HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CH MINH
PHM TH L
XÂY DựNG ĐộI NGũ CáN Bộ CHủ CHốT
CấP XÃ
ở HUYệN ĐÔNG SƠN, TỉNH THANH HóA
HIệN NAY
THEO TƯ T¦ëNG Hå CHÝ MINH
Chun ngành
Mã số
: Hồ Chí Minh học
: 60 31 27
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VĂN THÁI
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tơi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất cứ cơng trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Thị Lệ
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CƠNG TÁC
CÁN BỘ
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
10
10
37
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
Ở HUYỆN ĐƠNG SƠN TỈNH THANH HĨA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
64
2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (2010-2013)
2.2. Nội dung, phương hướng và một số giải pháp xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Đông Sơn trong những năm tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
64
88
111
113
120
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTHĐND
:
Chủ tịch Hội đồng nhân dân
ĐTNCS
:
Đồn Thanh niên cộng sản
HCCB
:
Hội Cựu chiến binh
HĐND
:
Hội đồng nhân dân
HLHPN
:
Hội Liên hiệp phụ nữ
HND
:
Hội Nông dân
MTTQ
:
Mặt trận Tổ quốc
UBND
:
Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ và vấn đề chất lượng cán bộ ln giữ vị trí, vai trị quyết định
trong đời sống chính trị đối với mọi giai cấp cầm quyền và trong các cuộc
cách mạng. Để tồn tại và phát triển, mỗi chế độ đều phải tạo cho mình những
con người hết lịng trung thành, có trí tuệ và năng lực tương xứng. Họ là lực
lượng nịng cốt trong bộ máy chính trị của giai cấp cầm quyền, là nhân tố
quyết định sự thành bại của mọi cuộc cách mạng. V.I. Lênin - người thầy vĩ
đại của giai cấp vơ sản đã từng nói: “Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó khơng hề đào tạo được trong hàng ngũ của
mình những nhà lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng
tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm thấy được vai trò to lớn của cán
bộ, Người đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
đủ đức, đủ tài, vừa “hồng” vừa “chuyên” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
từng thời kỳ của sự nghiệp cách mạng. Những quan điểm của Người về cán
bộ và công tác cán bộ là cơ sở lý luận chỉ đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong hơn 80 năm qua.
Hiện nay, sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng
với những thành tựu to lớn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, lĩnh vực chính trị
cũng có những chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của nền kinh tế đang chuyển đổi và phát triển. Đội ngũ cán bộ đã có bước
trưởng thành đáng kể. Phần lớn đội ngũ cán bộ chủ chốt có bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta đã lựa chọn; năng động, sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng, trình độ kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn được nâng
cao, nhanh chóng thích nghi với cơ chế mới. Số đơng cán bộ giữ được phẩm
chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, chăm lo phấn đấu cho sự nghiệp chung.
Không ít cán bộ tận tuỵ, tích cực tìm tịi cái mới, vận dụng sáng tạo, đúng đắn
2
quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước triển khai đến từng
người dân, tạo ra những điển hình, điểm sáng được nhân dân tin yêu, mến phục.
Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của thời kỳ mới, đội ngũ
cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp xã đã và đang bộc lộ những tồn tại,
khuyết điểm, hạn chế cả về phẩm chất và năng lực lãnh đạo. Nghị quyết Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, kém ý thức tổ chức kỷ
luật”. “Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ
hội chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ
phận cán bộ cơng chức diễn ra nghiêm trọng”. Đó cũng là một trong những
nguy cơ lớn cản trở sự phát triển của đất nước và làm suy giảm uy tín của
Đảng. Để khắc phục tình hình nói trên, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới hiện nay và những năm sắp tới, Nghị quyết Đại hội lần thứ XI
của Đảng đã xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ”,
xây dựng được đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đủ phẩm chất và năng lực,
khắc phục những hạn chế yếu kém của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong thời
gian qua. Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã ra
Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”, trong đó
đặc biệt chú trọng đến nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội
ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trước hết là cấp chiến lược và cấp cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố
khơng nằm ngồi thực trạng nói trên. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trong
huyện còn nhiều bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới: Năng lực
tư duy lý luận, năng lực định hướng chính trị, năng lực tổ chức thực tiễn, năng
lực vận động quần chúng còn nhiều bất cập, lúng túng nhiều điểm yếu kém ở
nhiều cương vị được giao; công tác đánh giá, lựa chọn, sử dụng, quy hoạch,
bồi dưỡng, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, chế độ, chính sách, kiểm tra,
quản lý cán bộ ở một số đơn vị còn chưa thực sự hợp lý. Phần lớn cán bộ chủ
chốt cấp xã chưa được đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống, phong cách lề lối làm
3
việc chưa khoa học, tinh thần trách nhiệm chưa cao nên hiệu quả thấp, hiệu
lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp xã cịn nhiều hạn chế.
Đây cũng là nguyên nhân cơ bản hạn chế đến kết quả hồn thành nhiệm
vụ chính trị của Đảng bộ huyện trong những năm qua và cũng làm giảm niềm
tin, uy tín của nhân dân với Đảng và Nhà nước ta.
Vì vậy, để lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố huyện nhà, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh
Hố hiện nay là vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa rất căn bản và
lâu dài. Đó chính là lý do khiến tác giả chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hố hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp, hy vọng sẽ góp phần vào
việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Đông Sơn đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ mà Đảng bộ và nhân dân huyện nhà giao cho.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ là vấn đề quan
trọng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước. Trong
những năm vừa qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này dưới
nhiều góc độ khác nhau.
2.1. Về sách chuyên khảo, chuyên đề, đề tài khoa học, kỷ yếu hội thảo
khoa học, tiêu biểu là các cơng trình
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ”, chuyên đề khoa học cấp Nhà nước
KX.02 do GS Đặng Xuân Kỳ làm chủ biên. Trong chuyên đề này, các tác giả
đã đi sâu nghiên cứu những mặt hợp thành nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ, cơng tác cán bộ, vai trò cán bộ, tiêu chuẩn của cán bộ, các mắt khâu
tạo thành quy trình cơng tác cán bộ. Trên cơ sở đó, các tác giả khẳng định tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ là cơ sở lý luận cho việc hoạch định
chiến lược cán bộ của Đảng thời kỳ đổi mới.
- “Góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
hiện nay”, TS Hà Quang Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác
4
giả đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ cán bộ cơng chức trong tình hình mới; nhấn mạnh vai trị, đạo đức của
người cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ đảng viên
hiện nay, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, PGS,TS
Hồng Trang, Phạm Ngọc Anh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008, với nội
dung: Quá trình hình thành chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh; đặc điểm và vị
trí tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh và sức sống lâu dài của tư tưởng. Vấn đề đẩy mạnh việc giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên là yêu cầu bức
thiết nhất trong điều kiện chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, thực
hiện q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ”, PGS, TS Bùi
Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003 với nội dung: Sự hình thành, phát
triển, nội dung chủ yếu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ,
vận dụng trong thời kỳ đẩy mạnh Cơng nghiệp hố, Hiện đại hố đất nước.
- “Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ”, PGS, TS Đức Vượng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Tác giả đã trình bày quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, vấn đề dùng người, về phương hướng và
phương pháp dùng người; tìm nguồn nhân tài để sử dụng, lựa chọn nhân tài
cho cách mạng; huấn luyện đánh giá, phê bình, cán bộ có cái “tâm” trong việc
dùng người.
- “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”, PGS,TS Nguyễn
Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên, tái bản và lưu hành nội bộ), Nxb
CTQG, Hà Nội, 2003. Tác giả đã nêu lên thực trạng của đội ngũ cán bộ và
đưa ra các căn cứ khoa học để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
5
- “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác tổ chức, cán bộ”, Bùi Kim Hồng,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2009. Tác giả đã có nhiều năm tháng cơng tác
tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ chủ tịch, đã sưu tầm một số lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng những bài viết của mình về vấn đề cán
bộ, những câu chuyện, bài học rút ra từ tư tưởng của Người về công tác tổ
chức và cán bộ - nguồn lực quan trọng, nhân tố làm nên mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
- “Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ”, TS. Nguyễn Minh Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia
- sự thật, Hà Nội - 2012. Tác giả đã phân tích và trình bày vị trí vai trị to
lớn của công tác cán bộ đối với sự phát triển của đất nước; những yêu cầu
của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế về công tác cán bộ; một số vấn đề về đổi mới cán bộ thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ từng
khâu trong công tác cán bộ; xây dựng tổ chức và con người làm công tác tổ
chức cán bộ.
- “Đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý, kinh nghiệm từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh”, TS. Tần Xuân Bảo, Nxb CTQG - sự thật, Hà Nội, 2012.
Tác giả nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm và nêu ra những kiến nghị, đề xuất
trong công tác đào tạo cán bộ, quản lý căn cứ thực trạng nhu cầu về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Những cơng trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí
- Hồng Chí Bảo (2002), “Giáo dục và thực hành đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2).
- Dương Xuân Ngọc (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và huấn
luyện cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (7).
- Đặng Sĩ Lộc (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, (5).
6
- Trần Minh Quế (2007), “Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn ở Bắc Giang”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).
- Trần Đình Thu (2007), “Bốn giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở Kon Tum”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).
- TS Lại Quốc Khánh (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng
tác cán bộ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4).
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập một cách sâu sắc những vấn đề về
cán bộ và công tác cán bộ ở một số tỉnh thành. Đồng thời, các tác giả đã nêu lên
được những giải pháp quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn trong giai đoạn đẩy mạnh Cơng nghiệp hố Hiện đại hố đất nước. Tuy nhiên, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ chủ chốt cấp
xã ở huyện Đông Sơn vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu và đề cập tới.
2.3. Một số luận án, luận văn
- Đoàn Phú Hưng (2008), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Thành phố Cà
Mau”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị (chuyên ngành Hồ Chí Minh
học), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Phạm Thị Thanh Nhàn (2012), “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị (chuyên ngành Hồ Chí
Minh học), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lê Phương Thảo (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
và vận dụng vào thực hiện công tác cán bộ ở thành phố Hà Giang trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, (chuyên ngành Hồ Chí
Minh học), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lê Thị Lan Hương (2006), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
vào việc đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính
trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
7
- Nguyễn Thị Lương Uyên (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính
trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đề xuất
phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ đáp ứng yêu
cầu đặt ra ở nhiều địa phương khác nhau. Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố theo quan điểm Hồ Chí
Minh, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu hồn chỉnh nào đề cập
tới. Kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước sẽ là nguồn tư liệu quý báu
giúp tác giả hoàn thành bản luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ; thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Đông Sơn; đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá đáp ứng yêu cầu nhiệm của
địa phương hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ:
- Làm rõ những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
cơng tác cán bộ.
- Phân tích đánh giá một cách khách quan, khoa học thực trạng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã trên địa bàn huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
- Đề xuất phương hướng, nội dung và một số giải pháp cơ bản nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Đông Sơn theo tư tưởng Hồ Chí
Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương trong giai đoạn hiện nay.
8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ.
- Thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã và công
tác cán bộ ở huyện Đông Sơn, Thanh Hoá.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Đông Sơn trong những năm 2010-2013; đề xuất phương hướng, giải pháp
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hoá đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay và
trong những năm sắp tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng ta về cán bộ và công tác cán bộ.
- Luận văn thực hiện theo phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa phương pháp logic và lịch sử,
điều tra, khảo sát, thu thập số liệu, phân tích, tổng hợp, chú trọng phương
pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Qua khảo sát chất lượng công tác cán bộ ở huyện Đơng sơn, tỉnh Thanh
Hố chỉ ra những ngun nhân khiến cho việc xây dựng chất lượng công tác
cán bộ trong thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước đề ra.
- Đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở huyện Đông Sơn trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
nghiên cứu, chỉ đạo công tác cán bộ ở huyện Đông Sơn nói riêng cũng như
9
việc chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã
trong tỉnh nói chung.
- Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho công tác
nghiên cứu giảng dạy, học tập trong các trường Chính trị tỉnh, thành phố và
các huyện trong tỉnh Thanh Hố.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
10
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CƠNG TÁC CÁN BỘ
1.1. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
1.1.1. Khái niệm, vị trí vai trị của cán bộ và cán bộ chủ chốt cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ chủ chốt cấp xã
“Cán bộ” là một từ Hán - Việt được dùng phổ biến ở nước ta trong thời kỳ
chống Pháp. “Cán bộ” là một danh từ chỉ lớp người là những chiến sĩ cách mạng,
lớp người mới sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục
vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc. Vì vậy, từ “cán bộ” đã
từng để lại dấu ấn đẹp trong lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “cán bộ” là khái niệm cụ thể và việc xác
định “nội hàm” của nó được đặt trong những mối quan hệ nhất định. Đây là
một vấn đề hết sức quan trọng, bởi vì nếu không, sẽ không hiểu được thực
chất của vấn đề là gì và khơng thể xác định đúng đắn những yêu cầu cụ thể về
năng lực và phẩm chất của mỗi loại cán bộ (như cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản
lý, cán bộ chun mơn, khoa học,...). Từ đó, sẽ không xác định được những
nội dung, biện pháp để phát huy vai trò, cũng như xây dựng đồng bộ đội ngũ
cán bộ cho sự nghiệp cách mạng.
Qua các tác phẩm, bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh, ta thấy “cán bộ”
được Người xác định trong những mối quan hệ cơ bản như sau:
Thứ nhất, đối với quần chúng nhân dân
Nhận thức đúng vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân, Hồ Chí
Minh cho rằng: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Vì vậy, khi đặt ra
và trả lời cho câu hỏi “Cách mệnh trước hết phải làm gì ?”, Người nói: “Cách
mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ” [55, tr.267]. Như vậy, để tập hợp,
đoàn kết, tổ chức và phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân phải có
những “con người sử dụng lực lượng thực tiễn”. Chính họ là những người có
trọng trách “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn
11
luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [54, tr.192], tức là đội ngũ
những người “giác ngộ dân chúng”, tập hợp và phát huy sức mạnh to lớn của
quần chúng nhân dân.
Từ đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”[58, tr.269]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh
cán bộ khơng những chỉ là người có vai trò giác ngộ và hướng dẫn, lãnh đạo
quần chúng mà còn là “chiếc cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là
“cơng bộc” của nhân dân. Bởi vì, nếu cán bộ dở thì đường lối, chính sách của
Đảng, Chính phủ không thể thực hiện được mà chỉ là “một mớ giấy lộn”.
Thứ hai, đối với công việc
Cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã phấn đấu, hy sinh cho
nhiều “công việc”. Nhưng “công việc” quan trọng nhất là “làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào, ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [57, tr.161].
Theo Hồ Chí Minh, cách mệnh là cơng việc “khổng lồ”, rất lâu dài, đầy
gian nan thử thách. Vì vậy, “phải có tổ chức rất bền vững mới thành cơng”
[55, tr.274] và “muốn cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng)
làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất”
[55, tr.280]. Cho nên, như Lênin từng khẳng định là cần có “những nhà chính trị
vơ sản và khơng thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản” [48, tr.80-81].
Trong tổng hoà các mối quan hệ đa chiều của sự nghiệp cách mạng và trong
chiều sâu tư duy chính trị Hồ Chí Minh thì “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc” [58, tr.269]. Theo quan niệm của Người: “Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo” [58, tr.252]. Vì vậy, trong mọi cơng việc mà khơng có cán bộ
thì khơng thể hồn thành.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây khơng chỉ dừng lại ở chỗ có hay khơng có cán
bộ. Đó chỉ mới là cấp độ thứ nhất, cũng như cây phải có gốc. Nhưng “gốc có
12
vững, cây mới bền”, cũng như có cán bộ tốt, cán bộ giỏi, công việc mới thành
công. Bởi vậy, cần phải hiểu “gốc” là từ đó sinh ra, làm cho cây mạnh khoẻ,
tốt tươi hay ngược lại. Hồ Chí Minh viết: “Muôn việc thành công hoặc thất
bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [58, tr.240].
Thứ ba, đối với bộ máy (cơ quan, tổ chức, lãnh đạo, quản lý)
Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh quan niệm“cán bộ là dây chuyền
của bộ máy”. Đời sống kinh tế - xã hội và toàn bộ sự nghiệp cách mạng là
một cỗ máy khổng lồ. Trong cỗ máy đó, cán bộ là dây chuyền. Hồ Chí Minh
quan niệm “dây chuyền” với ý nghĩa cán bộ và đội ngũ cán bộ là mắt xích liên
kết các bộ phận của bộ máy, là hệ thống chuyển tải năng lượng đến từng bộ
phận của bộ máy. Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy.
Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, tồn bộ máy cũng
tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành
trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện
được” [58, tr.54].
Thứ tư, đối với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng
Trả lời câu hỏi “cách mệnh trước hết phải có cái gì ?” Hồ Chí Minh
khẳng định cách mệnh “trước hết phải có Đảng cách mệnh” [55, tr.267];
Người cịn nhấn mạnh thêm: “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng cũng
như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy” [55, tr.268]. Để lãnh đạo cách
mạng, thì Đảng:
“1. Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng…
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…
3. Phải tổ chức kiểm soát…” [58, tr.285].
Muốn vậy, phải có “sự cố gắng”, phải đào tạo lấy “những nhà chính trị
giai cấp”. Cán bộ, đội ngũ cán bộ và vai trò lãnh đạo của Đảng có mối quan
hệ biện chứng. Trong đó, Hồ Chí Minh xem cán bộ là lực lượng có tính quyết
định đến vai trị lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt “khi có chính sách đúng, thì sự
thành cơng và thất bại của chính sách đó là do tổ chức cơng việc, do nơi lựa
13
chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy
cũng vơ ích” [58, tr.154]. Với cách đặt vấn đề như vậy, Hồ Chí Minh quan
niệm “cán bộ là tiền vốn của Đồn thể. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính
sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là có lãi. Khơng có cán
bộ tốt thì hỏng việc, tức lỗ vốn” [59, tr.46].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ là một khái niệm “mở”,
được Người đề cập ở nhiều góc độ, nhiều mối quan hệ và được thể hiện ở
nhiều cách khác nhau, phù hợp các vị trí vai trị của họ trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Nhưng về cơ bản, Người xem: “cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [58, tr.269]. Đó là
những người hội đủ phẩm chất đạo đức và năng lực nhất định để đảm đương
được yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, vừa là người lãnh đạo
vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Theo quan điểm Hồ Chí Minh,
cán bộ là những người làm trong các cơ quan đồn thể, cơng sở, lực lượng vũ
trang… Họ có thể là đảng viên cơ sở hoặc chưa phải, khơng phải đảng viên.
Họ có thể giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc làm công tác nghiệp vụ, chuyên
môn đơn thuần, là những người được thi tuyển hoặc nhân dân bầu và “uỷ
thác” trách nhiệm. Họ là những người hoạt động trong các thời kỳ cách mạng,
thoát ly, có lĩnh lương để phân biệt với nhân dân. Tuy nhiên trong các tác
phẩm, bài viết, bài nói, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiều đến cán bộ, đảng viên
có chức, có quyền, những người chịu trách nhiệm trực tiếp, to lớn và nặng nề
trước Đảng, nhân dân và dân tộc.
Người không đề cập đến cán bộ một cách chung chung mà ln có “tính
từ”, ln gắn với vai trị cụ thể trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng. Đó là “cán
bộ tốt”, “cán bộ kém”, “cán bộ dở”, người của tổ chức, của Đồn thể…Đặc
biệt hơn hết, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh “làm cán bộ tức là suốt đời làm
đầy tớ trung thành của nhân dân” [65, tr.555]. Điều này hoàn toàn khác với
14
“phụ mẫu chi dân”, chăn dắt người dân trong các triều đại phong kiến và bọn
quan lại thực dân “đè đầu cởi cổ nhân dân” thời kỳ trước đây.
Cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị các cấp (Trung ương,
Tỉnh - Thành phố trực thuộc Trung ương, Quận - Huyện - Thành phố trực
thuộc tỉnh, Xã - Phường - Thị trấn), nhưng vẫn mang đầy đủ những đặc trưng
của bộ máy quyền lực trong hệ thống chính trị ở nước ta. Có thể hiểu hệ thống
chính trị cơ sở bao gồm các tổ chức, các thiết chế hợp pháp có quan hệ về
mục đích, chức năng nhằm thực hiện quyền lực chính trị ở cơ sở. Theo quan
niệm hiện nay, hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm các tổ chức Đảng, chính
quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Để đạt được mục đích yêu cầu của đề tài, trước hết chúng ta cần phải xác
định thống nhất khái niệm “cán bộ chủ chốt cấp xã” là gì. Đây là vấn đề rất quan
trọng. Xác định thống nhất được khái niệm này mới có thể nắm bắt và đánh giá
đúng thực trạng tình hình và đề ra giải pháp sát hợp để góp phần xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Ngoài ra, có
xác định được khái niệm này mới có cơ sở thực tiễn để cụ thể hoá các tiêu chuẩn
một cách phù hợp và xác định được mối quan hệ cũng như trách nhiệm của các
cấp, các ngành trong việc xây dựng và kiện tồn đội ngũ này có hiệu quả.
Trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, khi đề cập đến công tác cán
bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, thường nhấn mạnh đến cụm từ “cán bộ lãnh đạo
chủ chốt”, “cán bộ chủ chốt”, “cán bộ đứng đầu”.
Đó là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong
một tập thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và
quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những
nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt tồn
bộ hoạt động của một tổ chức nhất định [83, tr 35-36].
Hiện nay, trong hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn cịn có những
quan niệm khác nhau về cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói chung, cũng như cấp
xã nói riêng.
15
Loại ý kiến thứ nhất, cho rằng cán bộ chủ chốt cấp xã bao gồm:
- Vài ba chức danh trong hệ thống chính trị ở cơ sở (xã, phường) như: Bí
thư Đảng uỷ xã, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ nhiệm hợp tác xã và trưởng
thôn (trưởng ấp) [31, tr.37].
- Là những cán bộ chủ chốt nhất trong số cán bộ chủ chốt của các tổ
chức Đảng, chính quyền và hội đồng nhân dân. Phổ biến là ba chức danh: Bí
thư Đảng uỷ xã, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và có
thể là phó chủ tịch phụ trách kinh tế [32, tr.85].
- Là Bí thư và Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ; Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Hội Nông dân xã [76, tr.141].
Loại ý kiến thứ hai, xác định đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là các uỷ
viên thường vụ Đảng uỷ xã, ít nhất gồm có những chức danh sau: Bí thư và
Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, xã đội trưởng, trưởng công an [9, tr.20].
Loại ý kiến thứ ba, cho rằng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã bao gồm
những người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã, bao gồm Bí
thư Đảng uỷ, Bí thư Đồn thanh niên, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Hội trưởng Hội liên hiệp phụ
nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh [81, tr.129].
Loại ý kiến thứ tư, cho rằng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay bao
gồm các chức danh sau: Bí thư Đảng uỷ xã; Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân; Bí thư xã đồn, Chủ tịch Mặt trận, Chủ tịch Hội Nông
dân, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh; Trưởng
Ban công an và Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự xã [41, tr.34].
Các loại ý kiến nêu trên cho thấy: dù có nhiều ý kiến khác nhau về số
lượng, chức danh cụ thể của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, nhưng vẫn có
những điểm thống nhất rất cơ bản.
Cán bộ chủ chốt là những người có chức năng lãnh đạo, được giao đảm
đương các nhiệm vụ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý, điều hành, tổ chức thực
16
hiện và chịu trách nhiệm trước tập thể các nhiệm vụ được giao trước tập thể
và cấp trên. Là người đứng đầu một cơ quan, tập thể, giữ vị trí quan trọng
trong việc hoạch định nhiệm vụ, mục tiêu, phương hướng; đề ra các quyết
định, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ ở cấp
mình và những nhiệm vụ cấp trên giao phó.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là một tập hợp những người giữ chức vụ
quan trọng nhất, đứng đầu trong hệ thống tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
ở xã, có cơ cấu hợp lý, mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất; hoạt động nhịp nhàng
phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ chính trị của xã.
Trong “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước” (Hội nghị BCHTW lần thứ 3, khoá VIII), khi xác định mục tiêu
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến cơ sở, Đảng
ta đã đặc biệt nhấn mạnh đến cán bộ đứng đầu với phẩm chất, năng lực và
bản lĩnh chính trị vững vàng trên lập trường giai cấp công nhân, với cơ cấu và
số lượng, hợp lý, đồng bộ.
Mặt khác, trong hoạt động thực tiễn xây dựng Đảng cũng như xây dựng đội
ngũ cán bộ của huyện Đông Sơn và nhất là các đề tài khoa học cấp tỉnh thường
đề cập đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những ủy viên thường vụ Đảng ủy
xã và là những người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã.
Từ sự phân tích và những căn cứ như trên, chúng ta có thể xác định: Đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những người đứng đầu, quan trọng nhất trong
hệ thống bộ máy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính
trị- xã hội; có tính quyết định, có tác dụng chính, chi phối việc lãnh đạo và
điều hành việc thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và các nhiệm vụ kinh tế - xã hội… trên địa bàn xã mà họ
phụ trách. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã bao gồm các chức danh: Bí thư
Đảng uỷ xã; Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân; Chủ
tịch Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ
nữ, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh và Bí thư Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí
17
Minh xã. (Đội ngũ cán bộ chủ chốt luận văn này đề cập chỉ là cấp xã ở địa bàn
nông thôn, không bao gồm cấp thị trấn và cấp phường).
Như vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã không đồng nhất (trùng khít)
với cấp uỷ cơ sở và khơng chỉ là các cấp uỷ viên thường vụ của Đảng uỷ xã,
nhưng tất cả đều là cấp uỷ viên, là cán bộ chuyên trách và là những người
đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã. Do đó, đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã vững mạnh là nhân tố đảm bảo việc tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền- nhà nước và
phát huy vai trị năng động, sáng tạo của các tổ chức chính trị - xã hội, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.
1.1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí vai trị cán bộ - cán bộ
chủ chốt cấp xã
Cán bộ có vị trí, vai trị quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây Đảng.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ xây dựng kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Để thực hiện tốt được những nhiệm
vụ chiến lược quan trọng đó, Đảng ta xác định phải đổi mới công tác cán bộ,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, coi đó là khâu đột phá.
Nói đến cán bộ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên những tư tưởng cơ
bản làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ của giai cấp cơng nhân.
Trong q trình truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học vào phong trào công
nhân, C.Mác khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn" [52, tr.181]. Khi chưa giành được chính
quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ những nhà
tuyên truyền cổ động, truyền bá tư tưởng cộng sản, lãnh đạo, tổ chức các
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm kết hợp với phong trào cơng
nhân để lập ra chính đảng của giai cấp cơng nhân. Trong q trình hoạt động
vừa chỉ đạo phong trào công nhân, vừa chuẩn bị các điều kiện thành lập các
Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen ý thức rất rõ vai trò của lãnh tụ cách
18
mạng mỗi nước, lãnh tụ của phong trào công nhân. Đó chính là đội ngũ những
người lãnh đạo chủ chốt của phong trào. Họ vừa là người tuyên truyền tư tưởng
cộng sản trong quần chúng, vừa là người tổ chức các phong trào đấu tranh.
Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đặc biệt coi trọng đội ngũ
"những nhà chính trị của giai cấp" thực sự của mình, những nhà chính trị vơ
sản và khơng thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản" [48, tr.80-81].
Trong tác phẩm "Những nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta", Người
chỉ rõ: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống
trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh đạo
chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào" [44, tr.473].
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vấn đề cán bộ lại càng có ý nghĩa quan
trọng. Tổng kết những năm đầu của cách mạng, V.I.Lênin khẳng định:
"Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then
chốt; nếu khơng thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy
lộn" [50, tr.449].
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, khi nói đến vấn đề cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Cán bộ là
tướng của đoàn thể" [56, tr.559], là gốc của mọi công việc. Theo Người, cán
bộ là "nhịp cầu" nối liền Đảng, Chính phủ với nhân dân, là người đem chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân dân, giải
thích cho dân hiểu rõ, cùng với nhân dân thực hiện tốt chủ trương chính sách
đó; đồng thời cán bộ cịn là người "đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng". Chủ tịch Hồ Chí Minh
cịn đặt cán bộ vào vị trí có tính chất quyết định, "là cái dây chuyền của bộ
máy. Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn
bộ máy cũng tê liệt" [58, tr.68].
Trong những vấn đề cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm mỗi
đảng viên của Đảng đều có thể được xem là cán bộ và hay dùng khái niệm
19
"cán bộ, đảng viên" để chỉ đội ngũ cán bộ nói chung. Người đặc biệt quan
tâm tới đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, đội ngũ đóng vai trị then chốt
trong việc hồn thành mọi nhiệm vụ, là nơi diễn ra mọi hoạt động của đời
sống xã hội, là nơi có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của cả hệ thống
chính trị. Trong đó, xã là cấp gần dân nhất. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “nền tảng của mọi công tác là cấp xã” và “cấp xã là
gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
công việc đều xong xuôi” [58, tr.460]. Nhưng giữ vai trò nòng cốt, điều
hành hoạt động của bộ máy tổ chức cấp cơ sở là đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Bởi đội ngũ cán bộ chủ chốt vừa thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, vừa bảo
đảm thực hiện quyền lực chính trị của chính quyền, vừa đảm bảo quyền dân
chủ của nhân dân ở cơ sở.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trị của người cán bộ được thể hiện qua
bốn mối quan hệ phải giải quyết là: với đường lối, chính sách; với bộ máy (cơ
quan lãnh đạo, quản lý); với công việc; với nhân dân. Chỉ khi nào giải quyết
tốt các quan hệ đó, người cán bộ mới thực hiện đúng vai trị của mình. Vai trị
cán bộ và công tác cán bộ chỉ được thể hiện rõ ràng, cụ thể, có hiệu lực, khi
gắn với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Để có đội ngũ cán bộ tốt, đáp ứng cho phong trào, cho nhiệm vụ của mỗi
giai đoạn cách mạng, công tác cán bộ có vị trí quyết định. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, cán bộ luôn gắn với tổ chức và chất lượng của cán bộ là kết
quả tổng hợp của tất cả các khâu trong công tác cán bộ như: tuyển chọn, đào
tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng, đề bạt, cất nhắc, kiểm tra giám
sát, phê bình và sự nỗ lực phấn đấu của từng người.
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ có vai trị to lớn,
quyết định sự thành cơng hay thất bại của mọi cơng việc. Khi bàn về vai trị
cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Người nhấn mạnh nhiều đến cán bộ, đảng
viên có chức, có quyền, những người chịu trách nhiệm trực tiếp và to lớn,
nặng nề trước nhân dân và tồn dân tộc. Họ có trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức
20
Đảng, cơ quan chính quyền, hành chính, sự nghiệp, đồn thể hay tổ chức quản
lý kinh doanh… từ cấp trung ương đến cấp cơ sở. Tuy nhiên, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên hệ
chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng, Nhà nước. Nếu cán bộ lãnh đạo
cấp Trung ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, thì cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại
có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng và hệ thống chính trị cơ sở
vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp cơ sở có trách nhiệm rất nặng nề, vai trị hết sức quan trọng trong bộ máy
của hệ thống chính trị ở địa phương.
1.1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn cán bộ
Tiêu chuẩn cán bộ là những quy định đối với cán bộ về phẩm chất chính
trị, đạo đức lối sống, trình độ văn hố, trình độ chun mơn, nghiệp vụ, năng
lực trí tuệ, khả năng đồn kết, tập hợp quần chúng, lề lối làm việc, tác phong
công tác và sức khoẻ.
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh khơng chỉ
đánh giá cao vai trị cán bộ, mà Người còn đòi hỏi những vấn đề hết sức
nghiêm khắc ở người cán bộ. Tiêu chuẩn người cán bộ cách mạng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
1.1.2.1. Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng của người cán bộ cách
mạng, là cái gốc rễ, là nguồn cội thắng lợi của mọi công việc, Người cho rằng:
Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì
muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to
tát mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hố, xấu
xa thì cịn làm nổi việc gì?
21
Theo Người, người cán bộ cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì vậy, đạo đức là bắt
buộc đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, vì muốn
làm cách mạng thì người cán bộ, đảng viên phải có cái tâm trong sáng, cái
đức cao đẹp. Cái đức, cái tâm đó phải được thể hiện trong các mối quan hệ
hàng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp và với mọi người
xung quanh.
Trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh nhiều
lần đề cập đến những phẩm chất cơ bản mà người cán bộ, đảng viên cần phải
hội tụ được bao gồm:
Một là, trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh vì độc lập, tự do
và chủ nghĩ xã hội
Tư tưởng trung với nước hiếu với dân của Hồ Chí Minh đã kế thừa giá trị
truyền thống, đồng thời vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Theo
Người, trung là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trong đó
nước là nước của dân, cịn dân là chủ của nước. Hiếu với dân là thương dân,
là phục vụ dân hết lòng, để được dân tin, dân mến. Lãnh đạo phải nắm vững
dân tình, hiểu rõ dân tâm, ln cải tạo dân sinh, nâng cao dân trí để nhân dân
hiểu và thực hành đầy đủ quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Hiếu với dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là mỗi cán bộ phải biết tin
dân, dựa vào dân, gần gũi và giúp đỡ dân, lo cho cuộc sống của dân ngày
càng tốt hơn. Theo Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh” [57, tr.51]. Chính quyền phải có
trách nhiệm lo cho dân, “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân
có chỗ ở, làm cho dân có học hành”.
Hiếu với dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh là mỗi cán bộ dù bất cứ ở
cương vị gì, giữ trọng trách gì cũng phải xuất phát từ dân, thực hành dân chủ,
“làm cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình,
dám nói, dám làm” [67, tr.294].