo sức mạnh
tổng hợp góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để bảo vệ và xây dựng đất
nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy,

từng bước hiện đại, cùng toàn dân đấu tranh giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội; bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Bên cạnh đó, công tác đối ngoại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, không ngừng
mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần nâng cao hiệu quả của hội nhập, tạo môi
trường hòa bình và thêm nguồn lực phát triển đất nước, gắn kết cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài với quê hương, đất nước. Gần 30 năm qua, chúng ta đã kiên trì thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế với phương châm:
Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Đến nay, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, có quan hệ ngoại giao với
hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, mở rộng, quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hóa tới
trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 hiệp định thương mại
song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế ngày được nâng cao
Cùng với đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân được xây dựng và ngày càng hoàn thiện. Lấy liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với
mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và giám sát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước.
2hạn chế
Bên cạnh những thành tựu trên, chặng đường đổi mới vừa qua, chúng ta còn nhiều hạn
chế, khuyết điểm:

×