Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Vận động nông dân ở huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.54 KB, 117 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh, vấn đề nơng dân chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Ở nước
ta nông dân chiếm số lượng lớn. Thực tế cho thấy, qua mọi thời kỳ nông dân
luôn là một lực lượng chính trị xã hội, lực lượng sản xuất, có vai trị quyết
định thắng lợi trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức rõ vị trí, vai trị của nơng dân, ngay từ những năm 20 của thế
kỷ XX, khi xác định lực lượng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
đã đánh giá rất cao vai trị của nơng dân, Người cho rằng: Công nông là gốc
của cách mạng, là chủ cách mạng. Vì vậy trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Người luôn coi trọng giai cấp nông dân và việc vận động nơng dân. Người
khẳng định: Vấn đề giải phóng dân tộc Việt Nam thực chất là vấn đề giải
phóng nơng dân, và chỉ khi giai cấp nông dân được giác ngộ, đi theo Đảng thì
sự nghiệp giải phóng dân tộc, chấn hưng đất nước mới thực sự có lực lượng,
mới có điều kiện thành cơng.
Những quan điểm của Người về nông dân và công tác vận động nông
dân không chỉ có ý nghĩa trong lý luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Đặc biệt là trong công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nơng
nghiệp, nơng thôn hiện nay.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chi Minh, trong thời kỳ đổi mới, nhất là những
năm gần đây, Đảng bộ huyện Bá Thước đã nhận thức rõ vị trí, vai trị của
nơng dân, đặc biệt là quan tâm đến công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp,
thu hút nông dân tham gia các phong trào cách mạng. Sự chỉ đạo sát sao của
Huyện uỷ và chính quyền địa phương, cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các
ban, ngành, đồn thể trong huyện. Cơng tác vận động nơng dân ở huyện Bá
Thước đã đạt được những thành tích quan trọng. Bộ mặt nơng thơn có nhiều



2
đổi mới, đời sống văn hoá - xã hội của nơng dân ngày được nâng cao, các nhu
cầu lợi ích chính đáng của đại bộ phận nơng dân được giải quyết, vị thế của nông
dân trong phát triển kinh tế huyện càng được xác lập. Nông dân ngày càng tin
tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, pháp luật của nhà nước.Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, công tác vận động nông dân ở huyện Bá Thước
vẫn cịn những hạn chế, khuyết điểm. Hình thức vận động nơng dân cịn bất cập,
phương pháp vận động đối với một số đối tượng nông dân chưa phù hợp. Một số
cấp uỷ, chính quyền xã, nhận thức chưa đầy đủ về vị trí vai trị của nơng nghiệp,
nơng dân và nơng thơn. Vì vậy, ở xã này hoặc xã khác, ở lúc này hoặc lúc khác,
lịng tin của nơng dân đối với Đảng, chính quyền cơ sở bị giảm sút.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành trung ương (BCHTƯ) Đảng khố X
xác định: Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm
bảo an ninh, quốc phịng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hố dân tộc và bảo vệ
mơi trường sinh thái của đất nước… Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể.
Vì thế, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động nông dân (nông
vận) và vận dụng trong vận động nông dân xây dựng xã hội “giàu, mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” là một việc làm cần thiết. Với ý nghĩa đó, đề tài
“Vận động nơng dân ở huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” nhằm góp phần đáp ứng u cầu đang đặt ra. Mặt khác,
học viên chọn đề tài trên làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học chính trị,
chun ngành Hồ Chí Minh học nhằm nâng cao trình độ nhận thức, trình độ
chun mơn trong cơng tác sau này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ việc xác định vị trí vai trị quan trọng của nông dân đối với sự nghiệp
cách mạng.Vấn đề nông dân và công tác vận động nông dân đã thu hút sự



3
quan tâm của nhiều nhà khoa học. Đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu, bài
viết liên quan đến vấn đề nông dân,nông vận được đăng tải. Tuy nhiên, ở từng
góc độ và phạm vi nghiên cứu, các cơng trình khoa học có những cách tiếp
cận khác nhau. Một số cơng trình liên quan đến đề tài như:
* Về sách
- “Lịch sử phong trào nông dân và Hội nông dân Việt Nam”(1930 1995) của Hội Nông dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
Nội dung cuốn sách đề cập một cách có hệ thống về phong trào nông dân và
Hội Nông dân qua các thời kỳ lịch sử, từ đó nêu rõ các chủ trương chính sách
đúng đắn của Đảng ta đối với nông dân.
- “Nông nghiệp, nơng thơn trên con đường cơng nghiệp hố hiện đại
hố và hợp tác hoá, dân chủ hoá” của Trung ương Hội Nông dân, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội 1999. Cuốn sách đã tổng kết công tác vận động nông dân từ
đổi mới đến nay gắn với việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận, làm rõ những
ưu, khuyết điểm của các chủ trương, chính sách, thực trạng cơng tác vận động
nông dân trong thời gian qua.
- “Một số vấn đề về công tác vận động nông dân nước ta hiện nay”của
Ban dân vận Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. cuốn sách đề
cập đến quan điểm của Đảng về cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp
nơng thơn và những chính sách, giải pháp vận động nơng dân trong giai đoạn
hiện nay.
- “Tư tưởng Hồ Chi Minh về nông dân”của TS. Nguyễn Khánh Bật (chủ
biên), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001. Tác giả nghiên cứu sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nơng dân và các quan điểm của Người về con
đường giải phóng nông dân thuộc địa. Đồng thời, nêu các quan điểm của chủ
tịch Hồ Chí Minh với vấn đề nơng dân trong cách mạng, nông dân Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới dưới ánh tư tưởng Hồ Chí Minh.
- “Hệ thống chính trị cơ sở nơng thơn nước ta hiện nay” của GS.TS
Hồng Chí Bảo (Chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005. Cuốn sách



4
đề cập đến tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở nơng thơn, và đề
ra phương hướng, giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị cơ sở nơng thơn.
- “Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh” của TS. Phạm Văn Bính (2008),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã làm rõ quan điểm “lấy dân làm
gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định “phương pháp dân chủ của Hồ
Chí Minh trong lãnh đạo là từ quần chúng ra và trở về nơi quần chúng”. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cơng tác vận động quần chúng là một phương pháp
dân chủ trong nhân dân. Đó là cách thức vận động và huy động “tất cả lực
lượng của mỗi người dân, khơng để sót một người dân nào” để “đem của dân,
tài dân, sức dân mà làm lợi cho dân”.
- “Hồ Chí Minh với giai cấp nơng dân”, do TS. Nguyễn Thị Kim Dung
và CN Trần Thị Nhuần (biên soạn), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2008. Các
tác giả đã tập hợp những câu nói và viết của Hồ Chí Minh về nơng dân Việt Nam
trong Hồ Chí Minh Tồn tập xuất bản lần thứ hai và tuyển chọn các bài nghiên cứu,
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng dân trong thời kỳ đổi mới của các nhà
khoa học trong và ngoài Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
-“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng giai cấp nông dân trong
giai đoạn hiện nay”, do TS. Ngô Huy Tiếp (Chủ biên), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010. Sách đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng
giai cấp nông nhân và thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp nông dân
từ đổi mới đến nay.
* Về luận văn
- “Công tác vận động nông dân của Đảng bộ tỉnh Cà Mau trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị của Đặng Chí Thủ, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006. Luận văn trình bày cơng
tác vận động nơng dân đối với việc phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh, nêu lên

thực trạng và một số phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để nâng
cao chất lượng công tác vận động nông dân trong thời kỳ mới.


5
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng vận với công tác vận động nông dân
ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Mai Phương Thảo, Hà Nội
2008. Đề cập đến nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng vận
và cơng tác vận động nơng dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta thời kỳ đổi
mới đất nước, đánh giá kết quả đạt được trong công tác vận động nông dân và
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao công tác vận động nơng dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
- “Đảng lãnh đạo công tác vận động giai cấp nông dân trong những
năm 1996 - 2006”, Luận văn thạc sĩ Lịch sử của Trương Thị Tuyết Lan, Hà
Nội, 2008. Trình bày sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động giai cấp
nông dân trong những năm đầu đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước, rút ra nguyên nhân đạt được và tồn tại hạn chế trong sự lãnh đạo công
tác vận động nông dân của Đảng, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm về
công tác vận động giai cấp nông dân trong giai đoạn tiếp theo.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh vê nơng dân trong cách mạng Việt Nam (19301954), Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị của Trần Đình Nam, Hà Nội, 2009.
Luận văn trình bày một số quan điểm của các nhà kinh điển mácxít và Hồ Chí
Minh về nơng dân và sự tham gia cách mạng giải phóng dân tộc của nông dân
Việt Nam trong những năm 1930-1954 dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Các bài tạp chí
- Đức Vượng (1999), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng thơn và nơng
nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Thơng tin lý luận, (2).
- Phạm Ngọc Anh (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh cơng
nơng trí thức trong cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (7).
- TS. Phạm Văn Bính (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận”, Đặc
san Hồ Chí Minh học, (2).

- PGS.TS. Bùi Đình Phong (2003), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận vào việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc”, Tạp chí Cộng sản. (10).


6
- Tạ Ngọc Tấn (2007), “Phát triển hợp tác xã dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh và yêu cầu của thời kỳ mới”, Tạp chí Cộng sản, (21).
- Lý Việt Quang (2011), “Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của quần chúng
nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc”, Đặc san Hồ Chí Minh học, (3).
Nhìn chung, những cơng trình, những bài viết nêu trên, ở những góc độ
khác nhau đã đề cập đến vấn đề lý luận về nông dân, nông nghiệp, nông thôn,
hoặc nêu lên thực trạng nông dân, nông vận trên phạm vi cả nước hoặc một
địa phương ở nước ta. Tác giả nghiên cứu việc vận động nông dân ở huyện Bá
Thước, tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
với mong muốn góp thêm tiếng nói của mình trong nghiên cứu lý luận tư
tưởng Hồ Chí Minh và giải quyết một số bức xúc trong thực tế của đời sống
nơng dân huyện nhà.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Hệ thống hố một số quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vận động
nông dân (nông vận) làm cơ sở lý luận và phương pháp luận trong việc phân
tích, đánh giá thực trạng, đề ra giải pháp trong việc nâng cao chất lượng công
tác vận động nông dân huyện Bá Thước tỉnh Thanh hố hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vận
động nông dân.
- Khảo sát thực trạng việc vận động nông dân ở huyện Bá Thước giai
đoạn 2000 - 2010, những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng vận động nông
dân ở huyện Bá Thước trong giai đoạn hiện nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác vận động nơng
dân trong Hồ Chí Minh tồn tập.


7
- Các văn kiện của Đảng và luật pháp của Nhà nước về nông vận.
- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Thanh hoá, Đảng bộ huyện Bá Thước
chỉ đạo công tác nông vận và hoạt động của Hội nông dân.
- Khảo sát thực tế công tác nông vận ở một số xã, chủ yếu hoạt động của
Hội nông dân huyện Bá Thước hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tài liệu: Chủ yếu trong Hồ Chí Minh tồn tập và Văn kiện Đảng.
- Địa điểm nghiên cứu: Huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá.
- Thời gian nghiên cứu: 2 nhiệm kỳ Đại hội huyện Đảng bộ (2000- 2005
và 2005 - 2010).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vận động nông dân.
- Luận văn tập trung nghiên cứu việc vận động nông dân của Chủ tịch
Hồ Chí Minh qua các tác phẩm, các bài viết, bài nói của Người.
5.2.Phương pháp cụ thể
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, lơgíc, phân tích, nghiên cứu tài
liệu, tổng hợp, thống kê, so sánh, phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ lãnh đạo
của huyện, xã, cán bộ hội Nông dân, một số hội viên nông dân, đồng thời xử
lý các tài liệu thu thập và trình bày báo cáo.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng vận.

- Góp phần đánh giá thực trạng công tác vận động nông dân ở huyện Bá
Thước, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác vận động nông
dân ở huyện Bá Thước phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tế hiện
nay, làm tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo nông dân trong thời kỳ mới.


8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Bằng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học, luận văn
đóng góp vào giá trị lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động
nơng dân. Qua đó góp phần khẳng định tính khoa học, cách mạng của tư
tưởng Hồ Chi Minh đối với công tác vận động nông dân trong thời kỳ mới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp tài liệu tham khảo phục vụ công tác tuyên truyền,
nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động
nơng dân nói chung và trong vận động nơng dân ở huyện Bá Thước, tỉnh
Thanh Hố nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẬN ĐỘNG NƠNG DÂN
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Khái niệm nông dân và giai cấp nông dân
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Nông dân là người lao động sống bằng

nghề làm ruộng”. Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học viết: “Nông dân một giai cấp chuyên sản xuất những sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở sở hữu
tư nhân hoặc sở hữu hợp tác về tư liệu sản xuất và tham gia sản xuất bằng lao
động của chính mình” [92, tr.227]. Một số cơng trình nghiên cứu đưa ra các
định nghĩa nông dân như “nông dân được coi là những người ni mình với
tư cách là người lao động, trồng trọt trên đất đai và sống trong những làng
mạc nhỏ bé”. Hay “nông dân ở nước ta hiện nay là những người sống lâu đời
ở thôn (làng, bản, ấp) lấy sản xuất nơng nghiệp (theo nghĩa rộng) làm nguồn
sống chính dưới hình thức hộ gia đình.
Từ một số định nghĩa trên cho thấy, nói đến giai cấp nơng dân là nói đến
nông dân - một bộ phận dân cư lao động đông đảo trong xã hội, là lực lượng
lớn nhất gắn liền với sản xuất nơng nghiệp, có cuộc sống và thu nhập bằng lao
động nông nghiệp. Tuy nhiên, do quá trình phát triển của các lĩnh vực kinh tế,
sự đa dạng của các ngành nghề sản xuất dẫn tới sự xáo trộn dân cư, như thực
tế ở Việt Nam hiện nay, có nhiều người tham gia lao động sản xuất ra các sản
phẩm nông nghiệp, cũng sống ở nông thôn nhưng họ khơng phải là nơng dân.
Ví như: Giáo viên các trường nông thôn, bác sĩ các trạm y tế xã, bệnh viện
huyện, cán bộ công, viên chức về hưu sơng với gia đình ở nơng thơn… hoặc
do chính sách phát triển kinh tế trang trại, có một số dân cư đô thị, cán bộ
công chức nhà nước mua đất lập các trang trại ở nông thôn, miền núi, tổ chức
sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp, nhưng họ không phải là giai
cấp nông dân hay nông dân thuần tuý.
Như vậy, ở nước ta hiện nay, giai cấp nông dân được hiểu là những
người trực tiếp lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp, sử dụng một loại tư liệu


10
sản xuất đặc biệt là đất, rừng, biển để sản xuất ra các sản phẩm trồng trọt,
chăn nuôi gọi là nông, lâm, thuỷ hải sản. Thuật ngữ nông dân và giai cấp nông
dân thường được dùng như nhau.
Trong lịch sử, về cơ bản, giai cấp nơng dân hình thành trong q trình

tan rã của chế độ chiếm hữu nơ lệ. Sự tồn tại của nó gắn liền với sản xuất
nơng nghiệp, một loại hình sản xuất hàng đầu, bảo đảm sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Khi cơng nghiệp và đơ thị chưa phát triển thì giai cấp
nơng dân có vai trị rất quan trọng. Tuy nhiên, trong con mắt của các nhà
thống trị và các nhà tư tưởng thuộc tầng thống trị trước C. Mác, giai cấp nơng
dân chỉ là “những bầy cừu ngoan ngỗn”, là lực lượng tiêu cực, cùng lắm là
lực lượng đáng thương hại và là công cụ để sai khiến của giai cấp thống trị.
Lý luận về nơng dân mang tính cách mạng chỉ thực sự hình thành từ thế kỷ
XIX trong học thuyết Mác và được bổ sung, đóng góp của Lênin và các nhà
tư tưởng khác như Hồ Chí Minh.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, việc xác định một giai cấp,
một tầng lớp xã hội phải căn cứ vào địa vị kinh tế - xã hội, điều kiện lao động,
tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất, môi trường sống và quan hệ khác… C.Mác
cho rằng: “Tiểu nông là một khối quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên
đều sống trong một hoàn cảnh như nhau, nhưng lại không nằm trong những mối
quan hệ nhiều mặt đối lập nhau” [56, tr.264]. Theo V.I.Lênin, giai cấp nông dân
“là giai cấp của những người sở hữu nhỏ”. Ở nước ta, trong các văn bản đầu tiên
của Đảng đã dùng “dân cày” để chỉ giai cấp nơng dân.
Hồ Chí Minh khơng đưa ra định nghĩa nơng dân là gì, nhưng trong các
bài nói và viết của Người đã làm rõ nội hàm khái niệm qua các đặc điểm và
vai trị của nơng dân trong sản xuất cũng như trong cách mạng. Tháng
10/1923, tại Mátxcơva, tham luận trong Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông
dân, Hồ Chí Minh nói: “Nơng dân trong các thuộc địa của Pháp bị hai tầng
bóc lột” [60, tr.208], “nơng dân An Nam nói riêng lại càng phải è cổ ra mà


11
chịu sự bảo hộ một cách thảm hại hơn: Là người An Nam họ bị áp bức; là
người nông dân họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản” [60,
tr.227]. Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề nông dân không chỉ với tư

cách là một giai cấp mà còn với tư cách “thần dân” của một quốc gia để bổ
sung vào lý luận mácxít khi phân tích đặc điểm giai cấp nơng dân Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm vận động nông dân hay (nông vận)
Theo từ Đại từ điển tiếng Việt: Vận động là tuyên truyền, giải thích,
thuyết phục người khác tự nguyện làm một việc gì.
Vận dụng vào thuật ngữ vận động nơng dân, chúng ta hiểu là tuyên
truyền, giải thích, thuyết phục nơng dân thực hiện một nhiệm vụ chính trị do
Đảng, Nhà nước giao hay một việc của đời sống dân sinh. Cụ thể như hiện
nay là vận động nông dân tham gia các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quốc phòng an ninh, xây dựng nơng thơn mới, gia
đình văn hố, xây dựng Đảng, chính quyền và các đồn thể vững mạnh…
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói nơng vận là vận động nông
dân chứ không phải nông dân hoạt động hoặc nông dân vận động người khác.
Nông vận là một bộ phận trong công tác dân vận của Đảng.
Theo Người, công tác dân vận của Đảng bao gồm: Công vận, nơng vận,
phụ vận, thanh vận, trí thức vận, tơn giáo vận và cả địch vận. Người rất quan
tâm đến công tác vận động nơng dân. Người địi hỏi cán bộ, đảng viên phải
luôn quan tâm đến việc vận động nông dân vào tổ chức Hội nơng dân, đây
chính là lực lượng cơ bản và đông đảo của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh:“Vận động nơng dân là phải vận thế nào cho tồn
thể nơng dân động, nghĩa là: Làm cho nơng dân hiểu rõ quyền lợi của dân tộc
và của giới mình… Muốn như thế thì cán bộ nơng dân phải tránh bệnh chủ
quan, bệnh hình thức, bệnh giấy tờ” [64, tr.249].
Từ những chỉ dẫn trên có thể hiểu: Vận động nông dân là một hoạt động
nhằm tuyên truyền, giáo dục, nâng cao giác ngộ cách mạng, ý thức chính trị


12
cho nông dân, tập hợp thu hút nông dân tham gia vào tổ chức, các phong trào
nông dân, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước;

là q trình xác lập mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với giai cấp nông dân.
Từ cách hiểu trên, việc vận động nông dân được thể hiện ở các vấn đề sau:
- Tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nâng cao giác ngộ cách mạng ý
thức chính trị cho nơng dân, giải thích cho nơng dân hiểu được đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hiểu được quyền lợi,
trách nhiệm và nghĩa vụ của mình.
- Vận động, tập hợp, thu hút lực lượng nông dân vào tổ chức cách mạng
dưới sự chỉ đạo của Đảng. Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với giai
cấp nơng dân. Củng cố khối đại đồn kết tồn dân, xây dựng khối liên minh
công nông vững chắc.
- Tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nông dân, thực hiện
chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; vận động
nông dân là trách nhiệm chủ yếu và trực tiếp của các cấp uỷ, tổ chức Đảng
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân.
1.2. ĐẶC ĐIỂM, TIỀM NĂNG, VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT
NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG

1.2.1. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp của nông dân Việt Nam
1.2.1.1. Mang tính giai cấp
Theo Hồ Chí Minh, giai cấp nông dân Việt Nam là cộng đồng những
người sản xuất nhỏ - người lao động, nhân tố chủ yếu của lực lượng sản xuất
trong nông nghiệp gồm cả lâm và ngư nghiệp và là người tư hữu nhỏ. Nơng
dân ở quốc gia nào cũng khơng nằm ngồi những đặc điểm chung đó. Cái
khác nhau ở chỗ trình độ nông dân được biểu hiện ra bằng phương thức sản
xuất nông nghiệp cổ truyền hay tiên tiến, năng suất lao động thấp hay cao, kỹ
thuật lạc hậu hay hiện đại, công nghiệp tác động vào nông nghiệp đến mức độ
nào. So sánh với các nước khác vào năm 1925-1926, Hồ Chí Minh cho rằng
Việt Nam là quốc gia nơng nghiệp “đất thì xấu, phương pháp canh tác thì lạc



13
hậu, do đó năng xuất rất thấp kém” [61, tr.229]. Năm 1949, dù đã qua trên 90
năm (1858-1845) đô hộ của thực dân Pháp, có chế độ mới, nhưng Hồ Chí Minh
vẫn khẳng định: “Nước ta là một nước nơng nghiệp. Hơn 9 phần 10 dân ta là
nông dân. Hơn 9 phần 10 nông dân ta là trung, bần và cố nơng” [65, tr.710]. Hồ
Chí Minh coi phú nơng là tiểu chủ, phú hào, có lúc cố nơng được Người gọi là
vô sản nông nghiệp. Nghĩa là cơ cấu giai cấp nông dân Việt Nam không thuần
nhất và sự phân tầng giai cấp trong nội bộ nông dân không đều.
Hồ Chí Minh coi giai cấp nơng dân Việt Nam là lực lượng làm “long trời lở
đất” nếu như được tổ chức lại. Nói như các nhà kinh điển “quần chúng làm nên
lịch sử”. Song, Hồ Chí Minh khẳng định trong cách mạng do giai cấp công nhân
lãnh đạo, nông dân Việt Nam có vị trí là chủ, là gốc và là động lực cách mạng.
Bởi lẽ “vì áp bức mà sinh ra cách mạng, ai bị áp bức càng nặng thì lịng cách
mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết”. Nơng dân ta bị 3 trịng bóc lột: Đế
quốc, tư bản và địa chủ, 4 vòng áp bức: Đế quốc, tư sản, địa chủ và nhà thờ;
nông dân ta là lực lượng đông nhất chiếm hơn 95% dân cư. Khi đã được giác
ngộ cách mạng, giai cấp nông dân gan góc, dũng cảm, có quyết tâm cao, “nếu
thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới”, “thà chết tự do
cịn hơn sống làm nơ lệ”. Do đó, chính yếu tố đồn kết tồn dân trên cơ sở liên
minh công nông đã làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
và hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ.
Rõ ràng, Hồ Chí Minh một người dân thuộc địa đứng trên lập trường
mácxít đã phân tích những đặc điểm giai cấp và nhấn mạnh hơn tính cách
mạng, tính tích cực mà ít nói về tính tiêu cực của giai cấp nông dân Việt Nam.
Trong tổng thể của nhiều yếu tố thì tình trạng mất nước, mức độ nghèo khổ,
bị bóc lột áp bức nặng nề là những yếu tố quyết định tính tích cực cách mạng
của nơng dân ta.
1.2.1.2. Mang bản sắc văn hố dân tộc Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh nông dân chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư, nơng
dân gắn bó với cội nguồn dân tộc, có ý thức dân tộc sâu sắc. Các truyền thống

dân tộc in dấu ấn đậm nét trong nông dân và cũng được bộc lộ qua nông dân.


14
Trong bài “Nước An Nam dưới con mắt người Pháp” viết vào những
năm 1923 - 1924, truyền thống của dân tộc Việt Nam được Hồ Chí Minh khái
quát qua sự hiểu biết của một người Pháp Đờ Pucvuốcvin như sau:
Chúng ta thấy ở đây cả một nền văn minh, mọi thứ đều xây dựng từ
lâu. Nghệ thuật, khoa học, kể cả khoa học quản lý nhà nước đều đã
phát triển mạnh mẽ. Luật pháp, cổ phong, tôn giáo, văn học, tất cả đều
đã hoàn chỉnh và hoà hợp với nhau, trải qua bao nhiêu thé kỷ, đã được
điều hoà và ngày càng hồn hảo thêm. Những vết tích man rợ đã mất
đi từ lâu, dân tộc này đã sống trong một xã hội thuần thục có tổ chức
trong khi những người phương Tây cịn ở tình trạng bán khai. u
mến q hương, quyến luyến gia đình, tơn trọng tổ tiên, u chuộng
cơng lý, tơn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học,, coi trọng lời nói
thánh hiền, thương u nịi giống, tơn kính lẽ phải; ghét xa hoa, khơng
hám tiền tài, kinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ, hy sinh; đó là những
đức tính răn dạy trong sách thánh hiền, lưu lại trong cổ phong và ghi
thành luật pháp; hiện nay đó cũng là những đặc điểm và bản tính của
người An Nam hình thành từ bao thế hệ… Người An Nam bình thường
mà người ta gặp bất cứ ở đâu cũng đều như vậy cả [60, tr.425-426].
Qua đoạn trích trên chúng ta thấy Hồ Chí Minh đã chỉ ra không riêng
cho những tên trùm thực dân ở Đông Dương mang danh là những người đi
khai hoá mà cả mọi người thấy: Dân tộc Việt Nam có nền văn hố lâu đời.
Con người Việt Nam là những người nhân đức. Đất nước Việt Nam cái nôi
của nền văn minh phương Đông - văn minh nông nghiệp. Đồng thời, gián tiếp
Hồ Chí Minh đã mơ tả kiến trúc thượng tầng của xã hội Việt Nam trước khi
Pháp xâm lược- Một kiến trúc thượng tầng tương ứng với cơ sở hạ tầng là
phương thức sản xuất châu Á, trong đó hình thái ý thức xã hội văn hoá và đạo

đức tốt đẹp đã ăn sâu, thấm đượm và trở thành đặc điểm, bản tính người An
Nam nói chung và nơng dân Việt Nam nói riêng.


15
1.2.1.3. Nơng dân Việt Nam có tinh thần u nước nồng nàn, sâu sắc
Yêu nước trước hết là đấu tranh bảo tồn dân tộc khơng bị đồng hố lai
căng, bảo tồn nền văn hoá dân tộc, yêu nước xuất phát từ u q hương, làng
xóm n bình phát triển thành tình u đất nước hồ bình, độc lập. 10 thế kỷ
Bắc thuộc, nông dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh để khơng bị Hán hố.
Những thế kỷ tiếp theo, từ năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán
giành độc lập cho dân tộc, cho đất nước đến Nguyễn Huệ đại phá Mãn Thanh,
hai lần thắng đế quốc Pháp và Mỹ dưới thời đại Hồ Chí Minh. Trong vịng 10
thế kỷ, Việt Nam 10 lần đại thắng: Đại thắng bằng khát vọng tự do, độc lập.
Trong đội quân chiến thắng huy hồng ấy, nơng dân là lực lượng chủ yếu.
Đây là đặc điểm nổi bật mà nông dân nhiều nước khơng có.
1.2.1.4. Nơng dân Việt Nam có quan hệ huyết tộc là
cao cả và thiêng liêng
Như chúng ta biết, chẳng ai sống mà lại khơng có gia đình và khơng một
ai sinh ra mà lại không bắt đầu từ một dịng họ. Song ở Việt Nam, người nơng
dân đề cao tính huyết tộc. Bởi lẽ, xuất phát từ kiểu sản xuất của cơng xã nơng
thơn, lấy gia đình là tế bào và huyết tộc làm cơ sở. Đặc điểm này có mặt tích
cực và cũng có những mặt tiêu cực cần hạn chế. Cái cần khắc phục trước tiên
là tư tưởng địa phương cục bộ, đầu óc bản vị, gia trưởng. Sự quyến luyến gia
đình, tơn trọng quy định của làng xã là cần thiết. Nhưng nếu đẩy quá cái tình
cảm “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “phép vua thua lệ làng” có thể dẫn
đến xem thường kỷ cương đất nước.
1.2.1.5. Nông dân Việt Nam cần cù, siêng năng chăm chỉ, đoàn kết,
hợp tác lao động sản xuất
Trong điều kiện tự nhiên khơng thuận lợi, đất đai ít màu mỡ, nhất là

miền Bắc và miền Trung, công cụ thủ công thô sơ đã tạo ra ở nông dân Việt
Nam đức tính cần cù chăm chỉ, “một nắng hai sương”, chấp nhận khó khăn,
sẵn sàng hy sinh cho nơng nghiệp vì nơng nghiệp. Sản xuất “lấy cơng làm lãi”
khơng phải là biểu hiện của sự thiếu hiểu biết mà là thực tế lấy sản phẩm làm


16
thước đo hiệu quả. Vì sản phẩm và tính thời vụ trong nông nghiệp đã tạo ra
tinh thần hợp tác, trao đổi cơng sức, truyền thống đồn kết tương trợ trong sản
xuất của nông dân Việt Nam. Đây là một đặc điểm rất cần lưu ý trong phát
triển nông nghiệp Việt Nam.
1.2.2. Vai trị của nơng dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Đánh giá đúng vai trị của nơng dân, Chủ tịch Hồ Chi Minh luôn quan
tâm đến nông dân và chỉ đạo tốt vai trị của nơng dân trong cách mạng, Người
coi vấn đề nông dân là vấn đề chiến lược của cách mạng. Bởi lẽ:
Thứ nhất: Nông dân là lực lượng đơng đảo trong xã hội, có lòng yêu
nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nơng dân nước ta luôn
luôn là lực lượng chủ lực tạo dựng nên giang sơn gấm vóc của đất nước, xây
đắp nền văn hố đậm đà bản sắc dân tộc, hình thành những làng quê Việt Nam
với giá trị tinh thần phong phú, bền vững, là cái nôi sinh sản ra những anh
hùng hào kiệt, các danh nhân văn hoá, làm rạng rỡ non sông đất nước.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong suốt quá trình cách
mạng, nơng dân nước ta ln một lịng sắt son theo Đảng, nêu cao tinh thần
yêu nước, truyền thống lao động cần cù, thơng minh, sáng tạo vượt mọi khó
khăn thử thách góp phần to lớn cùng tồn dân hồn thành vẻ vang sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước sang giai đoạn mới - giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Với tinh thần cách mạng, tiếp nối truyền thống của dân tộc,
Nơng dân Việt Nam đã khẳng định được vai trị to lớn của mình trong sự

nghiệp cách mạng.
Là lực lượng đông đảo chiếm số đông trong dân số cả nước. Đồng thời
với lịng nhiệt tình cách mạng, chịu đựng gian khổ, hy sinh, lao động cần cù
sáng tạo, nông dân Việt Nam luôn là đội quân chủ lực của cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nơng dân ta chí khí rất anh dũng, kinh


17
nghiệm rất nhiều, lực lượng rất to lớn. Điều đó đã tỏ rõ trong thời kỳ cách
mạng và kháng chiến. Nếu lãnh đạo tốt, thì khó khăn gì họ cũng khắc phục,
việc gì to lớn mấy họ cùng làm được [73, tr.493]
Trong cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến chống giặc ngoại
xâm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận động đồn kết tập hợp đơng
đảo lực lượng nông dân đẩy mạnh sản xuất huy động sức người sức của. vật
chất và tinh thần phục vụ cho kháng chiến. Hàng chục triệu nông dân đa tham
gia quân đội, du kích, xung phong, mở đường, tiếp lương tải đạn phục vụ cho
tiền tuyến. Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”, bám
đất giữ làng “Một tấc không đi, một li không rời”, đảm bảo “thóc khơng thiếu
một cân, qn khơng thiếu một người”. Nơng dân hai miền Nam - Bắc đã có
những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Nông dân không chỉ tham gia sản xuất, phục vụ tiền tuyến mà còn hăng
hái tham gia chiến đấu, phần lớn chúng ta thấy những người lính, những chiến
sĩ ngồi mặt trận đều xuất thân từ nông dân. Thắng lợi của hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ, thống nhất Tổ quốc là thắng lợi của sức mạnh
to lớn của toàn dân, toàn quân ta trong đó có đơng đảo là nơng dân. Nhìn rõ
được tiềm năng to lớn của nơng dân, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Đại đa số nhân dân ta là nông dân. Mấy năm nay nhờ lực lượng nông
dân mà kháng chiến, chiến tranh được thắng lợi. Sau này cũng nhờ lực lượng
nơng dân mà kháng chiến được hồn thành thằng lợi, kiến quốc đi đến thành
công” [70, tr.325].

Thứ hai: Nông dân là lực lượng sản xuất trực tiếp, tạo ra của cải để
ni sống xã hội
Trong suốt q trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
coi vai trị quan trọng của nơng dân, đặc biệt dưới chính quyền dân chủ nhân
dân, vai trị của nơng dân được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi
trọng. Người cho rằng: Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên”(nghĩa trước cần
phải ăn); nước ta thì “dĩ nơng vi bản” nghĩa là (nghề nông làm gốc). “Dân ta


18
muốn ăn no thì phải trồng trọt cho nhiều, nước ta muốn giàu mạnh thì phải
phát triển nơng nghiệp”. Điều đó được khẳng định trong hệ thống tư tưởng
của Hồ Chí Minh, vấn đề nơng dân chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Người đã có những kiến giải sáng tạo, đặc sắc, có tác dụng chỉ đạo lâu dài đối
với cách mạng Việt Nam.
Với lực lượng đông đảo, nông dân là lực lượng nòng cốt trực tiếp tham
gia lao động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng nông thôn, tạo
ra nguồn của cải vật chất lương thực, thực phẩm to lớn làm thay đổi xã hội và
làm thay đổi diện mạo nông thôn, đưa nông thôn ngày càng phát triển ngày
càng văn minh tiến bộ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát triển sản xuất tạo ra lương thực thực
phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhân dân và đối với sự thành bại
của cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Mặt trận kinh tế gồm có: Cơng nghệ, bn bán, nơng nghiệp. Ngành
nào cũng quan trọng, nhưng lúc này, quan trọng nhất là nơng nghiệp, vì:
“có thực mới vực được đạo”. Có đủ cơm ăn áo mặc cho bộ đội và nhân
dân thì kháng chiến mới mau thắng lợi, thống nhất và độc lập mau thành
công [70, tr.212].
Là một vĩ nhân, với tầm nhìn xa trơng rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận

thức rõ vai trò to lớn của hậu phương. Người khẳng định rằng hậu phương là
chỗ dựa cho tiền tuyến, là nơi quyết định sự thành bại của mọi cuộc chiến
tranh, trong hậu phương thì nhân tố quyết định là lương thực, thực phẩm.
Nông dân là lực lượng chủ yếu sản xuất trực tiếp, mọi của cải phục vụ cho
tiền tuyến và ni sống xã hội. Chính vì vậy, khi tiếp xúc với cán bộ nông dân
ở nông thôn, Hồ Chí Minh ln nhắc nhở phải đặc biệt coi trọng sản xuất
nông nghiệp, phải tận dụng mọi nguồn lực cho phát triển nông nghiệp. Theo


19
Người, nếu như sản xuất nông nghiệp phát triển, lương thực, thực phẩm dồi
dào thì cuộc kháng chiến cũng như các cuộc cách mạng mau chóng đi đến
thắng lợi trong cơng cuộc xây dựng nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chính phủ trơng mong vào nơng dân, trơng cậy vào nông nghiệp một
phần lớn, nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nơng nghiệp thịnh thì nước ta
thịnh” [66, tr.246]. Nghĩa là nông nghiệp phát triển, lương thực, thực phẩm
dồi dào, nơng dân khá giả thì xã hội phồn vinh. Khi sản xuất lương thực thực
phẩm tăng lên, xã hội được đảm bảo an tồn lương thực thì mọi lĩnh vực khác
cũng ổn định.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, nông dân luôn là lực lượng chủ yếu trực
tiếp sản xuất ra lương thực, thực phẩm nuôi sống cả xã hội. Vì vậy nếu
nơng dân khơng có ý thức học hỏi, vươn lên vượt khó để làm giàu cho
chính mình, cho gia đình và cho xã hội, lười biếng trong lao động, thờ ơ
với thời cuộc, ỷ lại trông chờ vào chính quyền và trợ cấp của xã hội thì dù
Đảng có đường lối về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn đúng đắn tới mấy.
Dù có tiềm năng về nguồn lực đất đai, khoa học cơng nghệ, vốn có mạnh
đến mấy, cũng không thể trở thành hiện thực. Đời sống nơng dân khó có
thể thốt được nghèo nàn và lạc hậu, kinh tế của địa phương vẫn mãi là nền
nơng nghiệp sản xuất nhỏ, khép kín và trì trệ. Ngược lại, nếu nông dân
nhận thức được các chủ trương, nghị quyết của Đảng, thay đổi cách nghĩ,

cách làm, đổi mới tư duy kinh tế, năng động sáng tạo thì nơng dân sẽ chủ
động thốt ra khỏi đói nghèo và lạc hậu. Với đường lối, chủ trương đúng
đắn của Đảng và các tiềm năng nguồn lực to lớn sẵn có, cùng với tinh thần
cách mạng đấy nhiệt huyết của nông dân, chắc chắn sẽ tạo nên sức mạnh
tổng hợp phát triển nơng nghiệp tồn diện và mục tiêu xây dựng nông thôn
mới sẽ sớm giành được thắng lợi.


20
Thứ ba: Nơng dân gắn bó chặt chẽ với giai cấp cơng nhân và tầng lớp
trí thức, hình thành khối liên minh cơng- nơng- trí thức vững chắc, nền tảng
của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Có thể thấy, do địa vị kinh tế - xã hội và bản chất giai cấp mình, nơng
dân tự nguyện tìm đến với giai cấp cơng nhân. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định “nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh
rất trung thành của giai cấp công nhân” [68, tr.248]. Trên cơ sở đánh giá đúng
vai trị của nơng dân. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và vận
động nông dân, sớm xây dựng khối liên minh công nông vững chắc, là một
trong những điều kiện cơ bản đem lại thắng lợi của cách mạng. Qua thực tiễn
cách mạng nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:
Chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo
mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách
mạng giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động,
hồn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến
lên chủ nghĩa xã hội [59, tr.391].
Trong cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới liên minh
công nông. Người chỉ rõ, giai cấp nông dân nếu khơng theo giai cấp cơng
nhân lãnh đạo thì khơng thốt khỏi áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến;
cịn giai cấp công nhân nếu không thắt chặt liên minh với nơng dân thì khơng
năm quyền lãnh đạo trong dân tộc và như vậy không thể đưa cách mạng đến

thành công
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến liên minh cơng nơng. Bởi theo Người, sự liên minh này:“làm nền
tảng, trên đó có thể thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và
vững chắc”. Trong cái nền tảng liên minh công nông của Mặt trận dân tộc
thống nhất, nếu giai cấp cơng nhân có vai trị quyết định về phương diện lãnh
đạo thì giai cấp nơng dân có vai trị chủ yếu về mặt lực lượng. Chính vì vậy,


21
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ có giai cấp cơng nhân lãnh đạo thì giai cấp
nơng dân mới được giải phóng, cho nên giai cấp cơng nhân ắt phải chăm chú
đến vấn đề nông dân, phải củng cố liên minh.
Từ kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng phải thực hiện cho được liên minh cơng nơng, đó là sự đảm bảo vững
chắc nhất cho những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công
nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới cỏ thể kiên quyết và triệt để đánh đổ
các thế lực phản cách mạng, giành chính quyền của nhân dân lao động, hoàn
thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ và tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Do đó khi đánh giá về vai trị của của giai cấp nơng dân cần nhận rõ
tính tất yếu của khối liên minh công - nông và cần khẳng định sự liên minh
này là liên minh “đặc biệt”, trong đó giai cấp cơng nhân phải giữ vững vai trò
lãnh đạo. Sự liên minh ấy, chẳng những chỉ nhằm đánh đổ giai cấp bóc lột mà
cịn tạo ra những điều kiện cần thiết để xây dựng một chế độ xã hội mới văn
minh hơn, tốt đẹp hơn.
Nhờ có liên minh với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân đã phát huy
tinh thần cách mạng và khả năng, tiềm tàng góp phần to lớn vào những thắng
lợi của cách mạng. Qua đó, giai cấp nơng dân cũng có nhiều biến đổi và
trưởng thành, từ địa vị nô lệ, bị áp bức bóc lột nặng nề lên làm chủ đất nước,
làm chủ nông thôn. Là lực lượng hùng hậu nhất trong khối liên minh cơng nơng - trí thức, nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất.

1.2.3. Tiềm năng của nơng dân Việt Nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề giải phóng nơng dân cần được đặt
ra trên cả hai phương diện: Nông dân phải được sống trong môi trường xã hội
tốt đẹp, đồng thời phải được đáp ứng những đòi hỏi vật chất ngày càng cao.
Ở Việt Nam một nước thuộc địa, nửa phong kiến trước đây, một nước
nông nghiệp kém phát triển sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc giải


22
phóng nơng dân khơng tách rời và nằm ngồi cơng cuộc giải phóng dân tộc và
giải phóng xã hội. Phương châm của Hồ Chí Minh là “đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta” đã và đang được thực tế minh chứng là đúng đắn.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, số lượng đông đảo giai cấp nông dân
là một nguồn nhân lực dồi dào của công cuộc dựng nước và giữ nước. Hồ Chí
Minh nêu một số ví dụ:
- Trong vệ quốc quân và bộ đội địa phương, dân qn du kích, số đơng là
nơng dân.
- Tăng gia sản xuất để ni bộ đội, ni cơng nhân cũng chính là nông dân.
- Công việc phá hoại để chống giặc, công việc sửa chữa đường sá, giao
thông vận tải phần lớn do nơng dân làm.
Hồ Chí Minh khái qt “nơng dân là một lực lượng rất to lớn của dân
tộc. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật
sự ắt phải dựa vào lực lượng của nơng dân”. “Đồng bào nơng dân sẵn có lực
lượng to lớn, sẵn có lịng nồng nàn u nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu
tranh và hy sinh” [65, tr.710].
Cả 3 yếu tố trên (lực lượng, yêu nước, chí khí) tổng hợp thành chất cách
mạng của giai cấp nông dân Việt Nam. Song do những đặc điểm về bản chất
giai cấp mà nông dân với số lượng và chất lượng ấy vẫn không thể làm một
cuộc cách mạng để tự giải phóng mình. Trong chế độ phong kiến những cuộc
nổi dậy của nông dân chỉ đập phá những triều đại đang thống trị, đè nén mình

rồi lại xây lên trên hoang tàn, đổ vỡ ấy một triều đại mới mang bản chất của
chế độ cũ mà thôi.
Giai cấp tư sản ở một số nước châu Âu đã biết lợi dụng nông dân, lôi kéo
họ tham gia vào cuộc cách mạng tư sản, dùng họ làm lực lượng đập phá lâu đài
phong kiến. Cách mạng tư sản thắng lợi nhưng nông dân vẫn bị bóc lột áp bức.
Thống nhất với quan điểm của các nhà kinh điển mác xít, Hồ Chí Minh
cho rằng giai cấp nông dân Việt Nam muốn được giải phóng chỉ có đi theo


23
giai cấp công nhân, chiến đấu dưới lá cờ đỏ búa liềm của giai cấp công nhân
và làm “một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân” [65, tr.710]
và cùng công nhân làm gốc, làm người chủ cách mạng. Khi đó sức nơng dân
mới mạnh và cũng chỉ mạnh khi nó được tổ chức lại và đặt trong các tổ chức
cách mạng. Giai cấp nông dân chỉ mạnh và sức mạnh được nhân lên gấp bội
khi giai cấp nông dân nằm trong các tổ chức cách mạng dưới sự lãnh đạo của
giai cấp cơng nhân.
Để duy trì sức mạnh của nơng dân, theo Hồ Chí Minh phải: “Tổ chức
nơng dân thật chặt chẽ. Đồn kết nơng dân thật khăng khít. Huấn luyện nơng
dân thật giác ngộ. Lãnh đạo nơng dân hằng hái đấu tranh cho lợi ích của nông
dân của Tổ quốc” [65, tr.710]. Điều này đồng nghĩa với việc đưa nơng dân
vào các tổ chức, đồn kết họ trong nông hội. Nông hội (hội nông dân) - theo
đánh giá của Hồ Chí Minh “là một cái nền cách mệnh của dân ta” [66, tr.459].
Bởi lẽ “có hội hè rồi tức là có tình thân ái, sau khi khuyên nhau học hành. Đã
biết “cách mệnh” tinh thần; “cách mệnh kinh tế” thì “cách mệnh chính trị
cũng khơng xa”. Hồ Chí Minh chỉ rõ, ngay trong tổ chức Mặt trận dân tộc
thống nhất, trong khối đoàn kết toàn dân thì cơng - nơng ln là nịng cốt, là
lực lượng cơ bản nhất.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh gửi
thư cho nơng gia Việt Nam, Người viết: “Việt Nam là một nước sống về nông

nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc” [64, tr.215]. Khi miền Bắc
đã hồn tồn giải phóng chuyển sang làm nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Vì nước ta là nước nông nghiệp, mọi
việc đều dựa vào nông nghiệp”. Và “phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ
quan trọng” [70, tr.544]. Hồ Chí Minh đặt niềm tin rất lớn vào nơng dân. Lực
lượng nơng dân được Hồ Chí Minh coi là điều kiện nhân hoà trong 3 điều
kiện thuận lợi thiên thời, địa lợi, nhân hoà để phát triển nông nghiệp, đây


24
cũng là sự gửi gắm niềm tin của Người đối với nơng dân. Niềm tin đó được
khẳng định trên cơ sở nơng dân được giải phóng cả tư tưởng và sức lao động.
Trước lúc đi gặp cụ C.Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh, Hồ
Chí Minh vẫn quan tâm sâu sắc tới nông dân, Người dặn Đảng và Nhà nước
ta: Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi nên miễn thuế nông nghiệp một
năm để nông dân hỉ hả, mát lòng mát dạ, thêm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Đây cũng là sự quan tâm của Hồ Chí Minh đối với nơng nghiệp và nơng dân,
là sự kế thừa tư tưởng “khoan thư sức dân” của các vị anh hùng dân tộc.
1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC
VẬN ĐỘNG NƠNG DÂN

1.3.1. Vai trị, vị trí của cơng tác vận động nơng dân
Theo Hồ Chí Minh, vai trị, vị trí cơng tác vận động nông dân được thể
hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất: Tập hợp đồn kết đơng đảo nơng dân vào trong
tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng để phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội - xây dựng lực lượng
Nơng dân có vai trị to lớn trong lịch sử phát triển của lồi người. Vai
trị ấy, nếu được các lực lượng chính trị tiến bộ, những người cầm quyền nhận
thức đúng đắn và có những giải pháp phát huy tốt trong hoạt động của nơng

dân thì sẽ thu được thắng lợi. Do đó, vận động nơng dân có vai trò hết sức
quan trọng trong mọi thời kỳ cách mạng, ln được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định: Là công tác chiến lược trong bất kỳ thời kỳ cách mạng. Vấn
đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề đồn kết, tập hợp được đơng đảo
nông dân. Bởi nông dân là lực lượng đông đảo nhất, là đội quân chủ lực của
cách mạng; giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức làm nền tảng; là lực lượng cơ bản để phát triển nông - lâm - ngư nghiệp,
gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan
trong hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội.


25
Xuất phát từ vị trí, vai trị của giai cấp nơng dân, trong suốt q trình
lãnh đạo cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Nơng dân là một lực
lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công
nhân, muốn kháng chiến, kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật
sự phải dựa vào lực lượng của nông dân, nếu nông dân được lãnh đạo tốt thì
khó khăn gì họ cũng khắc phục được, việc gì to lớn mấy họ cũng làm được.
Theo Người, nơng dân chỉ có sức mạnh khi được giác ngộ. Nhưng sức
mạnh của nông dân chỉ trở thành sức mạnh vật chất, khi nông dân được tổ
chức; nơng dân có tổ chức thì sức mạnh của họ được nhân lên gấp bội, giác
ngộ và tổ chức nông dân là những khâu, những nấc thang liên hoàn trong vận
động nông dân. Quan điểm này thống nhất và xuyên suốt trong q trình hoạt
động của Hồ Chí Minh. Muốn giác ngộ, tổ chức phải đi đến đồn kết nơng
dân. Để đồn kết được nơng dân thì tổ chức của nông dân phải xác định rõ
mục tiêu, nội dung của tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chỉ có thể
xây dựng được lực lượng cho cách mạng trên cơ sở nhân dân và chủ yếu là
nông dân. Hiểu rõ cuộc sống của họ, của con cháu họ gắn bó với quyền độc
lập thiêng liêng của dân tộc, chỉ có dân tộc được độc lập thì quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của người nơng dân “Người cày có

ruộng” mới thực hiện được. Khi đó người nơng dân mới tự giác tham gia cách
mạng và họ mới đủ nhận thức và quyết tâm vượt qua khó khăn, kể cả sự hy
sinh tính mạng để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Thứ hai: Phát huy quyền làm chủ, sức mạnh và trí tuệ của nơng dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - thực hành dân chủ.
Nơng dân Việt Nam vốn giàu lịng yêu nước và nhiệt tình cách mạng,
chịu đựng gian khổ, hy sinh, lao động cần cù, sáng tạo góp phần quan trọng
trong việc giữ vững và phát triển sản xuất, bảo đảm cuộc sống cho cả cộng
đồng dân tộc. Đồng thời đấu tranh kiên cường chống áp bức, bóc lột của thực
dân, đế quốc, phong kiến để dành độc lập, tự do, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
và giải phóng cho giai cấp mình.


×