Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH vào CÔNG tác TUYÊN TRUYỀN của ĐẢNG bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.94 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyên truyền được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của cơng tác tư tưởng, có vai trị rất to lớn trong sự nghiệp cách
mạng cũng như trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhằm truyền bá
hệ tư tưởng, khơi dậy tinh thần cách mạng của quần chúng, góp phần tổ chức
các phong trào đấu tranh, chuẩn bị tiền đề về tư tưởng lý luận và con người
cho các cuộc cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tuyên truyền lớn của Đảng ta, là tấm gương
mẫu mực về công tác tuyên truyền. Người đã kế thừa, vận dụng và phát triển
sáng tạo lý luận Mác-Lênin về công tác tuyên truyền vào thực tiễn Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức sâu sắc: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, mà trước hết là quần chúng được tuyên truyền, giác ngộ, tổ chức dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Nhận thức rõ vai trị của cơng tác tuyên truyền đối với
sự nghiệp cách mạng, ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã
quan tâm, tổ chức chỉ đạo công tác tuyên truyền, chuẩn bị cho sự ra đời của
Đảng cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại hệ thống quan điểm và kinh nghiệm về
công tác tuyên truyền rất phong phú. Những di sản lý luận và hoạt động thực
tiễn của Người trở thành kho tàng lý luận vơ cùng q giá, có ý nghĩa thực
tiễn rất sâu sắc, là kim chỉ nam cho công tác tuyên truyền cách mạng hơn 80
năm qua của Đảng, mãi mãi là ánh sáng soi đường, chỉ đạo, định hướng cho
công tác tuyên truyền của Đảng ta hôm nay và mai sau.
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơng tác
tun truyền, Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng rất coi trọng và
thường xuyên chăm lo công tác tuyên truyền, đã xây dựng được đội ngũ cán
bộ tuyên truyền cách mạng vừa “hồng”, vừa “chuyên”, nắm vững và truyền
tải chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước



2
đến quần chúng nhân dân, góp phần đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mn
vàn khó khăn, thử thách và giành thắng lợi vẻ vang.
Hiện nay, công tác tuyên truyền của Đảng ta có nhiều thuận lợi, nhưng
cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Cơng cuộc đổi mới đất
nước diễn ra trong bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước diễn biến phức
tạp, thay đổi khó lường, thời cơ và thách thức đan xen nhau.
Các thế lực thù địch luôn đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hịa bình” để
xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại, trong đó có Việt Nam. Chúng lợi
dụng các quan hệ hợp tác, hội nhập, giao lưu, hỗ trợ... để tăng cường các
hoạt động chống phá; sử dụng các chiêu bài về “dân chủ”, “dân tộc”, “tôn
giáo”, “nhân quyền”, kết hợp với răn đe, gây bạo loạn lật đổ, gây hoang
mang, dao động làm giảm niềm tin, ý chí cách mạng của một bộ phận cán
bộ và nhân dân ta, chống phá nước ta, từng bước phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm thay đổi mục tiêu, định hướng xã hội
chủ nghĩa, tiến tới thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”.
Trong khi đó, trong Đảng xuất hiện sự suy thối về nhận thức, tư tưởng
chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, hiện tượng nhạt phai
lý tưởng cách mạng, sa sút phẩm chất đạo đức, tệ tham nhũng, lãng phí, quan
liêu có chiều hướng phát triển.
Trước tình hình đó, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận hiện
nay ở nước ta đang diễn ra gay go, quyết liệt, trở thành một trong những mặt
trận xung yếu, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh bảo vệ
nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, liên quan trực tiếp đến sự sống còn
của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải không
ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động công tác tuyên truyền để
đập tan âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, động viên cán
bộ, đảng viên và nhân dân sớm phát hiện, nhận diện chính xác kẻ thù, giữ
vững và nâng cao trận địa tư tưởng của Đảng.



3
Quản Bạ là một huyện vùng cao núi đá nằm ở phía Bắc của tỉnh Hà
Giang - vùng địa đầu biên cương của Tổ quốc, có địa hình hiểm trở, gồm
nhiều dân tộc chung sống, đời sống của nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn.
Trong những năm qua, với sự cố gắng không ngừng của Đảng bộ và nhân dân
các dân tộc trong huyện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng
bước được cải thiện. Đa số cán bộ, đảng viên luôn kiên định lập trường, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công
tác; tập trung tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, huyện vẫn cịn có những
mặt hạn chế như: Một số tổ chức cơ sở đảng chưa quan tâm đúng mức đến
công tác tuyên truyền, chưa nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị của công tác
tuyên truyền trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tính tiên phong,
gương mẫu, tính chiến đấu của một số tổ chức đảng và đảng viên chưa cao,
chưa thật sự là tấm gương cho quần chúng noi theo; một số ít cán bộ, đảng
viên và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; cịn mơ hồ, mất cảnh giác trước âm mưu
“diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch…
Để khắc phục tình trạng trên, phải không ngừng nâng cao hiệu quả công
tác tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện, đáp ứng kịp
thời đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Xuất phát từ những yêu cầu trên tôi chọn đề tài: “Công tác tuyên truyền
của Đảng bộ huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành
Hồ Chí Minh học.



4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác tun truyền và vận dụng vào thực tiễn hiện nay. Các cơng
trình nghiên cứu được cơng bố dưới dạng sách, báo, tạp chí. Có thể kể tên một
số cơng trình tiêu biểu như:
* Về sách
- Hồ Chí Minh với cơng tác giáo dục lý luận chính trị, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2006. Cuốn sách được bố cục làm 4 phần, gồm: Về
chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng con đường cách mạng Việt Nam; xây dựng
Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức; nội dung và nhiệm vụ học tập lý luận
chính trị; vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác giáo dục lý luận.
- TS. Hồng Quốc Bảo: Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng
Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006. Cuốn sách đề cập
đến nguồn gốc và những đặc trưng cơ bản của phương pháp tuyên truyền Hồ
Chí Minh; nghiên cứu thực trạng phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán
bộ hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng của Đảng. Qua đó, tác giả đưa ra một số
giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới, nâng cao phương pháp tuyên truyền của đội
ngũ cán bộ theo phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh.
- TS. Hồng Vinh và PGS, TS. Đào Duy Quát: Hồ Chí Minh với cơng tác
tư tưởng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2006. Trong cuốn sách, các
tác giả đã đi sâu nghiên cứu sự phát triển về lý luận cơng tác tư tưởng của Hồ
Chí Minh; Hồ Chí Minh với các lĩnh vực của cơng tác tư tưởng; Hồ Chí Minh
với cơng tác tư tưởng trong các tầng lớp xã hội khác nhau; phương pháp và
nghệ thuật làm cơng tác tư tưởng của Hồ Chí Minh; phát huy di sản tư tưởng
của Hồ Chí Minh vào cơng tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay.
- PGS,TS. Đào Duy Quát (Chủ biên): Công tác tư tưởng (Sách tham
khảo), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010. Cuốn sách gồm 12
chương đề cập một cách hệ thống các lĩnh vực của cơng tác tư tưởng, trong đó



5
tập trung phân tích về vai trị, vị trí của tuyên truyền, nội dung công tác tuyên
truyền; đấu tranh tư tưởng trong điều kiện hiện nay.
* Luận văn và luận án
- Hồng Quốc Bảo: “Phương pháp tun truyền Hồ Chí Minh - Những
đặc trưng và sự vận dụng để đổi mới phương pháp tuyên truyền của cán bộ
tuyên truyền cấp tỉnh và huyện của Đảng hiện nay”, luận án tiến sĩ Triết học,
Viện Mác-Lênin, năm 2004. Nội dung luận án đề cập đến phương pháp tuyên
truyền và nguồn gốc của phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh; những đặc
trưng cơ bản trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh; vận dụng phương
pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh để đổi mới phương pháp tuyên truyền của
cán bộ tư tưởng cấp tỉnh, huyện của Đảng hiện nay.
- Phạm Phú Thịnh: “Hồ Chí Minh với công tác tuyên truyền và vấn đề
nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền hiện nay”, luận văn Thạc sỹ Hồ
Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008. Tác giả
đã trình bày hai nội dung: Hồ Chí Minh với cơng tác tun truyền và nâng cao
chất lượng công tác tuyên truyền dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Các đề tài, hội thảo khoa học
- Đề tài khoa học cấp bộ, năm 1996, do TS. Lương Khắc Hiếu làm chủ
nhiệm về “Tư tưởng, phong cách tuyên truyền Hồ Chí Minh và một số suy
nghĩ về công tác tuyên truyền hiện nay”. Đề tài đã nêu được một số nội dung
cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền; làm rõ phong cách sử dụng
ngơn ngữ văn bản trong khi nói, viết của Hồ Chí Minh và nêu lên một số giải
pháp nhằm đổi mới công tác tuyên truyền.
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác tư tưởng,
lý luận”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, do Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh tổ chức. Các bài viết tập trung vào các nội dung: Hồ Chí Minh Nhà tư tưởng lý luận; một số quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng, lý luận;
công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí



6
Minh.
* Bài viết đăng tải trên các tạp chí:
- Tạp chí Cơng tác Tư tưởng - Văn hố có các bài: “Bác Hồ với công tác
tư tưởng” của Hồ Vân, số 5/1993; “Bác Hồ với hiệu quả công tác tuyên
truyền” của Hoàng Quốc Bảo, số 5/1997; “Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ
những người làm báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Nguyễn Viết Thơng,
“Nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền tư tưởng báo chí Hồ Chí Minh”
của Phạm Văn Khánh và “Quan điểm của Hồ Chí Minh về báo chí cổ vũ nhân
tố mới” của Hữu Thọ, số 6/2004; “Tính dễ hiểu - một đặc trưng cơ bản trong
phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh” của Hồng Quốc Bảo, số 7/2002;
“Cơng tác tư tưởng trong kháng chiến chống Mỹ - Thành công và kinh
nghiệm” của Phùng Thị Hiển, số 8/2004; “Hồ Chí Minh và những nguyên lý
công tác tư tưởng - lý luận” của Trần Kim Cúc, số 9/2005.
- Tạp chí Thơng tin lý luận: “Học tập phương pháp tuyên truyền giáo dục
tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh” của Nguyễn Hữu Đổng, số 3/2000;
“Cơng tác tư tưởng theo phương pháp Hồ Chí Minh” của Vũ Hiền, số 8/2000.
- Tạp chí Lịch sử Đảng: “Qn triệt quan điểm Hồ Chí Minh về cơng tác
tư tưởng, lý luận trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay” của Lý Thị Bích
Hồng, số 3/2005; “Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam qua cảng Hải Phòng trong những năm 20 của thế kỷ XX” của Đinh
Xn Lâm, số 12/2006.
Nhìn chung, các cơng trình, bài báo đã nêu trên đều đề cập đến công tác
tuyên truyền của Đảng dưới nhiều giác độ và nội dung khác nhau. Đó là
những cơng trình khoa học cung cấp nguồn tư liệu quý, những đánh giá quan
trọng để tác giả luận văn tham khảo, kế thừa phục vụ cho việc thực hiện luận
văn của mình.
Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu cụ thể nào về vận dụng tư

tưởng Hồ Chí Minh vào cơng tác tun truyền trên địa bàn huyện Quản Bạ, tỉnh


7
Hà Giang cho nên đề tài không trùng lặp với các kết quả của đề tài đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác tuyên truyền và vận dụng
vào công tác tuyên truyền ở Đảng bộ huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ các khái niệm liên quan.
- Phân tích một cách có hệ thống những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơng tác tun truyền.
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơng tác tun truyền của Đảng bộ huyện Quản
Bạ, tỉnh Hà Giang (2005-2013); chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; trên cơ
sở đó đề ra nội dung, giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền của
Đảng bộ huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền.
- Công tác tuyên truyền của Đảng bộ huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cơng tác
tun truyền.
- Cơng tác tun truyền của Đảng bộ huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang
(2005 - 2013).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác tuyên truyền.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quán triệt phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,


8
tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lơgíc, phương
pháp lịch sử, kết hợp lơgic với lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp;
phương pháp quy nạp - diễn dịch; phương pháp khảo sát, tổng kết thực tiễn...
để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ tính khoa học nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh
về cơng tác tuyên truyền.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền của
Đảng bộ huyện Quản Bạ (2005 - 2013); làm rõ những vấn đề đặt ra trong công
tác tuyên truyền hiện nay trên địa bàn huyện. Đề xuất, nội dung và các nhóm
giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền của Đảng bộ huyện
Quản Bạ giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ giá trị lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác tun truyền; những chủ trương, giải pháp của Đảng bộ huyện
Quản Bạ trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền vào
việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm an ninh - quốc phòng trên địa bàn huyện giai đoạn hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho cấp ủy và Ban Tuyên giáo từ huyện đến cơ sở trên địa bàn huyện Quản
Bạ vào việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác tuyên truyền của Đảng;
trong bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên truyền cho đội ngũ cán bộ Tuyên
giáo ở cơ sở; có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy

và học tập tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung


9
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC TUN TRUYỀN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRỊ CỦA CƠNG TÁC TRUN TRUYỀN

1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Tun truyền
Thuật ngữ “tuyên truyền” có nguồn gốc từ tiếng La tinh (propaganda nghĩa là truyền đạt, truyền bá, phổ biến một quan điểm nào đó). Theo một số
tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền xuất hiện khoảng hơn 400 năm
trước đây, được nhà thờ La Mã sử dụng để chỉ đạo hoạt động của các nhà
truyền giáo nhằm thuyết phục, lôi kéo những người khác phấn đấu theo đức tin
của đạo Kitô. Về sau, thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng một cách rộng rãi
nhằm biểu đạt một cách cụ thể các hoạt động nhằm tác động đến suy nghĩ, tư
tưởng, tình cảm của người khác, từ đó định hướng hành động của họ theo một
khuynh hướng nhất định. Tùy vào mỗi cách tiếp cận, thuật ngữ tuyên truyền cịn
được một số nhà khoa học, hoạt động chính trị giải thích khác nhau.
Cách hiểu đơn giản nhất về tuyên truyền được giải thích trong các
cuốn “Từ điển tiếng Việt”. Sách Từ điển tiếng Việt cho rằng tuyên truyền là
phổ biến một chủ trương, một học thuyết, để làm chuyển biến thái độ của
quần chúng và thúc đẩy quần chúng hoạt động theo một đường lối và nhằm
một mục đích nhất định [72, tr.840]; còn Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa:
“Tuyên truyền là giải thích rộng rãi để thuyết phục, vận động mọi người
làm theo” [81, tr.1753].
Theo Từ điển Chính trị (bỏ túi) thì: “Tun truyền - việc phổ biến và giải

thích các tư tưởng, học thuật, tri thức, lý luận để thuyết phục mọi người tin
theo. Tuyên truyền là công cụ mạnh mẽ của đấu tranh giai cấp, bởi vì có thể
thu hút quảng đại quần chúng nhân dân bằng báo chí, phát thanh và vơ tuyến


10
truyền hình” [70, tr.125].
Từ điển Chính trị định nghĩa: “Tun truyền là giải thích, phổ biến một tư
tưởng, học thuyết, lý luận chính trị nhất định nào đó” [69, tr.793].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu định nghĩa về tuyên truyền rất đơn giản, dễ
hiểu và dễ nhớ như sau: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu,
dân nhớ, dân theo, dân làm” [57, tr.191].
Lược qua một số từ điển, thuật ngữ tuyên truyền có nhiều cách giải thích
ở các cấp độ khác nhau, vừa có nghĩa rộng, vừa có nghĩa hẹp, được thể hiện
như sau:
Tuyên truyền là hoạt động truyền bá, phổ biến, giáo dục, giải thích của
chủ thể về một tư tưởng, một học thuyết hay một vấn đề nào đó đối với đối
tượng tuyên truyền. Tuyên truyền là thuyết phục người khác bằng những căn
cứ lý luận khoa học, nhằm đạt tới mục đích là làm thay đổi nhận thức, hình
thành một kiểu ý thức xã hội, thế giới quan nhất định ở đối tượng cho phù hợp
với lợi ích chủ thể tuyên truyền. Tuyên truyền phải đạt tới hiệu quả kích thích,
thúc đẩy đối tượng hành động theo quan điểm, đường lối, mục đích đặt ra.
Tuyên truyền là một hoạt động xã hội đặc biệt, có tính lịch sử cụ thể và
mang bản chất giai cấp. Bởi lẽ, hoạt động tuyên truyền nhằm giải thích, phổ
biến, vận dụng những giá trị lý luận đã đúc kết và khái quát từ hoạt động thực
tiễn và thông qua hoạt động thực tiễn. Hoạt động tuyên truyền không chỉ
nhằm phổ biến đơn thuần những kết luận của khoa học, của lý luận mà còn
phát triển những kết luận đó, cụ thể hóa, làm cho chúng phong phú hơn. Mặt
khác, hoạt động tuyên truyền là nhằm phổ biến trong quần chúng hệ tư tưởng,
quan điểm, đường lối, chính sách của một giai cấp, một chính đảng nhất định.

Trong xã hội có giai cấp thường có nhiều cách tuyên truyền khác nhau, mỗi
cách tuyên truyền tương ứng với một hệ tư tưởng tồn tại trong xã hội đó.
Tóm lại, có thể hiểu tun truyền là q trình truyền bá, phổ biến, giáo dục,
giải thích một quan điểm, đường lối, chính sách của một chính đảng, một giai


11
cấp để củng cố, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, xây dựng thành niềm tin; hình
thành phương pháp suy nghĩ mới và cổ vũ hành động mới cho mọi người tham
gia hành động một cách tự giác vào các công việc của xã hội theo yêu cầu của
chủ thể tuyên truyền, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Một khái niệm liên quan tới tuyên truyền, đó là cổ động. Theo Từ điển
Bách khoa Việt Nam:
Cổ động là truyền bá một tư tưởng (bằng hình thức kêu gọi, cổ vũ) hoặc
đưa ra một hình mẫu (bằng những hình ảnh hoặc tấm gương cụ thể về
người thật, việc thật... ) cho nhiều người, nhằm động viên, hướng dẫn,
thúc đẩy hành động theo những mục tiêu nhất định. Cổ động có thể tạo
được hiệu quả rộng lớn hơn khi tư tưởng hoặc mẫu hình được nhân lên
qua các phương tiện thông tin đại chúng [40, tr.570].
Như vậy, tuyên truyền và cổ động có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với
nhau, bổ sung cho nhau; là hai mặt không thể thiếu được để nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng. Tuy phương thức tiến hành có
sự khác nhau, nhưng tuyên truyền và cổ động đều cùng chung mục đích là
phổ biến, truyền bá tri thức, giáo dục nhận thức, giải thích, vận động, tổ chức,
cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tự giác tham gia
vào các phong trào hành động cách mạng ở địa phương. Xét cho cùng cơng
tác cổ động cũng chính là cơng tác tun truyền.
1.1.1.2. Công tác tuyên truyền
Công tác, theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất:
công tác là cơng việc của Nhà nước hoặc đồn thể; thứ hai: công tác là hoạt

động, làm việc [72, tr.210]. Hoạt động sống của con người vốn rất đa dạng,
phong phú và đều có chủ đích. Cơng tác là những hoạt động của cá nhân hay
tập thể người nhằm đạt mục đích đề ra. Những hoạt động sống của con người
cho kết quả như thế nào, tích cực hay tiêu cực là tùy thuộc vào q trình hoạt
động và mục đích đề ra của con người khi tiến hành hoạt động đó. Công tác là


12
tổng hợp những hoạt động của con người nhằm hiểu biết và vận dụng sự hiểu
biết các quy luật vận động của tự nhiên và xã hội để không ngừng nâng cao
chất lượng cuộc sống theo những mục đích của chủ thể định ra.
Công tác tuyên truyền, nghĩa ban đầu là những hoạt động nhằm tác động
đến suy nghĩ, tư tưởng của người khác và định hướng hoạt động của họ. Hiểu
rộng ra công tác tuyên truyền là hoạt động có chủ đích của một chủ thể quản
lý nhằm truyền bá chủ trương, quyết sách của chủ thể đó đến các đối tượng
cần được truyền bá, từ đó tác động đến tư tưởng, tình cảm của họ, giúp họ có
suy nghĩ và hành động theo đường hướng của chủ thể.
Cuốn sách Công tác tư tưởng, do PGS,TS Đào Duy Quát (Chủ biên) định nghĩa:
Cơng tác tun truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của
công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến
lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế
giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và
củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế
giới quan và niềm tin đó [71, tr.25].
Như vậy, cơng tác tuyên truyền là tổng hợp các hoạt động với nhiều hình
thức, thơng qua việc cung cấp thơng tin có chủ đích của chủ thể truyên truyền
để tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hiệu quả hành động thực tiễn của một
đối tượng xác định, nhằm giúp họ hình thành thế giới quan, nhân sinh quan
mới trong đời sống xã hội.
Công tác tuyên truyền của Đảng, Nhà nước ta là nhằm truyền bá chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, những tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân
loại... làm cho chúng trở thành nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh
thần của xã hội; động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công tác tuyên truyền cách mạng, là những hoạt động truyền bá chủ


13
trương, quyết sách của một tổ chức cách mạng nhằm đạt được mục tiêu mà tổ
chức cách mạng ấy đề ra. Ở nước ta, hoạt động tuyên truyền cách mạng khởi đầu
là những bài viết, cuốn sách của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhằm đánh đổ thực
dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã mở
ra bước ngoặt mới của cách mạng Việt Nam. Ban Cổ động và Tuyên truyền
Trung ương được thành lập đã tuyên truyền Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt và đường lối cứu nước của Đảng để thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Công tác tuyên truyền cách mạng là một bộ phận của công tác tư tưởng
trong sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là
những hoạt động truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, quyết sách của tổ chức
Đảng Cộng sản Việt Nam để giác ngộ cán bộ, quần chúng về lý tưởng cách
mạng xã hội chủ nghĩa, về nhiệm vụ cách mạng do Đảng lãnh đạo ở từng thời
kỳ cụ thể, xây dựng niềm tin, động viên, cổ vũ các tầng lớp nhân dân theo
Đảng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp.
1.1.2. Vai trị của cơng tác tun truyền
Cơng tác tun truyền có vai trò rất to lớn trong sự nghiệp cách mạng cũng
như trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người, nó truyền bá, phổ biến hệ tư
tưởng cách mạng xã hội, trước hết là trong các lực lượng xã hội tiên tiến, khơi
dậy tính sáng tạo cách mạng của quần chúng, động viên lực lượng quần chúng
tham gia sự nghiệp cách mạng, góp phần tổ chức các phong trào cách mạng,

chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, lý luận và con người cho các cuộc cách mạng.
Công tác tuyên truyền đã trở thành công tác cách mạng và là công tác cách mạng
đầu tiên của bất kỳ giai cấp cách mạng cũng như tổ chức cách mạng nào.
Công tác tun truyền đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Chính nhờ tuyên truyền mà chủ nghĩa
Mác-Lênin thâm nhập vào quần chúng lao động, giúp họ giác ngộ về con đường
cách mạng, lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Đồng thời, thông qua việc


14
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, giáo dục về
phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, cơng tác tun truyền đã
góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Cơng tác tun truyền góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người Việt Nam có ý thức làm
chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức và sức khỏe, sống có văn hóa và tình
nghĩa, giàu lịng yêu nước và tinh thần quốc tế trong sáng.
Công tác tun truyền cịn góp phần đắc lực vào cuộc đấu tranh tư
tưởng, chính trị của Đảng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình” của
các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ
chế độ, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
1.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC TUN
TRUYỀN

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của Đảng và dân tộc
Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất, suốt đời đấu tranh không mệt mỏi cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người
ra đi để lại một di sản tư tưởng vô giá, gồm trên 27.000 tư liệu là các bài nói,
bài viết, tác phẩm lý luận… thể hiện các quan điểm sâu sắc trên nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có những tư tưởng chỉ đạo liên quan trực

tiếp đến công tác tuyên truyền của Đảng.
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục đích cơng
tác tun truyền
Suốt chặng đường bơn ba khắp năm châu tìm đường cứu nước, được tắm
mình trong phong trào cách mạng ở các nước và thấm nhuần quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh thấy rất rõ vai trị đặc biệt quan trọng của
hoạt động tuyên truyền cách mạng. Hoạt động tun truyền chính là cơng việc
thức tỉnh, giác ngộ quần chúng nhân dân về giải phóng dân tộc, xây dựng một
xã hội mới khơng cịn áp bức, bất cơng và những nhiệm vụ cần làm nhằm tạo


15
sự đồng tâm, nhất trí, liên kết mọi người với nhau, gây dựng phong trào hành
động cụ thể thực hiện các mục tiêu cách mạng đặt ra. Chính điều đó sẽ “trở
thành lực lượng vật chất”, tạo nên sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù. Năm
1927, khi tập hợp các bài giảng huấn luyện cán bộ cách mạng thành tập sách
Đường Kách mệnh làm tài liệu tuyên truyền, Hồ Chí Minh đã dẫn trích hai câu
trong cuốn sách Làm gì? của V.I.Lênin làm lời tựa để cho thấy vai trò rất quan
trọng của lý luận: “Khơng có lý luận cách mệnh, thì khơng có cách mệnh vận
động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi
trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [54, 279]. Người luôn khẳng định hoạt
động tuyên truyền cách mạng phải đi trước và phải là nhiệm vụ cách mạng đầu
tiên đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam gây dựng phong trào cách mạng.
Nhận thức được vai trị của cơng tác tun truyền đối với cách mạng Việt
Nam, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm tới
công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng, Người đã
trực tiếp mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng tại Quảng Châu (Trung Quốc); xuất
bản các ấn phẩm tuyên truyền, báo chí… nhằm phục vụ cách mạng. Mục đích
của cơng tác tun truyền theo Hồ Chí Minh:
Một là, để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, chỉ

ra cho họ phương hướng trong hoạt động thực tế
Năm 1924, trả lời phỏng vấn của phóng viên báo L'Unità, Hồ Chí Minh
thể hiện rõ thái độ tương lai của các dân tộc thuộc địa tùy thuộc vào sự
tuyên truyền và tinh thần hy sinh của mỗi nước. Sau này, trong buổi nói
chuyện tại lễ bế mạc Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Người
nhấn mạnh việc đầu tiên và cấp bách cần phải làm là đánh thông tư tưởng
của mọi người, tuyên truyền giải thích bản Cương lĩnh cho thật sâu rộng từ
Bắc đến Nam, làm cho mọi người hiểu thấu tinh thần và nội dung của
Cương lĩnh, hăng hái ủng hộ Cương lĩnh. Trong trường hợp cụ thể như khi
nói chuyện với các chiến sĩ cơng an, Người còn nhấn mạnh vai trò quan


16
trọng của giáo dục, tuyên truyền: “...vấn đề quan trọng nhất là giáo dục,
tuyên truyền cho dân, để quản lý tốt tai, mắt, miệng của dân, làm thế nào
dân giúp công an để phát hiện địch và giấu địch những điều của ta” [67,
tr.140]. Còn đối với kẻ địch, Người cho rằng tun truyền thành cơng có
thể khơng phải đánh mà vẫn khuất phục được họ.
Mục đích tuyên truyền là sự phản ánh những kết quả dự kiến cần đạt được
sau mỗi tác động hay sau khi kết thúc một q trình tun truyền. Đối với giai cấp
vơ sản, hoạt động tuyên truyền xuất hiện trước và đồng thời với sự ra đời của
Đảng Cộng sản. Nghĩa là mục đích tuyên truyền bao giờ cũng được các tổ chức
chính trị của các giai cấp, mà trước hết là do Đảng và Nhà nước trực tiếp xác định,
để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị trong mỗi giai đoạn cụ thể. Cho nên, mục đích
tun truyền khơng chỉ là những yếu tố cấu thành nên hoạt động tuyên truyền mà
còn quy định tri thức cần truyền đạt tới đối tượng, quy định các tiêu chuẩn kiểm
tra, đánh giá hiệu quả sau một chu trình tác động đến đối tượng. Đặc biệt, nó cịn
giữ vai trị quan trọng, quy định việc lựa chọn, sử dụng phương pháp tuyên truyền.
Trong hoạt động tuyên truyền, các giai cấp phải đề ra mục đích tuyên truyền sao
cho phù hợp với lợi ích và bảo vệ được quyền lợi và địa vị của giai cấp mình. Mục

đích cao nhất của hoạt động tuyên truyền là làm thay đổi nhận thức, thái độ và
hành động của đối tượng theo hướng mà người tuyên truyền cần đạt tới.
Mỗi giai đoạn cách mạng đều có những nhiệm vụ cách mạng cụ thể.
Nhưng mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam đó là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, và mục đích tuyên truyền của cách mạng Việt Nam khơng
tách rời mục tiêu đó. Theo Hồ Chí Minh: “Bây giờ mục đích tuyên truyền
huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu
tranh thống nhất nước nhà” [66, tr.161].
Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, chiến sĩ, nhân dân khi làm nhiệm vụ
tuyên truyền phải xác định thật rõ mục đích của tuyên truyền. Với cách diễn
đạt ngắn gọn, dễ hiểu, trong bài Người tuyên truyền và cách tuyên truyền


17
đăng trên báo Sự thật, số 79, năm 1947, Người giải thích: “Tun truyền là
đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt
được mục đích đó, là tun truyền thất bại” [57, tr.191].
Làm cho dân hiểu: Công tác tuyên truyền phải làm thế nào để mọi người
đều hiểu tại sao Đảng ta lại ban hành các chỉ thị, nghị quyết? Ngay sau khi ký
Hiệp định sơ bộ, ngày 6-3-1946, trước tình thế cách mạng mới, Hồ Chí Minh
đã đề ra mục tiêu chung của công tác tuyên truyền là phải tuyên truyền cho
tồn dân hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ và phải động viên
nhân dân ra sức giữ gìn nền độc lập của đất nước. Người viết: “...cần phải giải
thích cho tồn dân hiểu rõ con đường đi của Chính phủ khi ký với Pháp bản
Hiệp định sơ bộ” [56, tr.234]. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích tuyên truyền
của thời kỳ này là phải làm cho toàn dân hiểu được việc Chính phủ ký Hiệp
định sơ bộ với thực dân Pháp chỉ là một sự nhượng bộ nhất thời, vì mục tiêu
độc lập của dân tộc và cổ vũ, động viên lịng u nước của tồn thể nhân dân
trong cuộc đấu tranh giữ trọn nền độc lập ấy.
Làm cho dân nhớ: Đại bộ phận nhân dân lao động ở nước ta cho đến

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 phần lớn là mù chữ, nếu tuyên truyền bằng
lý luận cao siêu họ sẽ không hiểu được, nên mục đích tuyên truyền phải giản
dị sao cho dân nhớ được những điều cần tuyên truyền. Người chỉ rõ: “Mình
viết ra cốt là để giáo dục, cổ động; nếu người xem mà không nhớ được, không
hiểu được, là viết không đúng, nhằm khơng đúng mục đích” [60, tr.207].
Làm cho dân tin, dân theo, dân làm: Trong hoạt động tuyên truyền, Hồ
Chí Minh nhận thức sâu sắc đối với người Việt Nam, nói hay chỉ là tiền đề, là
điều kiện để hình thành niềm tin, còn hành động thực tiễn mới là yếu tố quyết
định để lôi kéo nhân dân tin và hành động theo. Do vậy, để đạt được mục đích
tuyên truyền cuối cùng là “dân theo” và “dân làm”, tức là làm cho dân tin
tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng, đi theo cách mạng và đứng lên đấu
tranh giành lại độc lập chủ quyền của đất nước, tự do cho chính mình. Hồ Chí


18
Minh chỉ rõ: “Về việc khuyến nông cũng vậy, bảo người ta đào đất trồng ngô,
trồng khoai mà lúc người ta làm mình lại ngủ thì sao được? Miệng nói tay
phải làm mới được” [56, tr.117].
Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu giữa nói và làm. Sau lễ tuyên bố
thành lập nước ngày 2-9-1945, để giải quyết nhiệm vụ cứu đói, Hồ Chí Minh
đã sử dụng nhiều bài nói, bài viết thể hiện tinh thần đồng cam cộng khổ với
nhân dân và khích lệ mọi người tìm mọi cách để vượt qua tình thế cam go lúc
bấy giờ đang cịn ngổn ngang thù trong, giặc ngồi, nạn đói, nạn dốt... Nhưng
yếu tố quyết định làm cho hoạt động tuyên truyền đạt được hiệu quả cao hơn
gấp nhiều lần so với dự kiến, chính là hành động cứu đói của Người. Tháng 91945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước ra sức cứu đói. Khi
đề nghị đồng bào cả nước, chính Người đã tự thực hành trước: "Cứ 10 ngày
nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu
dân nghèo" [56, tr.33]. Tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Người, phong trào
quyên gạo cứu đói phát triển nhanh chóng, nhân dân cả nước ta đã quyên góp
được hàng vạn tấn gạo để giúp đỡ đồng bào.

Như vậy, mục đích của tuyên truyền phụ thuộc vào mục tiêu nhiệm vụ cách
mạng ở mỗi giai đoạn lịch sử. Công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, chỉ ra cho họ phương hướng hành động đúng
để thực hiện nhiệm vụ cách mạng đề ra. Mục đích của tun truyền khơng chỉ đơn
thuần là làm cho dân hiểu, dân nhớ mà để dân theo và dân làm. Đây chính là
mục đích xuyên suốt của công tác tuyên truyền trong mọi giai đoạn cách mạng.
Hai là, tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng.
Nhiệm vụ tuyên truyền là những công việc cụ thể của công tác tuyên
truyền phải làm là hướng tới mục tiêu tuyên truyền, trong một thời gian nhất
định. Nhiệm vụ tuyên truyền phải luôn phục vụ cho việc tuyên truyền chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương trong


19
những thời điểm lịch sử nhất định. Khi dân tộc chưa giành được độc lập, Hồ
Chí Minh tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng vào
sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Người mở các lớp huấn luyện cán bộ
nhằm chuẩn bị mọi mặt về tổ chức và tuyên truyền, vận động quần chúng
nhân dân đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Trong hồn cảnh đất nước mới giành được độc lập, đứng trước vơ vàn
khó khăn thử thách, để giữ gìn nền độc lập non trẻ, chống lại sự xâm lược lần
nữa của thực dân Pháp ở nước ta, Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, động viên toàn thể nhân dân đứng lên kháng chiến chống thực
dân Pháp. Người chỉ rõ các nhiệm vụ của công tác tuyên truyền trong thời kỳ
này là phải vạch rõ âm mưu, chính sách và những hành động tàn bạo của địch;
phải giải thích cho dân chúng hiểu rõ vì sao phải trường kỳ kháng chiến; giải
thích chính sách của Chính phủ cho dân chúng rõ; cổ động, huấn luyện, bày
cho dân chúng tổ chức lực lượng của mình; kêu gọi tồn dân đoàn kết, hăng
hái tham gia và tin tưởng vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến giành độc lập

của dân tộc.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở vào những thời điểm quan
trọng, Người lại tiếp tục đề ra nhiệm vụ cho công tác tuyên truyền là phải ra
sức tuyên truyền đường lối của Đảng, tuyên truyền những thành tích của cơng
cuộc kháng chiến và kiến quốc, phải nêu gương người tốt, việc tốt. Người đã
vạch trần âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền của kẻ địch để cán bộ và nhân ta hiểu
rõ dã tâm của kẻ địch, từ đó có những biện pháp đấu tranh đập lại các luận điệu
tuyên truyền của chúng. Người nhắc nhở cán bộ không được “...xem khinh việc
tuyên truyền của địch” [60, tr.491]. Chính việc thực hiện đúng đắn mục đích
tuyên truyền của cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm cho cơng tác tuyên truyền
góp phần vào thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu...
Khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí


20
Minh đề ra mục đích của cơng tác tun truyền là cổ vũ các phong trào thi
đua yêu nước trong học tập, sản xuất, chiến đấu để xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Tóm lại, tùy thuộc yêu cầu và nhiệm vụ trong từng thời điểm cách mạng,
Hồ Chí Minh đặt ra mục đích cụ thể của công tác tuyên truyền nằm trong mục
tiêu chung của cách mạng, đó là: cổ vũ, động viên tồn thể cán bộ, quần
chúng, nhân dân hiểu đúng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và tự
giác tham gia thực hiện các phong trào cách mạng vì mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đối tượng tuyên
truyền
Khi đã xác lập được con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên

lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi” [54, tr.289]. Muốn cách
mạng thành cơng thì Đảng phải vững, muốn Đảng vững mạnh thì Đảng phải
có lý luận soi đường và tất cả cán bộ, đảng viên ai cũng phải hiểu và thực
hành được lý luận đó. Vì vậy, Đảng phải tiến hành cơng tác tuyên truyền tới
các đối tượng sau:
Một là, cán bộ, đảng viên
Cán bộ, đảng viên là những người trực tiếp thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, đồng thời cũng là những cán bộ tuyên truyền của Đảng, họ
là những người ưu tú nhất, được đào tạo, rèn luyện qua thực tiễn. Việc tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
tới đối tượng này là một yêu cầu khách quan.
Muốn cán bộ, đảng viên đều hiểu, làm theo lý luận của Đảng thì Đảng
phải tiến hành công tác giáo dục lý luận, phải tổ chức học tập lý luận trong
Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng. Người thấy rõ học tập


21
lý luận là một yêu cầu đối với Đảng ta để nâng cao trình độ lý luận chung của
Đảng. Trong bài Cần phải xem báo Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích của
tờ báo: “Tờ báo Đảng là như những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng
khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết làm về tuyên truyền, tổ chức,
lãnh đạo và công tác” [60, tr.514]. Theo Người, nghiên cứu báo Đảng giúp
nâng cao trình độ chính trị và năng suất cơng tác của cán bộ, nếu chỉ biết làm
việc mà không nghiên cứu báo Đảng, thì khác nào nhắm mắt đi đêm, sẽ lúng
túng, vấp váp, hỏng việc; Người yêu cầu: “cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng,
toàn thể đảng viên và cốt cán, cần phải xem báo Đảng” [60, tr.514].
Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng muốn hiện thực hố trong
đời sống, trước hết cán bộ, đảng viên phải là người tiên phong thực hiện và
muốn thực hiện được nó thì ai cũng phải hiểu. Cán bộ, đảng viên hiểu mới tuyên
truyền, vận động, tổ chức quần chúng thực hiện theo. Có nắm vững đường lối

của Đảng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ phải
làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện đạt mục đích của Đảng.
Hai là, các tầng lớp nhân dân
Theo Hồ Chí Minh thì cách mạng là phải lấy dân làm gốc, mỗi người
đều phải là người tuyên truyền cho cách mạng, cho nên: “Bộ đội, công an,
công nhân trong nơng trường, lâm trường, cơng trường, xí nghiệp, cán bộ
thương nghiệp, y tế, các giáo viên và tất cả cán bộ các ngành phải thấy rằng
mỗi người đều phải là người tuyên truyền chính sách của Đảng, của Nhà
nước” [66, tr.168]. Mỗi người vừa là chủ thể tuyên truyền đồng thời cũng là đối
tượng tuyên truyền. Việc xác định đối tượng tuyên truyền sẽ giúp cho công tác
tuyên truyền đạt hiệu quả cao hơn.
Đối tượng tuyên truyền của Hồ Chí Minh khơng phải duy nhất chỉ là
cơng - nông - binh, mà là tất cả nhân dân các dân tộc Việt Nam; là công chúng
rộng lớn, phức tạp về thành phần dân tộc, thành phần tôn giáo, thành phần xã
hội. Đây là lực lượng đơng đảo nhất, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng, là những người rất có tinh thần u nước, đồn kết. Tuy nhiên, trình độ


22
nhận thức giữa các đối tượng này không đồng đều, lập trường, tư tưởng cũng
khác nhau.
Là nhà lãnh đạo cầm lái con thuyền cách mạng Việt Nam, hơn bao giờ hết
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu bất cứ người dân Việt Nam nào sống dưới chế độ
áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phong kiến đều cần phải được tuyên
truyền giác ngộ cách mạng. Mỗi người dân yêu nước thương nòi đều cần trở
thành một người tuyên truyền. Có hai đối tượng mà Người rất quan tâm, đó là
nông dân và công nhân, hai lực lượng bị áp bức bóc lột nhiều nhất, chịu sự
cùng khổ nhất. Ngay từ những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Người
đã nhận thức sâu sắc vấn đề này. Trong Báo cáo gửi Quốc tế cộng sản, Người
viết: “Quần chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước.

Tuyên truyền tốt trong nông dân và tổ chức tốt trong công nhân nếu chúng ta
làm tốt được điều đó thì tương lai thuộc về chúng ta” [53, tr.221]. Mặc dù, lực
lượng công nhân ở trong nước chiếm số lượng ít, non yếu về chính trị, nhưng
trước tình cảnh họ bị bóc lột thậm tệ, Người nhận thấy vai trị của cơng nhân
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cần thiết phải tuyên truyền
giác ngộ, tổ chức họ lại. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Người viết:
“Việc cần thiết hiện nay là phải phát động một cuộc tuyên truyền rộng lớn để
thành lập các tổ chức cơng đồn ở các nước thuộc địa và phát triển các cơng
đồn hiện có dưới hình thức phơi thai” [54, tr.137]. Sự liên minh của công nhân
và nông dân là lực lượng quyết định làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng, trong đó nơng dân là chủ lực. Người quan niệm: “Cách mạng chỉ có thể
thắng lợi nếu như những làn sóng cách mạng lay động được quần chúng nông
dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Do vậy mà việc tuyên truyền của
Đảng trong nơng dân có tầm quan trọng đặc biệt” [54, tr.563-564].
Ba là, đối với kẻ thù và những người làm việc cho kẻ địch
Với đối tượng là người nước ngoài, thậm chí đối với kẻ thù, Hồ Chí Minh
ln tranh thủ thời cơ, kịp thời thuyết phục, giải thích, cảm hóa và tranh thủ sự


23
đồng tình của họ đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Khi Hồ Chí Minh
được thả ra khỏi nhà tù Quốc dân đảng ở Trung Quốc nhưng vẫn bị quản thúc, vì
chúng biết Người là lãnh tụ cộng sản nên khơng muốn thả về nước. Sau buổi trị
chuyện với Trương Phát Kh, chính lịng u nước, thương dân, đức độ và tài trí
thuyết phục của Hồ Chí Minh đã cảm hóa được Trương Phát Kh, khiến ơng ta
khơng chỉ trả lại tự do mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho Người trở về Việt Nam.
Một đối tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rất cần được tuyên truyền
giác ngộ là những người Việt Nam lầm đường làm việc cho thực dân, phong
kiến. Thấm nhuần truyền thống của dân tộc: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh
kẻ chạy lại, Người dặn dò cặn kẽ đối với những người trước đây lầm đường

theo địch như: Hội tề, ngụy binh quay về với Tổ quốc. Đó cũng là một điều
đáng mừng và phận sự của mỗi người yêu nước là phải lợi dụng mọi cơ hội,
mọi hình thức để tuyên truyền giác ngộ cho những kẻ lầm đường kia.
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung cơng tác
tun truyền
Nội dung cơng tác tun truyền là tồn bộ khối lượng tri thức mà chủ thể
cần truyền tải đến đối tượng nhằm thực hiện mục đích đặt ra; bao gồm tất cả
những tri thức khác nhau của đời sống xã hội, như: Kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội... Nội dung tuyên truyền là một phạm trù vừa mang tính lịch sử, vừa
mang tính giai cấp. Bởi lẽ, cơng tác tuyên truyền ra đời do yêu cầu phát triển
và truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Hệ tư tưởng chính là
nội dung cốt lõi của tuyên truyền trong bất kỳ chế độ xã hội nào. Nội dung
cơng tác tun truyền theo Hồ Chí Minh có những quan điểm cơ bản sau:
1.2.3.1. Tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin
Một là, tuyên truyền bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ
nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Chỉ khi nào giai cấp công nhân được trang bị hệ tư tưởng


24
Mác-Lênin thì mới làm trịn sứ mệnh lịch sử của mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin
là một học thuyết khoa học mang tính cách mạng và nhân văn triệt để. Nó chỉ
ra những quy luật vận động khách quan tất yếu của hiện thực, đặc biệt là
những quy luật từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Học thuyết đó trang bị cho giai cấp vơ sản vũ khí sắc bén về lý luận và
phương pháp để tự giải phóng mình, giải phóng nhân dân lao động và các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới thốt khỏi ách nơ dịch và bóc lột, xây dựng
một xã hội mà ở đó mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Hạt nhân khoa học tinh tuý nhất của học thuyết Mác-Lênin là phép biện

chứng duy vật mà theo Mác “về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách
mạng”. Lênin coi đó là “điểm căn bản”, là “linh hồn sống” của chủ nghĩa
Mác. Thực tiễn đã chứng minh với bản chất khoa học, cách mạng, chủ nghĩa
Mác-Lênin vẫn là thế giới quan - phương pháp luận chung nhất cho nhận thức
và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp luận
khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định:
Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ, và: “Đảng mà
khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ
nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [54, tr.289].
Hai là, tuyên truyền vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin có vai trị đặc biệt quan trọng
vì trước hết nó là cơ sở để Đảng xác định rõ mục tiêu cách mạng. Đảng muốn
lãnh đạo có hiệu quả, đưa cách mạng đến thành cơng phải đặc biệt coi trọng
công tác xây dựng Đảng; coi trọng cơng tác xây dựng, hồn thiện Cương lĩnh
chính trị, từ mục tiêu lâu dài đến mục tiêu cụ thể trước mắt của từng chặng
đường cách mạng; xây dựng, tập hợp lực lượng, lựa chọn hình thức, bước đi
và phương pháp cách mạng thích hợp; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ


25
cơ bản. Để toàn Đảng, toàn dân hiểu và thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Đảng cần phải tiến
hành công tác tuyên truyền một cách sâu rộng trong toàn xã hội.
Từ trong bóng đêm nơ lệ, trước cảnh nước mất nhà tan và khủng
hoảng về con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa MácLênin, cái cẩm nang thần kỳ cần thiết cho sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc của nhân dân ta, tìm thấy ánh sáng con đường cứu nước của dân tộc
Việt Nam. Điều đó tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống,
đang đói mà có cơm ăn; ngọn đuốc lý luận Mác-Lênin và kinh nghiệm

Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã soi sáng con đường cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản” [64, tr.30]. Từ đó,
Người vừa nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời Người ra
sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Vì thế, ngay từ khi ra
đời, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra phương hướng, đường lối cho cách mạng
nước ta. Có phương hướng đúng thì làm việc mới đúng. Chủ nghĩa MácLênin là tiền đề để có lập trường giai cấp vững vàng. Hồ Chí Minh viết:
“Muốn có lập trường vơ sản vững chắc, thì đảng viên phải có ý thức giai cấp,
đồng thời phải có lý luận cách mạng. Khơng có lý luận về chủ nghĩa xã hội
khoa học thì khơng thể có lập trường giai cấp vững vàng” [67, tr.113].
Hồ Chí Minh đã nói về tun truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin:
“Khơng nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế
này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để
cho nhà đầy rác” [67, tr.668]. Và Người kết luận: Chủ nghĩa Mác rất cao, rất
rộng, những người cách mạng phải học tập chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác
dạy chúng ta phải tuyệt đối trung thành với Đảng, phải hết lòng hết sức phục


×